Lược-Sử Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
Quốc-Kỳ Việt-Nam.
Hưng-Đạo Đại-Vương Trần-Quốc-Tuấn Thánh-Tổ Hải-Quân Việt-Nam.
Thánh-Kỳ Hải-Quân Việt-Nam
Quân-Kỳ Hải-Quân Việt-Nam
Khu-Trục-Hạm Trần-Hưng-Đạo, HQ-1 – Soái-hạm HQVNCH.
HQ-4 hải-chiến, tung-hoành giữa Hạm-đội địch, 1974. Phía sau là hai đảo Duy-Mộng và Quang-Hoà.
Hai Khu-Trục-Hạm đang hải-hành tập-đội.
Khu-Trục-Hạm tuần-dương trong sóng-gió.
Mục-Lục Lời Giới-thiệu Lời Tựa Phần I Lược-Sử Tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
Chương 1- Bối-cảnh Tổng-quát thời Khai-sinh Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. Chương 2- Giai-đoạn H́nh-thành (1952-1957). Chương 3- Giai-đoạn Phát-triển (1957-1967). Chương 4- Giai-đoạn Bành-trướng (1967-1972). Chương 5- Giai-đoạn-Trưởng-thành (1972-1974). Chương 6- Năm 1975, HQVN Đột-ngột bị Khai-tử. Chương 7- Hệ-thống Tổ-chức Tổng-quát Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. Chương 8- Tổ-chức Hành-chánh các Đại-đơn-vị và Đơn-vị tiêu-chuẩn. Chương 9- Những cái Nh́n Sử-quan. Tài-liệu Tham-khảo. Phụ-bản của Phần I 1- Tên các Giới-Chức Dân-Sự và Quân-Sự Việt-Nam liên-hệ đến Hoạt-động của HQVNCH. 2- Những Chữ viết tắt Thường dùng trong các Văn-thư Tổ-chức. 3- Đặc-tính, H́nh-ảnh Chiến-hạm, Chiến-đĩnh. 4- Các Chiến-đĩnh Giang-Lực tại Việt-Nam 1946-1953. 5- Văn-bằng Hải-Quân và Liên-Quân. 6- Huy-Hiệu các Đơn-Vị Hải-Quân và Quân-Lực VNCH. 7- Quân-phục, Cấp-Bậc, Phù-hiệu Chuyên-Nghiệp HQVNCH. 8- Huân-Chương Và Huy-chương QLVNCH & Hải-Quân. 9- Bối-cảnh Khai-sinh QĐVN (Bài viết của BTTM/Pḥng 5 /Quân-Sử). 10- Hải-Quân Việt-Nam C̣n Mất thế nào ? (Bài nói chuyện của Tác-giả về Hải-Sử). 11- Danh-bạ một số Quân-nhân Hải-Quân VNCH.
Phần II Sơ-Lược Hải-Sử Nước Ta: Hải-Quân và Nếp Sống Thuỷ-sinh trong Ḍng Sinh-mệnh Dân-tộc. Phụ-bản của Phần II
* Danh-sách Quư-vị Duyệt-lăm và Tu-chỉnh
Bản Tra-Cứu theo Mẫu-Tự.
Huy-hiệu Tổ-Quốc Đại-Dương
Lời Tựa LƯỢC-SỬ TỔ-CHỨC HẢI-QUÂN VIỆT NAM CỘNG-HOÀ
Trong giai-đoạn 23 năm (1952-1975), tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam (HQVN) đă cùng các tổ-chức quân và dân-sự khác, sát-cánh tranh-đấu nhằm bảo-vệ mảnh đất Tự-Do không để cho Cộng-Sản thống-trị. V́ lư-tưởng Quốc-Gia chống Cộng-Sản Chuyên-chế Độc-Tài Toàn-Trị, hơn 70,000 người đă từng phục-vụ dưới ngọn cờ Quân-Chủng. Hàng chục ngàn người áo trắng HQ cùng áo màu “sóng nước đại-dương” TQLC đă anh-dũng hy-sinh trên mọi miền Đất, Nước và Biển-cả của Quê-Hương yêu-dấu. Tác-giả và nhóm cộng-tác xin thành-kính tri-ân và trước-hết dâng-tặng những vị anh-hùng đă Vị-quốc Vong-thân tác-phẩm này. Nội-dung tập sách này, tuy được tŕnh-bày dưới h́nh-thức mới-mẻ hôm nay, thực ra đă từng xuất-hiện khá lâu từ năm 1978. Những bài viết khá dài như: Tóm-lược sự H́nh-thành HQVN, Truyền-Thống Hàng-hải, Chuyện Một Con Tàu: HQ-4, Hồi-kư Hoàng-Sa vv… được đăng-tải ở những tờ báo Cựu-Quân-Nhân VNCH như Huynh-Đệ, Utah và Colorado. Sau đó, người đọc có thể t́m thấy các bài viết khác của tác-giả về Sử-liệu HQVN tiếp-tục đăng trên Đặc-San Lướt-Sóng phát-hành bởi Hội Bạch-Đằng, San José trong những thập-niên 1980 và 1990. Như đă được giới-thiệu bởi Hội-Đồng Hải-Sử (bài viết đề ngày Thánh-Tổ Hải-Quân 20 tháng 8 năm Mậu-Tư, 2008): nằm bên cạnh cuốn sách Tuyển-Tập, cuốn sách Lược-Sử có tính-cách chính-sử, tóm-lược tiến-tŕnh thành-lập Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà, sự phát-triển, tổ-chức và các hoạt-động chính của Hải-Quân. Cuốn sách này có kèm theo nhiều h́nh-ảnh hoạt-động của đơn-vị và nhân-viên HQVN. Trong việc tŕnh-bày cuốn sách, nhiều h́nh-ảnh cũ đă được Tác-giả và Nhà Xuất-Bản tu-chỉnh sao cho phù-hợp với việc in-ấn và phát-hành. Tác-giả có chung một quan-niệm với Nhà Văn Đại-Dương rằng “Lịch-sử không thể viết bằng ngôn-ngữ tuyên-truyền mà phải được đối-chiếu qua dữ-kiện và thực-tế khách-quan. Muốn đấu-tranh cho dân-chủ, không thể mơ-hồ về lịch-sử. Thiếu hiểu-biết về lịch-sử người ta vô-t́nh bẻ cong ng̣i bút mà chẳng hay” (1). Thế nên mơ-ước nhỏ-bé của người viết là cố-gắng tŕnh-bày chuyện thực lịch-sử về những chàng trai-trẻ Hải-Quân Việt-Nam thời ấy (1952-1975) đă hợp-sức nhau nối lại ḍng Hải-sử đứt-đoạn của tiền-nhân, xây-dựng nên một Hải-Quân có tổ-chức chặt-chẽ với 42,000 người và đủ loại chiến-hạm chiến-đĩnh. Và đặc-biệt vào năm 1974, tuy biết rằng yếu-thế, không đủ lực-lượng tác-chiến ngoài khơi, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà cũng cương-quyết đứng lên chống Trung-Cộng (2) xâm-lấn hải-biên (3). Hậu-thế có thể nh́n vào hệ-thống chỉ-huy độc-lập và tổ-chức riêng-biệt của HQVNCH mà minh-định tinh-thần chủ-quyền của VNCH thời ngăn-chặn Cộng-Sản xâm-lược. Vào buổi giao-thời, ngôn-ngữ hàng-hải được sử-dụng trong HQVNCH cũng cần được ghi lại. Đâu đó Quư-vị thấy những danh-từ xưa có nay không, như : thuyền-kèm, tàu ḍ-nước, tàu vét-ḿn, chỉ-huy-đĩnh, vơ-đét (Vedette), vận-chuyển, hạm-phó… Một tác-phẩm với tiến-tŕnh hoàn-thành và xuất-bản chậm-chạp tới 30 năm như cuốn sách này (từ đầu năm 1978 đến nay) nói lên khả-năng hạn-hẹp của tác-giả, kể cả tinh-thần lẫn vật-chất. Cũng như đối-tượng tŕnh-bày là HQVN, tuy h́nh-thành chậm-chạp nhưng may-mắn đă có được một tinh-thần quốc-gia dân-tộc vững-chắc; thời-gian kéo dài khi thai-nghén cuốn sách cũng giúp nhiều cho Tác-giả lắng-đọng tâm-tư, bớt nhiều cảm-tính v́ xúc-động của biến-cố “đổi đời”, đồng-thời tự trau-dồi kiến-thức, học-hỏi thêm về phương-pháp và tŕnh-độ học-thuật. Sinh ra lớn lên, học-hành và phục-vụ quê-hương chính ngay trên đất-nước của ḿnh, Tác-giả chiến-đấu để bảo-tồn mạng-sống cho chính ḿnh, giữ-ǵn sinh-hoạt của gia-đ́nh ḿnh, bảo-vệ sự yên-vui cho đồng-bào ḿnh trước nạn ngoại-xâm (4). V́ cuộc sống tự-lập chẳng lệ-thuộc ai, người viết không mang mặc-cảm và cũng không hề bị ư-thức-hệ ảnh-hưởng hay tư-tưởng ngoại-lai chỉ-đạo. Là Tác-giả, chúng tôi tŕnh-bày những hoạt-động của HQVN trong chỗ đứng thực-sự của nó trong Sử-sách, cho dù thành-công hay thất-bại khi đối-đầu với kẻ-địch và cả khi đụng-chạm với đồng-minh. Hy-vọng rằng tác-phẩm này sẽ lưu lại cho hậu-sinh một vài bài-học, hay ít nhất một số tài-liệu và h́nh-ảnh hải-sử rút ra từ một thế-hệ Hải-Quân Quốc-Gia từng tự-nguyện hiến-dâng trả-nợ Dân-tộc bằng máu và nước mắt. Để tác-phẩm được ra đời, Tác-giả mượn lời Hội-Đồng Hải-Sử, chân-thành cảm-tạ cùng ghi-nhận sự đóng-góp tích-cực của quân-nhân Hải-Quân các cấp, từ các vị Đô-Đốc tới các bạn Thuỷ-Thủ, các bạn Thuỷ-Quân Lục-Chiến cùng thân-nhân, bạn-bè, các chiến-hữu thuộc các quân, binh-chủng bạn và đồng-minh ; trong việc cố-vấn, viết bài, cung-cấp tài-liệu, h́nh-ảnh, đóng-góp ư-kiến và tài-chánh, cũng như biên-tập, minh-hoạ, đánh máy, tŕnh-bày, ấn-loát, phát-hành… cuốn Hải-Sử này. Xin quư-vị và các bạn nhận ở đây lời cảm-tạ chân-thành của chúng tôi.
Vũ-Hữu-San 2008
(1) Đại-Dương, ”Giọt Lệ Dương-Thu-Hương” Bài viết phổ-biến ngày 20 tháng 5 năm 2000. (2) Hải-Quân Trung-Cộng có trên 300,000 quân là một trong ba lực-lượng Hải-Quân hùng-mạnh nhất trên thế-giới. (3) Tác-giả, nguyên là Cựu Hạm-Trưởng Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4, từng là SQ thâm-niên hiện-diện trên biển của Hạm-đội HQVN những năm 1973-1975. Riêng tại Hoàng-Sa tháng 1-1974, Tác-giả là Chỉ-Huy-Trưởng Hành-Quân giai-đoạn đầu. Ngày 19-1-1975, Tác-giả được giao chỉ-huy phân-đoàn phía Nam và kiêm-nhiệm chức-vụ Sĩ-Quan Kế-nhiệm Quyền Chỉ-Huy Hải-chiến. Một số chi-tiết về hoạt-động của HQ-4 trong trận đánh lịch-sử đó được kể sơ-lược đâu đó trong cuốn sách này. (4) Không phải bị ai thuê mướn đi đâu xa, làm ǵ khác.
Phần I Lược-Sử Tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
Chương 1
Bối-cảnh Lịch-sử Khai-sinh Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
Việt-Nam trong ngọn gió dân-chủ toàn-cầu Gần một thế-kỷ sau khi Hải-Quân Việt-Nam thời nhà Nguyễn bị tan-ră trước quân xâm-lăng người Pháp1, một Hải-Quân của Quốc-gia Việt-Nam lại ra đời.2
Chiến-thuyền thời Lê với h́nh-ảnh một khẩu thần-công cỡ lớn xuyên qua thành mũi tàu chĩa về phía trước.
Các Chiến-hạm Hải-Quân Pháp oanh-tạc Đà-Nẵng ngày 1-9-1858, mở đầu cuộc xâm-lăng nước ta.
Sau khi oanh-tạc, Hải-Quân Pháp đổ-bộ tấn-công Đà-Nẵng tháng 9 năm 1858. Không thành-công, chúng đổi kế-hoạch, tấn-chiếm Sài-G̣n.
Thực-dân Pháp dùng Hải-Quân làm mũi dùi xâm-lược Việt-Nam. Ngày 01-9-1858, tàu Pháp bắn phát súng đầu-tiên vào Đà-Nẵng, rồi chiếm Sài-G̣n. Sau đó chạy dọc theo bờ-biển đi vào sông, HQ Pháp xâm-chiếm những phần c̣n lại của Việt-Nam từ năm 1883 đến năm 1885.
Tiến-tŕnh thành-lập và phát-triển quân-chủng Hải-Quân Việt-Nam có nhiều điểm đặc-biệt không giống như hai quân-chủng bạn là Lục-Quân và Không-Quân. Trong bối-cảnh xă-hội đổi thay sau Thế-chiến II, các sử-gia nhận ra hai biến-chuyển lớn-lao đă tác-động lên số-phận của nhân-loại: - (1) nỗi bất-hạnh của 1/3 nhân-loại v́ sự bành-trướng của "Bức Màn Sắt" Cộng-Sản Stalinist3, và - (2) cơ-hội lớn-lao cho các nước Á-Phi giành lại quyền tự-do dân-chủ.4 Người Việt không những đă phải chịu nỗi bất-hạnh5 v́ ách Cộng-Sản mà c̣n mất đi luôn cái cơ-hội được làm con dân một nước dân-chủ. Trong khi tất-cả trái-đất đă im tiếng súng th́ riêng tại Việt-Nam, chiến-tranh vẫn tiếp-diễn và c̣n bành-trướng khủng-khiếp khắp cả Bắc Trung Nam, kéo dài hàng thế-hệ.
Khi Đồng-minh phản-công phe Trục, Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) gửi máy-bay oanh-tạc các căn-cứ quân-sự, chiến-hạm và thương-thuyền Nhật tại Biển-Đông. Phi-cơ Mỹ xuất-hiện trên bầu trời Vũng-Tàu và Sài-G̣n, phóng thuỷ-lôi đánh ch́m tàu Nhật.
Vào khoảng 1952 6, quân-đội Pháp c̣n hiện-diện ở Việt-Nam. Tuy vậy ảnh-hưởng của thực-dân Anh, Pháp, Đức, Hoà-Lan... đă suy-yếu hẳn trên khắp các thuộc-địa. Những luồng gió mới "quốc-gia độc-lập, thể-chế dân-chủ, sinh-hoạt tự-do" thổi mạnh trên toàn-thể thế-giới.
Khi thấy phong-trào dân-chủ tự-quyết dâng-cao khắp thế-giới, Thống-chế Juin đă nói: "...sớm muộn ǵ Pháp cũng phải buông Đông-Dương…”
Sau khi cướp chính-quyền năm 1945, giới lănh-đạo Cộng-Sản Việt-Nam (CSVN) chính-thức đặt quyền-lợi của Đảng lên trên quyền-lợi quốc-gia dân-tộc. Họ ra mặt phục-vụ cho tập-đoàn Cộng-Sản Mạc-Tư-Khoa - Bắc-Kinh. Cộng-Sản Việt-Nam bắt đầu xung-phong thi-hành nghĩa-vụ "Quốc-tế Vô-sản".7 Ở trong nước, họ tiêu-diệt mọi phần-tử quốc-gia, đưa chiêu-bài giai-cấp đấu-tranh, tàn-sát phú-nông địa-chủ, loại bỏ người trí-thức, và nguy-hiểm nhất là dập-khuôn đi theo Trung-Cộng, kẻ thù truyền-kiếp của dân-tộc.
Các Lực-Lượng Vơ-trang Kháng Pháp Khi bộ-đội Việt-Minh thành-h́nh, các đảng-phái quốc-gia cũng đă thành-lập được những lực-lượng vũ-trang. Ban đầu các lực-lượng này đă kết-hợp với chính-phủ Việt-Minh để thành-lập một Chính-phủ Liên-hiệp, nhưng Việt-Minh bởi bản-chất chỉ là một đảng Cộng-Sản trá-h́nh, nên đă không có ḷng thành-thực để tạo thế đại-đoàn-kết dân-tộc trong việc chống giặc8. Việt-Minh chỉ tạo-dựng một sự kết-hợp giả-tạo theo từng giai-đoạn. Không những vậy, họ c̣n t́m cách tiêu-diệt các đảng-phái đối-lập để nắm quyền lănh-đạo độc-tài, đảng-trị...9
Hồ-Chí-Minh và Vơ-Nguyên-Giáp hội cùng Cố-Vấn Trung-Cộng10 (bên tay phải11 của Hồ). Trên tường có hai bức ảnh. Cái lớn là của Mao-Trạch-Đông chiếm phía phải. Ảnh họ Hồ không những đă nhỏ hơn mà lại nằm phía trái.
Quân-đội Việt-Minh tuy tự-ư mang danh-nghĩa là Quân-Đội Nhân-Dân nhưng thực-chất không phục-vụ nhân-dân Việt-Nam mà chỉ là một thứ công-cụ sai-phái của đảng Cộng-Sản. Hiến-Pháp do họ viết ra đă quy-định rơ-ràng: “Quân-đội nhận lệnh trực-tiếp từ Đảng.”12 Khi thực-hiện kế-hoạch, Hồ-Chí-Minh và đảng của Ông áp-đặt nền một thứ nền “dân-chủ tập-trung” theo Xă-hội Chủ-nghĩa Mác-Lênin, dùng cả bạo-lực thông qua Hiến-Pháp và guồng-máy quyền-lực do họ tạo ra.13
Quốc-Trưởng Bảo-Đại (H́nh trong Tem thơ 1 đồng 20 xu). Lưu-ư h́nh con rồng chính là một yếu-tố mẫu-mực cho các huy-hiệu của HQVN thời thành-lập.
Nhiều thanh-niên Việt-Nam yêu-thích tự-do, ôm mộng hải-hồ, có tinh-thần quốc-gia dân-tộc, không chấp-nhận Cộng-Sản độc-tài đảng-trị, chẳng muốn làm tay-sai cho Nga-Hoa; đă gia-nhập Hải-Quân Việt-Nam (HQVN).
Các H́nh-ảnh đầu-tiên về HQVN có biểu-tượng Rồng-Tiên truyền-thống dân-tộc.
Lúc đó, t́nh-trạng chính-trị tại các nước Anh, Pháp rất bất-ổn. Tại Pháp-Quốc, nhiều chính-phủ theo nhau đổ liên-tiếp. Khi người Pháp nhận-thức được sức mạnh của tinh-thần quốc-gia dân-tộc, họ đă phải trả một giá đắt cho cuộc chiến-tranh và đành rút-lui ra khỏi những nước Đông-Dương cũng như tại các thuộc-địa khác ở Bắc-Phi. Cho đến 1958,14 Tổng-Thống Pháp De Gaulle phải chính-thức nh́n-nhận quyền tự-trị của các dân-tộc xưa kia thuộc Pháp. Hải-Quân Việt-Nam, một số từng hành-thuỷ, nay có nhiều dịp xuất-ngoại, tiếp-xúc với với thế-giới bên ngoài nên tầm nh́n có phần rộng-răi và ư-thức về tinh-thần dân-tộc cao.15
Mang trong người ḍng máu Việt, với truyền-thống hàng-hải chảy mạnh trong huyết-quản kể từ những ngày Lạc-Việt viễn-dương đi khắp nẻo biển-trời, những chàng trai ấy đă hợp-sức nhau nối lại ḍng Hải-sử đứt đoạn của tiền-nhân, xây-dựng nên một Hải-Quân hùng-mạnh16. Và đặc-biệt vào năm 1974, tuy biết rằng yếu thế, không đủ lực-lượng tác-chiến ngoài khơi, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà (HQVNCH) cũng cương-quyết đứng lên chống Trung-Cộng17 xâm-lấn hải-biên.
Công-Lao Của Cộng-Sản VN dâng cho Thiên-đàng Cộng-sản Người Cộng-Sản Việt-Nam tự-nhận những "Công-Lao Kháng-Pháp, Diệt-Mỹ" là của riêng họ. Báo chí quốc-tế kể rằng khi thăm-viếng Thái-Lan, Thủ-Tướng Phạm-Văn-Đồng khoe-khoang chiến-thắng 1975, đại-ư nói rằng nhờ có sự sáng-suốt của đảng CSVN mà họ toàn-thắng, cho dù đă phải hy-sinh nhiều triệu người, nay đất-nước đă thống-nhất. “Chúng tôi tự hào v́ đă đánh thắng 3 đế quốc to”. Nhà Vua Thái-Lan sau khi chúc mừng viên Thủ-Tướng Cộng-Sản một cách rất ngoại-giao, đă điềm đạm đáp lời: “Thái-Lan chúng tôi th́ lại tự hào v́ không phải đánh nhau với đế quốc to nào cả”.18 Nhận-định về những sai-lầm và tội-lỗi của đảng CSVN đối với dân-tộc Việt-Nam, Hoà-Thượng Thích-Quảng-Độ viết như sau: "Sau chiến-tranh thế-giới lần thứ hai, hầu-hết các nước thuộc-địa ở Á-Châu đều được độc-lập và đa-số chẳng theo phe nào, cho nên dân các nước ấy được sống trong hoà-b́nh để xây-dựng đất-nước và củng-cố nền độc-lập c̣n non-trẻ của họ, chỉ có nước Việt-Nam là khốn-khổ v́ chiến-tranh tàn-phá suốt hai mươi chín năm trời (1946-1975) là bởi những người Cộng-sản Việt-Nam đă đưa vận-mệnh của nước Việt-Nam ràng-buộc vào sự sống-c̣n và quyền-lợi của phe Cộng-Sản quốc-tế. Giá như những người thời ấy không v́ đảng Cộng-sản quốc-tế mà v́ dân-tộc thật-sự, như những Nehru của Ấn-Độ, Sukarno của Nam-Dương hay Nasser của Ai Cập v.v… th́ dân-tộc Việt-Nam đă có thể tránh được hai mươi chín năm chiến-tranh ư-thức-hệ Quốc / Cộng tương-tàn do các thế-lực ngoại-bang chi-phối."19
Việc Điền-khuyết Lịch-Sử Cộng-Sản đă kiểm-soát được toàn-thể Việt-Nam vào 1975, sau 30 năm chiến-tranh. Kẻ thắng trận có cơ-hội để nói lớn, tuy vậy không phải tất cả những ǵ kẻ thắng nói ra đều đúng với sự-thật. Tập lược-sử này có chút tham-vọng ghi-chép lại một số sự thật lịch-sử mà người dân Việt chúng ta cần được đọc và biết về những biến-chuyển của HQVNCH. Tổ-chức này bao-gồm những người vừa mang nặng truyền-thống hàng-hải của tiền-nhân, vừa quyết-tâm bảo-vệ quyền tự-do của con người, mang thân ḿnh bảo-vệ xứ-sở chống độc-tài Cộng-Sản. 30 tháng 4 năm 1975, mảnh đất Tự-do cuối-cùng ở Miền-Nam bị Cộng-Sản chiếm nốt. Thành-bại lẽ thường, nhiều người lính thuỷ mất biển, mất nước, mất tàu; đành di-tản ly-hương để giữ lấy cuộc sống tự-do, khỏi làm kiếp tù-nhân dưới chế-độ Cộng-Sản bạo-tàn. Việc điền-khuyết lịch-sử là một việc làm lớn-lao, cuốn sử-liệu này xin khiêm-nhường đóng-góp một phần nhỏ-bé tài-liệu về tổ-chức của Hải-Quân VNCH. Đi theo chiều-hướng biên-niên, cuốn sách lược-duyệt các biến-chuyển quân-chủng theo sóng triều chiến-trận, cùng nhân-lực và thành-quả của nó lên xuống với thời-gian, từ năm 1952 đến năm 1975. Hiện-diện trên một khúc quanh của lịch-sử 23 năm, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà cho dù đă mất, nhưng đương-nhiên đă đóng trọn-vẹn một vai-tṛ. Đó là v́ trách-vụ, mà người lính biển không thể nh́n thấy cái sợi dây truyền-thống hàng-hải của Ông Cha bị đứt đoạn mà không t́nh-nguyện đem thân làm cái gạch nối cho thế-hệ ngày mai. Người đời sau khi duyệt lại cách-thức tổ-chức của HQVNCH sẽ đương-nhiên nhận ra những nét đặc-thù, mang tính-chất độc-lập của một Hải-Quân Quốc-gia có chủ-quyền và mang đầy hùng-khí của tiền-nhân từ thời đóng thuyền đi dựng-nước. Nh́n về những thành-quả 23 năm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà để t́m hiểu, chúng tôi xin đề-nghị tạm chia khoảng thời-gian đó thành 4 giai-đoạn như sau: - Giai-đoạn h́nh-thành (1952-1957) và những khó-khăn khi dựng lại cờ Tổ-Quốc. - Giai-đoạn phát-triển (1957-1967) cho dù thiếu-thốn phương-tiện. - Giai-đoạn bành-trướng (1967-1972) bộc-phát theo nhu-cầu chiến-trường. - Giai-đoạn-Trưởng-thành (1972-1975) hoàn-thiện về tổ-chức và đột-ngột bị khai-tử khi Cộng-Sản Bắc-Việt chiếm Miền-Nam.
Huy-hiệu Hải-Quân Việt-Nam trên vành đai mũ Đoàn-Viên và trên ngực áo các quân-nhân HQVNCH khi tham-dự các buổi thao-diễn hay tranh-đua thể-dục thể-thao.
Huy-hiệu HQVN thường để trên bàn làm việc.
Môi-trường Hải-Quân và Hàng-Hải Thương-Thuyền giúp thanh-niên nhiều dịp viễn-du, học-hỏi thế-giới bên ngoài.
…Lần cuối-cùng ngửa mặt nh́n Tổ-Quốc yêu-thương Dưới chân tượng-đài Thuỷ-Quân Lục-Chiến… Thơ Trần-Trung-Đạo.
Chương 2
Giai-Đoạn H́nh-Thành (1952-1957)
Sự Thành-lập Hải-Quân Việt-Nam Nhu-cầu cuộc chiến Quốc-Cộng đưa đến sự thành-lập Hải-Quân Việt-Nam. Sau nhiều đ́nh-hoăn, Hải-Quân Việt-Nam được khai-sinh ngày 6-3-1952 bởi dụ số 2.20 Cũng như Không-Quân chỉ-huy bởi Ban Không-Quân, Hải-Quân được chỉ-huy đầu-tiên bởi Ban Hải-Quân (Section Marine), sau đổi thành Pḥng Hải-Quân (Département Marine) thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam21 (Bộ TTM/QĐQGVN).
Hải-Quân Việt-Nam không những đă sinh sau, mà c̣n lớn chậm hơn so với Lục-Quân và cả Không-Quân nữa.22 Trong cái rủi cũng có cái may. Hải-Quân Việt-Nam sinh-trưởng vào đúng giai-đoạn tinh-thần dân-tộc tự-quyết trên toàn thế-giới nói chung và tại Việt-Nam nói riêng, đang dâng-cao. Trong khi đó, bộ mặt thật phi-dân-tộc của đảng Cộng-Sản Hồ-Chí-Minh đă hiện nguyên-h́nh23. Khi nhập-ngũ, các người lính thuỷ hơn ai hết là những thanh-niên có lập-trường quốc-gia vững-chắc, trọng Danh-dự, quyết-tâm bảo-vệ Tổ-Quốc Đại-Dương. Có nhiều lư-lẽ mà nguyên-nhân chính là v́ người Pháp không thực-tâm muốn cho Quốc-gia-Việt-Nam có một Hải-Quân riêng-rẽ. Hai diễn-biến được ghi-nhận như sau: - Nghị-định thành-lập Hải-Quân Việt-Nam đă bị hoăn lại nhiều lần trước khi được chính-thức ban-hành. - Khi đă bắt-buộc phải cho Hải-Quân Việt-Nam ra đời, người Pháp c̣n cản-trở sự lớn-mạnh của tổ-chức này.
Những ngày đầu Không-Quân Việt-Nam nhận nhiệm-vụ quan-sát không-thám.
Sơ-đồ Hệ-thống Tổ-chức Quốc-pḥng Quốc-gia Việt-Nam năm 195224.Hải-Quân Việt-Nam chỉ là một Ban Hải-Quân nhỏ-bé (Section Marine), sau đổi thành Pḥng Hải-Quân (Département Marine) trực-thuộc TTMT. Trên thực-tế, măi cho đến năm1956, Sĩ-Quan HQVN mới được chỉ-định làm Trưởng-Pḥng. Đó là HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ.
Trong Sơ-đồ Tổ-chức của Bộ TTM/QĐQGVN, Hải-Quân Việt-Nam chỉ là một Ban Hải-Quân nhỏ-bé trực-thuộc TTMT.
Đáng lẽ hai loại Dương-Vận-Hạm và Khu-Trục Hộ-Tống-Hạm25 theo chương-tŕnh đă được chuyển-giao ngay từ 1955, nhưng người Pháp cố-ư lờ đi. Trong bảng đề-nghị vào tháng 4 năm 1951 của Phó-Đô-Đốc Paul-Ange-Philippe Ortoli26, Tư-lệnh Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông27; người ta c̣n thấy có cả việc thành-lập một Phân-Đoàn Thuỷ-phi-cơ cho Hải-Quân Việt-Nam vào năm 1955. Cho đến khi quân-đội Pháp rút-lui hết, những sự việc dự-trù này đă không bao-giờ xảy ra.
Thuỷ-phi-cơ 3 động-cơ Bizerte Br521 của Hải-Quân Pháp
- Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp rất có tư-cách, nhưng một số nhỏ nhân-viên cấp dưới có những ư-nghĩ không tốt, đă phá-hoại các trang-cụ trước khi trao cho Việt-Nam. - Trong nghi-lễ chính-thức, tuy chiến-hạm được chuyển-giao, nhưng Hạm-Trưởng vẫn là Sĩ-Quan người Pháp và Quốc-kỳ cũng vẫn là Quốc-kỳ Pháp. Tranh-chấp có liên-hệ tới danh-dự quốc-gia như vậy xảy ra khá lâu và chỉ chấm-dứt hẳn vào năm 1956. - Diễn-tiến việc thành-lập và phát-triển HQVN chịu ảnh-hưởng chính-trị. Mỗi khi có sự bất-đồng chính-kiến giữa hai chính-phủ Pháp và Việt, diễn-tiến bị chậm lại. Đến khi Việt-Nam nắm được hoàn-toàn chủ-quyền th́ Hải-Quân Pháp ngưng ngay việc chuyển-giao chiến-cụ.
Khó-khăn về Nhân-sự lúc Ban-đầu. Ngoài chính-sách của người Pháp, những khó-khăn về nhân-sự Việt-Nam cũng đáng kể là nguyên-do đă gây trở-ngại cho Hải-Quân lúc sơ-khai. Nếu không kể Hải-Quân thời Hùng-Vương28/Đông-Sơn và Hải-Quân nhà Thục thời Cổ-Loa-Thành29, xuất-hiện hàng thiên-niên-kỷ trước Công-nguyên, th́ riêng Hải-Quân nước ta thời-kỳ tự-chủ kể từ khi Ngô-Vương-Quyền dựng nước, cũng đă tồn-tại hơn một ngàn năm. Tuy vậy v́ hoạ thực-dân Pháp kéo dài gần trăm năm, lực-lượng này bị tan-ră và gián-đoạn. Vào đầu thập-niên 1950 khi gặp được thời-cơ tốt-đẹp, Hải-Quân Việt-Nam được tái-sinh. Tuy thừa-hưởng truyền-thống quân thuỷ Hùng-Vương qua Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê, Nguyễn; nhưng không thể nào trong khoảnh-khắc, Quốc-gia ta có đầy-đủ ngay số-lượng cán-bộ và đoàn-viên để điều-hành tàu-thuyền chiến-đấu.30 - 1950 - Một số nhỏ thanh-niên Việt-Nam được tuyển-mộ và gởi sang Pháp, học ngắn-hạn tại trường Sĩ-Quan Hải-Quân Brest. Nhưng không may vào năm đó, thời-tiết của Miền-Bắc nước Pháp đột-nhiên trở nên giá-lạnh khác-thường, khoá-sinh Việt-Nam không đủ sức để chịu-đựng khổ-nhọc khi huấn-luyện ngoài khơi. Sau cùng tất cả đành bỏ-dở khoá học và không có Sinh-Viên Sĩ-Quan (SVSQ) nào tốt-nghiệp.31
Trống Đồng ghi-khắc H́nh-ảnh Thuỷ-quân thời Hùng-Vương. Thuyền thời đó đă được trang-bị bánh-lái và cây xiếm.
- 1951 - Dự-án về một Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Việt-Nam được khởi-xướng. Cũng trong năm này, có chương-tŕnh dự-trù thành-lập hai đơn-vị chiến-đấu, nhưng kết-quả không có đơn-vị Hải-Quân nào thực-sự thành-h́nh. - Cùng năm 1951, tiếp-theo đề-nghị Ortoli đă nói ở trên, Bộ-Trưởng Hải-Quân Pháp lại hoạch-định một chương-tŕnh rộng-răi hơn để trang-bị chiến-hạm cho Việt-Nam. Bộ này dự-trù: * chuyển-giao 1 Hộ-Tống-Hạm loại Chamois class, 647 tấn năm 1952. * kiến-trúc thêm hai Khu-trục Hộ-Tống-Hạm mới, loại Le Corse class, 1,290 tấn và 4 Trục-Lôi-Hạm loại Sirius Class 365 tấn cho Việt-Nam tiếp-theo sau đó. Phó-Đô-đốc Ortoli nhân đà "rộng-răi" của Bộ-Trưởng Hải-Quân, xin thêm cho Việt-Nam ngân-khoản xây-cất cơ-sở huấn-luyện Đoàn-viên và huấn-luyện Sĩ-Quan. Ông đề-cập luôn cả việc kiến-trúc chiến-hạm ngay tại Việt-Nam.32
Theo chương-tŕnh năm 1951, Bộ Hải-Quân Pháp dự-trù trang-bị cho Việt-Nam hai Khu-trục Hộ-Tống-Hạm Cao-Tốc loại Le Corse class, 315ft với máy Gear Turbine 20,000 mă-lực, vận-tốc 27 gút33.
Sơ-đồ và đặc-tính Khu-Trục-Hạm loại Le Corse của HQ Pháp.
Năm 1950, Thống-tướng De Lattre de Tassigny nhận quyền chỉ-huy Quân-Đội Viễn-chinh kiêm Cao-Ủy Pháp tại Đông-Dương. De Lattre đă sắp-đặt lại bộ-máy chiến-tranh, không để cho Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân cũng như Không-Quân được đứng biệt-lập như trước và phải tập-trung vào quyền chỉ-huy trực-tiếp của Ông.34
Thống-tướng De Lattre de Tassigny thăm-hỏi các Sĩ-Quan Pháp sau khi nhận quyền Cao-Ủy.
HKMH Arromanches được trang-bi 2 phi-đội Hellcat là chiến-hạm chủ-lực của HQ Pháp tại Viễn-Đông, đang neo tại vịnh Hạ-Long.
Khi tập-trung quyền-hành lại một mối như vậy, De Lattre không tán-thành một tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam đứng riêng-rẽ với Hải-Quân Pháp. Sau này đến lượt chính Phó-Đô-đốc Ortoli cũng ngần-ngại thi-hành ngay cái đề-nghị trước (đă được chấp-thuận) của ḿnh. Lư-do là Hải-Quân Pháp bắt đầu gặp trở-ngại việc tuyển-mộ người cho Hải-Quân của họ. Nếu như Hải-Quân Việt-Nam thành-lập và bành-trướng, Ortoli sẽ thiếu-hụt quân-số.35
HQ Pháp cũng tuyển-mộ người Việt-Nam cho các Lực-Lượng Hải-Quân của họ.
V́ những biến-chuyển như thế, từ khi Dụ số 1 ra đời qua suốt hai năm 1950 và 1951, chương-tŕnh không tiến-triển. Đến tháng 11-1951, công-cuộc xây-cất Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang mới lại bắt đầu.
Cấp-bậc Hải-Quân Pháp trên tay áo
Cấp-hiệu Hải-Quân Pháp từ Thuỷ-Thủ đến Đô-Đốc, mang trên tay áo của quân-phục mùa đông.
Quang-cảnh một buổi lễ trên HKMH Arromanches, có treo quốc-kỳ Việt-Nam.
Nhân-viên và Trang-bị lúc sơ-khởi Năm 1952, 350 thanh-niên Việt-Nam được Hải-Quân tuyển-mộ. Phần lớn khoá-sinh thụ-huấn tại Việt-Nam: - Một số Đoàn-Viên được chọn trong nhóm thanh-niên đó đi học Hạ-Sĩ-Quan. - 9 Cựu Sĩ-Quan Hàng-hải Thương-thuyền được tuyển vào học khoá 1 Sĩ-Quan Hải-Quân. - Cũng vào giữa năm 1952, Hải-Quân tuyển một số Sinh-Viên gởi sang thụ-huấn tại trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp. Đây thực-sự là những thành-phần thuần-túy đầu-tiên36 của Hải-Quân Việt-Nam. Các khoá huấn-luyện trên bờ đầu-tiên ở Nha-Trang như dự-trù, được mở từ tháng 7-1952.
Bức h́nh các Học-Viên VN chụp ngày 1-7-1952 tại TTHL/HQ Nha-Trang.
Các SVSQ Hồ-Tấn-Quyền, Nguyễn-Văn-Lịch và 3 Học-Viên Thuỷ-Thủ.
Trong khi đó, Khoá 1 Sĩ-Quan Hải-Quân được gửi huấn-luyện trên biển. Ngày 1 tháng 10 năm 1952, khoá 1 măn-khoá37 với hầu-hết là các Cựu Sĩ-Quan Hàng-Hải Thương-thuyền.38. Có 6 Sĩ-Quan ngành chỉ-huy (các Ông Lê-Quang-Mỹ, Trần-Văn-Chơn, Lâm-Nguơn-Tánh, Chung-Tấn-Cang, Trần-Văn-Phấn, Hồ-Tấn-Quyền) và 3 Sĩ-Quan ngành cơ-khí.39 (các Ông Đoàn-Ngọc-Bích, Nguyễn-Văn-Lịch, Lương-Thanh-Tùng). Trừ HQ Thiếu-Úy Lê-Quang-Mỹ sắp đến ngày thăng-cấp Trung-Uư, các Sĩ-Quan tốt-nghiệp Thiếu-Úy. Trước khi về trường, Khoá 1 đă được huấn-luyện khoảng 6 tháng trên các chiến-hạm Pháp như Savorgnan de Brazza, Dumont d'Urville và Arromanches40.
6 Tân Sĩ-Quan HQVN tốt-nghiệp Khoá 1 trong quân-phục mùa hè (từ trái sang phải: các Ông Nguyễn-Văn-Lịch, Chung-Tấn-Cang, Lâm-Nguơn-Tánh, Trần-Văn-Chơn, Đoàn-Ngọc-Bích và Trần-Văn-Phấn). Ngày 12 tháng 7 năm 1952, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang bắt đầu Khoá 1 Thuỷ-thủ chuyên-nghiệp gồm 150 khoá-sinh41 và sau đó 25 khoá-sinh ưu-tú được lựa-chọn để theo học Khoá 1 Hạ-Sĩ-Quan.
H́nh-ảnh lưỡng-long (2 con rồng) và Quốc-kỳ (3 sọc vàng) thường thấy trong những mẫu biểu-tượng truyền-thống lịch-sử của HQVN thời-kỳ thành-lập.
Theo tập-tục lâu đời của Hải-Quân Pháp, trong nhiều năm khởi-đầu của HQVN, Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Việt-Nam cũng ngủ trên vơng. Ban ngày, các vơng được xếp lại nên pḥng ngủ dưới chiến-hạm và trên quân-trường rất quang-đăng.
Tranh Hí-Hoạ: Tàu ch́m, mang vơng đi theo vẫn thảnh-thơi!
Diễn-tiến tại Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang Khoảng tháng 10 năm 1952, việc xây-cất cơ-sở đă tạm xong, trường đủ chỗ để nhận thêm khoá-sinh. Ngày 1 tháng 11 năm 1952, Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang khai-giảng Khoá 2 Sĩ-Quan Hải-Quân, gồm 12 Sinh-Viên Sĩ-Quan ngành Chỉ-huy và 4 Sinh-Viên Sĩ-Quan ngành Cơ-khí. Khoá này măn-khoá vào tháng 5 năm 1953. Các Ông Đinh-Mạnh-Hùng, Nghiêm-Văn-Phú, Nguyễn-Văn-Kinh, Vơ-Văn-Chơn, Nguyễn-Hữu-Tiễng, Đỗ-Quư-Hợp, Nguyễn-Văn-Thu, Ngô-Khắc-Luân, Khương-Hữu-Bá, Trương-Ngọc-Lực42, Phùng-Nhật-Tân, Nguyễn-Văn-Trụ, Nguyễn-Duy-Lung...43 tốt-nghiệp khoá này.44 Khoá 3 Sĩ-Quan Hải-Quân nhập-học tháng 7 năm 1953 và măn-khoá vào tháng 1 năm 1954. Các Ông Nguyễn-Văn-Thông, Diệp-Quang-Thuỷ, Vũ-Đ́nh-Đào, Nguyễn-Hữu-Chí, Nguyễn-Thanh-Châu, Phan-Văn-Cổn, Bùi-Kim-Nguyệt, Trần-Phước-Dũ... thuộc khoá này. Kể từ khoá 4 về sau, thành-phần các ứng-tuyển-viên Hàng-hải Thương-Thuyền giảm bớt. Những Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân Nha-Trang nhiều người là dân-chính, từng làm giáo-sư, sinh-viên đại-học. Các Ông Nguyễn-Văn-Ánh, Hồ-Văn Kỳ-Thoại, Nguyễn-Xuân-Sơn, Nguyễn-Bá-Trang, Đặng-Trần-Du... thuộc khoá này. Khoá 5 Sĩ-Quan Hải-Quân nhập-học tháng 07 năm 1954, măn-khoá tháng 05 năm 1955. Các Ông Nguyễn-Viết-Tân, Hoàng-Cơ-Minh, Hà-Văn-Ngạc, Nguyễn-Văn-May... thuộc khoá này. Về phần Huấn-luyện Hạ-Sĩ-Quan, lúc đầu Hải-Quân không mở thẳng những cuộc thi-tuyển từ ứng-viên dân-chính. Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang được uỷ-thác quyền chọn-lựa các thuỷ-thủ học-viên xuất-sắc nhất để đào-tạo thành các Hạ-Sĩ-Quan chuyên-nghiệp.45 Cho tới năm 1953, Việt-Nam vẫn chưa có tàu. Các tân Sĩ-Quan và Thuỷ-thủ Việt-Nam tập-sự trên các chiến-hạm của Pháp. Một số các Ông Cao-Hữu-Vinh, Nguyễn-Văn-Mạch, Nguyễn-Đức-Thâm, Nguyễn-Văn-Tư... sau này được gửi sang Pháp học các lớp Cao-Đẳng Chuyên-nghiệp tại các trường Brest, Toulon, Cherbourg, Paris... Các Khoá-học SQHQ tại Pháp Vào giữa năm 1952, Hải-Quân thi-tuyển một số Sĩ-Quan Sinh-Viên du-học bên Pháp. Có bốn khoá Sinh-Viên Sĩ-Quan học Trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp tại Brest (1952, 1953, 1954, 1955). Chương-tŕnh dự-trù 3 năm gồm có 2 năm học lư-thuyết ở trường, một năm thực-tập trên Tuần-Dương-Hạm Jeanne d'Arc cho 2 khoá đầu.46 Từ khoá 3, chương-tŕnh này thay-đổi. Sau khi Hiệp-định Genève chia-cắt đất-nước vào năm 1954, vấn-đề ngoại-giao Việt-Pháp gặp khó-khăn. Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân Brest bị gửi về Việt-Nam vào 1956 sau hai năm học. Khoá thứ 4 cũng vậy, Sinh-viên chỉ học lư-thuyết rồi hồi-hương. Hải-Quân Pháp không cho họ thực-tập ngoài khơi năm sau cùng.
Không-ảnh Hải-Quân Học-Hiệu Brest của Pháp H́nh nhỏ: Hai Huy-Hiệu của trường.
Bảo- tàng-viện Hải-Quân Brest.
Khoá 1 Brest có các Ông Đặng-Cao-Thăng, Nguyễn-Vân, Nguyễn-Đức-Vân, Vương-Hữu-Thiều ngành chỉ-huy và Ông Nguyễn-Gia-Định ngành cơ-khí.47 Khoá 2 có các Ông Dư-Trí-Hùng, Nguyễn-Ngọc-Quỳnh, Vũ-Xuân-An, Hồ-Ngọc-Ngà, Trịnh-Xuân-Phong, Bùi-Tiến-Rũng, Ủ-Văn-Đức, Bùi-Văn-Lễ... Khoá 3 có các Ông Phạm-Văn-Sanh, Bùi-Hữu-Thư, Lê-Phụng, Nguyễn-Quang-Dật, Đỗ-Kiểm, Trịnh-Quang-Xuân, Vũ-Nhân48, Đỗ-Ngọc-Oánh, Phạm-Cừ, Đặng-Đ́nh-Hiệp. Khoá 4 có các Ông Nguyễn-Địch-Hùng, Lê-Triệu-Đẩu, Vơ-Duy-Ninh, Nguyễn-Tiến-Ích, Trần-Văn-Sơn... Ở Pháp c̣n có các khoá Hành-chánh Tài-chánh (Commissaire) ở Toulon. Các khoá này học một năm và một năm thực-tập tại các Dépôt của Pháp. Khoá đầu có các Ông Đỗ-Đăng-Công và Trần-Văn-Tất. Khoá hai có Ông Phạm-Trung-Giám. Tốt-nghiệp khoá Hành-chánh Tài-chánh ở Cherbourg năm 1956 có Ông Trần-Văn-Biểu. Du-học lâu năm hơn tại Pháp có một số Y-sĩ Hải-Quân Việt-Nam theo học và tốt-nghiệp trường Quân-Y Hải-Quân và Thuộc-địa (École de Santé Navale et Coloniale) ở Bordeaux vào cuối năm 1956.49 Đó là các Ông Phạm-Vận, Dương-Hồng-Mô, Trần-Nguơn-Phiêu, Đặng-Tất-Khiêm, Nguyễn-Văn-Nghĩa và Nguyễn-Phúc-Quế.50
Y-sĩ Hải-Quân Đại-Tá Trần-Nguơn-Phiêu trong quân-phục tác-chiến (cấp Trung-Tá) . Huy-Hiệu Quân-y của HQVN và của TQLC/VN.
Hải-Quân Pháp và Hải-Đoàn Xung-phong Trong nhiều thế-kỷ dùng tàu chiến đi xâm-lăng, Hải-Quân Pháp đă sử-dụng giang-đĩnh trên nhiều chiến-trường tại Á-Châu và Phi-Châu. Quân-đội viễn-chinh cần có các chiến-đĩnh tầm nước nông-cạn để đi b́nh-định và giữ an-ninh sông-rạch những vùng ngập-nước. Tại thuộc-địa, giới-chức nắm quyền quân-sự thường-thường là các Đô-Đốc, đôi khi nắm luôn cả chức Thống-Đốc hay Toàn-Quyền. Hải-Quân luôn-luôn có ưu-thế quyền-lực hơn Lục-Quân51. Sau Thế-chiến 2, t́nh-h́nh chính-trị và quân-sự ở Việt-Nam biến-đổi nhanh-chóng. Vào cuối thập-niên 1940 sang đầu thập-niên 1950, các trận địa-chiến ác-liệt lan-tràn khắp nơi. Quyền-lực của Hải-Quân Pháp suy-giảm hẳn so-sánh với Lục-Quân của họ.
Quyền-lực của Hải-Quân Pháp tại Việt-Nam bị suy-giảm khi Đô-Đốc Georges Thierry d’Argenlieu (trái) bị thay-thế bởi Cao-Ủy Emile Bollaert và Tướng Leclerc ngày 5-3-1947 (h́nh giữa).
Khi đoàn quân của Pháp theo chân quân Anh đến giải-giới quân-đội Nhật-Bản tại miền Nam-Việt-Nam năm 1945, Tướng Philippe Leclerc, Tư-Lệnh quân viễn-chinh Pháp, đă thi-hành kế-hoạch chiếm-đóng các tỉnh-lỵ quan-trọng trên sông Cửu-Long. Quân Pháp bắt-đầu kiểm-soát Mỹ-Tho, rồi từ đó đi Vĩnh-Long và sang Cần-Thơ. V́ đường-xá và cầu-cống dẫn đến các địa-điểm trên bị phá-huỷ, sự di-chuyển của lục-quân trên bộ rất khó-khăn; Pháp đă sử-dụng Lữ-Đoàn Hải-Quân Bộ-Chiến (Fusilier Marins). Phương-tiện di-chuyển của đoàn quân này là các chiến-đĩnh loại đổ-bộ do Hoa-Kỳ hay Anh-Quốc trang-bị (dự-trù sử-dụng trong các cuộc hành-quân đổ-bộ chống Nhật tại Đông-Dương).52
Hải-Quân Bộ-Chiến -Fusiliers Marins- là một binh-chủng lâu-đời của HQ Pháp- H́nh trên là một nhóm Fusiliers Marins trong Thế-Chiến 1 (1914) - Photo collection Norbert Desgouttes.
Lữ-Đoàn Hải-Quân Bộ-Chiến này là tiền-thân của các Hải-Đoàn Xung-phong (DINASSAUT - Division Navale Assaut, gọi tắt là Dina). Ngoài LCVP, LCM, LCT, LSSL, LSIL mà người ta thường thấy; c̣n có những loại chiến-đĩnh ít được biết như EA, LCA, MFV, cả Xà-lan vơ-trang. Kỳ-lạ hơn nữa, Pháp đă dùng các ghe buôn, thuyền đánh-cá kiểu Á-đông rồi gắn những tấm giáp sắt, thiết-trí các loại súng đại-bác và liên-thanh để tác-chiến.
Có cả Pháo-hạm của Anh LCG (Landing Craft, Gun) trong Dina.
Ngoài LCVP, LCM, LCT, LSSL, LSIL...; Hải-Quân Pháp c̣n sử-dụng cả Xà-Lan Bọc Sắt Armoured Barge, Tàu Cá MFV (Motor Fishing Vessel), Thuyền Vơ-trang (Armed Junk). Sau khi Hải-Quân Pháp thành-lập được Lữ-Đoàn Hải-Quân Bộ-Chiến53, Hải-Quân Trung-Tá François Jaubert54 đă chiếm-đóng các tỉnh vùng châu-thổ Cửu-Long-Giang một cách nhanh-chóng55. Khởi-đầu với phương-tiện phức-tạp như vậy, những đoàn quân thuỷ-bộ của Quân-đội Viễn-chinh Pháp cải-tiến dần-dần để tham-dự các trận đụng-độ trong sông-ng̣i ác-liệt cả trong Nam lẫn ngoài Bắc sau này. Theo Robert McClintock, danh-từ Dinassaut xuất-hiện từ năm 1947 tại Việt-Nam.56
Có vài chiếc Xà-lan của Anh loại LCT Long (Landing Craft, Tank) dài tới 57m, đôi khi dùng làm Soái-hạm cho Dina.
Hai Giang-đĩnh này trông giống như LCVP, nhưng vỏ làm bằng thép, trang-bị súng 20 ly MG151 của Đức. Đó là loại EA (Engin Assaut) bài-thuỷ-lượng 10 tấn.
Khi phải chấp-nhận sự h́nh-thành Hải-Quân Việt-Nam, người Pháp rút kinh-nghiệm chiến-đấu của họ, đă lấy việc thành-lập Giang-Lực cho Việt-Nam làm quan-trọng nhất. Theo nhận-xét của Đại-Tá Thuỷ-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ Victor Croizat57 và Sử-gia Charles W. Koburger58, v́ lư-do đó, người Pháp không mấy quan-tâm tới việc trang-bị các chiến-hạm lớn cho Hải-Quân Việt-Nam.
Trong sự h́nh-thành Hải-Quân Việt-Nam có sự tự-nguyện đóng-góp của những chàng trai vui, trẻ, khỏe,đẹp này.
H́nh Trung-Sĩ Nguyễn-Hào-Cường, một trong những Đoàn-Viên Hải-Quân và Hạ-Sĩ-Quan đầu-tiên của HQVN.
T́nh-trạng Hải-Quân Việt-Nam trong hai năm 1953-1954 Sau những khó-khăn như đă kể trên, cuối-cùng Hải-Quân Việt-Nam cũng được kể là chính-thức ra hoạt-động vào ngày 10 tháng 4 năm 1953. Chỉ có 5 Giang-đĩnh trang-bị Đại-liên 50 và Đại-bác 20 ly, trên lư-thuyết qua tay Việt-Nam tại Cần-Thơ. Đó là một Hải-Đoàn Xung-phong (HĐXP) rút gọn59. Thực-tế vẫn c̣n người Pháp trên tàu, Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan Pháp c̣n chỉ-huy, nhưng chiến-đĩnh mang cờ Việt-Nam. Hải-Đoàn này trang-bị một Soái-Đĩnh (LCM Commandement), hai Quân-Vận-Đĩnh (LCM - Landing Craft Mechanized) và hai Tiểu-Vận-Đĩnh (LCVP - Landing Craft Vehicle and Personnel). Qua mùa hè, một đoàn như vậy thành-h́nh tại Vĩnh-Long. Tính cho đến cuối năm 1953, lực-lượng của Hải-Quân Việt-Nam chỉ gồm có hai Hải-Đoàn Xung-phong Trừ (-) với không quá mười chiếc Tiểu-đĩnh. Tuy tinh-thần phấn-khởi nhưng Hải-Quân Việt-Nam c̣n phải vượt nhiều chặng-đường nữa trước khi trưởng-thành. Hải-Quân bị ép trong tổ-chức hỗn-hợp giữa Pháp và Việt, lại bị kẹp giữa một loại quân-lực mà uy-thế lấn-áp bởi Lục-Quân. Bộ Tham-mưu Liên-Quân này lại toàn-quyền chi-phí mọi ngân-khoản, điều-khiển mọi hoạt-động quân-đội.
Một vài h́nh-ảnh sinh-hoạt của Khoá 1 Đoàn-Viên. Những người lính thuỷ đầu-tiên của Quốc-Gia Việt-Nam nhập-học tại Nha-Trang tháng 7-1952 được giảng bằng Pháp-ngữ. Họ nhanh-chóng nhận-lănh trách-nhiệm. Một Soái-Đĩnh (LCM Commandement) đang giang-hành quan-sát.
Về quân-số, Hải-Quân lúc đó rất nhỏ-nhoi, chỉ chiếm vào khoảng 1/2 của một phần trăm quân-lực. Thêm nữa, thượng-cấp Việt và thượng-cấp Pháp lại muốn hướng Hải-Quân Việt-Nam đi theo các kế-hoạch khác nhau. T́nh-trạng Hải-Quân lúc đó không những đă yếu-ớt mà c̣n bị xé-lẻ ra nữa!60
H́nh HQ Thiếu-Úy Trần-Văn-Chơn61. Những năm sau, Ông Chơn nắm quyền Tư-Lệnh HQVNCH hai lần, thăng tới cấp Đề-Đốc (H́nh tài-liệu Bộ TTM/QLVNCH).
H́nh Ông Trần-Văn-Chơn trong cấp-bậc HQ Trung-Úy.
Một cặp kiếm và h́nh một Đại-Úy HQ Pháp trong quân-phục đại-lễ mùa đông.
Vào đầu năm 1954, thêm một Hải-Đoàn Xung-phong thứ ba được thành-lập, dự-chiến tại miền Trung-châu Bắc-Việt.62
Kéo cờ Tổ-Quốc Sau khi đơn-vị Hải-Quân thứ nh́ tại Vĩnh-Long ra hoạt-động vào tháng 6, sự tranh-luận về Quốc-kỳ trên các chiến-hạm, chiến-đĩnh bộc-phát giữa hai chính-phủ Việt, Pháp. Như đă nói, trên các chiến-đĩnh tại Cần-Thơ và Vĩnh-Long tuy mang Quốc-kỳ Việt-Nam nhưng một thành-phần Thuỷ-Thủ-Đoàn vẫn c̣n người Pháp. Một số người Pháp không bằng ḷng.
Trong khi quân-đội Liên-hiệp Pháp gặp khó-khăn ngoài chiến-trường, Tuần-Dương-Hạm HQHK Rochester đến thăm Sài-G̣n tháng 2-1954, mang theo thông-điệp Hoa-Kỳ sẽ trợ-giúp Việt-Nam chống Cộng-Sản.
Trong khi đó vấn-đề quốc-kỳ trên kỳ-đài chiến-hạm tạo những xúc-động rất lớn-lao. Tại Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Việt-Nam Nha-Trang, Giang-Pháo-Hạm LSIL 9033 (Landing Ship, Infantry, Large) được biệt-phái dùng làm Huấn-Luyện-Hạm. V́ Hạm-Trưởng là Sĩ-Quan HQ Pháp nên chiến-hạm vẫn tiếp-tục mang cờ Pháp trên kỳ-đài. Lần này, phía Việt-Nam bực-ḿnh với lư-do trên giấy-tờ, chiếc Giang-Pháo-Hạm đó thuộc TTHL/HQ Việt-Nam, huấn-luyện SVSQ và Đoàn-Viên Việt-Nam; vậy phải mang cờ Việt-Nam.
Hai chiếc Giang-Pháo-Hạm LSIL của Pháp đang chạy ngang qua bến Bạch-Đằng.
Hải-Quân Việt-Nam nhất-quyết đ̣i phải được kéo quốc-kỳ màu vàng ba sọc đỏ trên kỳ-đài của tất cả các chiến-hạm, chiến-đĩnh sau khi chuyển-giao. Người Pháp, v́ c̣n hiện-diện và thường nắm luôn cả quyền chỉ-huy đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam, nên đă có nhiều đề-nghị do họ đưa ra như: treo một cờ Pháp, treo hai cờ Pháp-Việt song-song, hay treo một cờ Liên-Hiệp-Pháp v.v...63 Cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1954, vấn-đề Quốc-kỳ được giải-quyết một cách tạm-thời.64 Pháp chuyển-giao tiếp cho Việt-Nam ba Trục-Lôi-Hạm (YMS - Yard Minesweeper): HQ-111 Hàm-Tử, HQ-112 Chương-Dương, HQ-113 Bạch-Đằng tại Sài-G̣n.65 Ba chiến-hạm này đă mang quốc-kỳ Việt-Nam ở sau lái ngay từ sáng hôm đó, trước cả khi nghi-lễ được cử-hành. Danh-hiệu chiến-hạm là địa-danh những trận thuỷ-chiến mà quân thuỷ ta đă tiêu-diệt chủ-lực-quân Mông-Cổ vào thế-kỷ thứ 13.66
Quan-khách Việt-Pháp đến dự lễ chuyển-giao ba Trục-Lôi-Hạm tại Sài-G̣n. Lưu-ư Quốc-kỳ Việt-Nam đă được kéo lên sau lái các chiến-hạm này, trước buổi lễ.
Bức h́nh lịch-sử của HQVN: Lần đầu-tiên, quốc-kỳ Việt-Nam phất-phới bay trên chiến-hạm. Trang báo trên đăng trong “Documents Việt-Nam No. 70”, bưu-báo chính-thức của Phủ Cao-Ủy Việt-Nam tại Pháp ấn-hành ngày 1-3-1954.
Một trong những Thuỷ-thủ-đoàn Việt-Nam đầu-tiên nhận-lănh chiến-hạm.
Theo các thoả-ước kư-kết giữa Việt và Pháp: chủ-lực Hải-Quân Việt-Nam gồm có 1 Khu-Trục-Hạm 305 feet, 1 Thông-Báo-Hạm 257 feet, 7 Hộ-Tống-Hạm 173 feet, 2 Hải-Vận-Hạm LSM, 3 Trục-Lôi-Hạm YMS. Tài-liệu trích-dẫn từ Jane's Fighting Ships, năm 1955 (xuất-bản vào cuối năm 1954).
Theo Charles W. Koburger, lời hứa gia-tăng khả-năng chiến-đấu cho Hải-Quân Việt-Nam không được người Pháp thi-hành. Cho đến khi chấm-dứt chiến-tranh vào tháng 7 năm 1954, Sĩ-Quan Việt-Nam mới chỉ điều-hành có một Giang-Vận-Hạm LCU67, và chừng 30 tiểu-đĩnh thuỷ-bộ. Quan-trọng hơn, quyền chỉ-huy toàn-thể Hải-Quân vẫn c̣n trong tay Sĩ-Quan người Pháp.68
Một chiếc Hải-Vận-Hạm đang hải-hành. Một chiếc Hải-Vận-Hạm khác vừa cặp cạnh chiến-hạm Mỹ USS Montague để chuyển người tại Hải-Pḥng, tháng Tám 1954. ”Tàu há-mồm” LSM (tức Hải-Vận-Hạm) là loại chiến-hạm rất quen-thuộc với dân Bắc-Việt tị-nạn Cộng-Sản di-cư vào Nam.
Tinh-thần Dân-tộc Mạnh-mẽ Ngày 11 tháng 2 năm 1954 là một ngày quan-trọng. Khi Thủ-Tướng Bửu-Lộc, tháp-tùng bởi Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng Phan-Huy-Quát của Việt-Nam và Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng Pleven của Pháp đến chủ-toạ cuộc lễ tại bờ sông Sài-G̣n th́ Quốc-Kỳ màu vàng ba sọc đỏ được kéo lên trên ba chiến-hạm M655 Aubépine, M656 Belladone và M657 Digitale. Số tàu và tên tàu sau đó được đổi sang HQ-111 Hàm-Tử, HQ-112 Chương-Dương và HQ-113 Bạch-Đằng. H́nh-ảnh này được tŕnh-bày làm b́a cho tờ báo Documents Việt-Nam No. 70 ngày 1er Mars 1954, phát-hành tại Paris.69 Tuy c̣n non trẻ nhưng Hải-Quân Việt-Nam đă biểu-lộ một tinh-thần dân-tộc mạnh-mẽ. Sĩ-Quan và Đoàn-Viên noi theo truyền-thống quân thuỷ của tiền-nhân. Tư-tưởng nhận Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo đă manh-nha ngay từ lúc đó. Điểm này đáng kể là khác-biệt với Hải-Quân Cộng-Sản Hà-Nội.70 V́ chịu ảnh-hưởng tai-hại của thuyết duy-vật, người Cộng-Sản thường hay bài-xích những niềm-tin truyền-thống dân-tộc. Tuy ngụy-trang dưới chiêu-bài truyền-thống quân thuỷ, nhưng Hải-Quân Nhân-Dân (HQND) thực-sự chỉ là một sản-phẩm ngoại-lai và một công-cụ tay-sai cho đảng-phái. Cuốn sách "Quân Thuỷ trong Lịch-Sử Chống Ngoại-Xâm" của Hà-Nội viết những câu khẳng-định như "sông, biển thuộc Xă-hội Chủ-nghĩa".
Tư-tưởng nhận Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo đă có ngay từ khi HQVN thành-lập.
Khi bàn về cái "truyền-thống" (mất gốc) đó, ba tác-giả Cộng-sản là Nguyễn-Việt, Vũ-Minh-Giang, và Nguyễn-Mạnh-Hùng đă viết như sau: "...cách tốt nhất để giữ-ǵn truyền-thống (Hải-Quân Nhân-Dân), làm cho nó luôn-luôn có sức sống và ngày càng tươi-tốt... Hải-Quân Nhân-Dân ta ngày nay ra đời trong những điều-kiện lịch-sử mới. Chúng ta có chủ-nghĩa Mác-Lê-nin bách-chiến bách-thắng, có đường lối chiến-tranh nhân-dân đúng-đắn và sáng-tạo của Đảng (Cộng-Sản)... để bảo-vệ vùng biển yêu-quư của Tổ-Quốc Xă-hội Chủ-nghĩa"71. Sống trong truyền-thống dân-tộc, những người Quốc-Gia72 chân-chính không thể nào hiểu được tại sao Hải-Quân Nhân-Dân với “điều-kiện lịch-sử mới” Mác - Lê-nin, với “đường lối” Xă-hội chủ-nghĩa và “nghĩa-vụ” Cộng-Sản Quốc-tế Anh Em mà lại có cái “truyền-thống Nga, Tàu, vô-sản” như vậy!
Cờ Ngũ-sắc Truyền-thống của dân-tộc.
Quan-niệm H́nh-thành Thuỷ-Quân Lục-Chiến Quan-niệm h́nh-thành Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam (TQLC) nói riêng, và cả Hải-Quân Việt-Nam nói chung, là những trường-hợp đặc-biệt không xảy ra tương-tự như trong các quân-đội khác. Đại-Tá Victor Croizat bàn về bối-cảnh phức-tạp này trong Nguyệt-San U. S. Naval Proceedings73, nhan-đề "Vietnamese Naval Forces: Origin of the Species". Peter Brush kể lại trong một bài viết nhan-đề “The Vietnamese Marine Corps” như sau: Trong khi bàn-luận việc sử-dụng 57 Tiểu-Đoàn Khinh-Quân cho kế-hoạch phản-công, đại-diện hai chính-phủ Việt-Pháp đối-diện một vấn-đề: Trong khi hành-quân phối-hợp duyên-hà, duyên-hải; Lục-Quân hay Hải-Quân sẽ điều-động các đoàn giang-đĩnh? Phó-Đô-Đốc Philippe-Marie-Joseph-Raymond Auboyneau, Tư-lệnh FNEO đề-nghị thành-lập binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến thuộc quân-chủng Hải-Quân để giải-quyết vấn-đề. Theo đề-nghị đó, TQLC được thành-lập và sẽ gồm hai thành-phần: Giang-Đoàn và quân Bộ-chiến.74 Chuyện này chỉ tạm ổn v́ uy-tín cá-nhân của Auboyneau trong nghị-hội. Ngay trong giai-đoạn đó, chắc-chắn các giới hữu-trách đă hiểu rằng một tổ-chức Hải-Quân theo giải-pháp như vậy không thể nào ổn-thoả. Lư-do là trên thực-tế, v́ chưa bao-giờ được huấn-luyện về hàng-hải, TQLC chỉ là lực-lượng đổ-bộ và tác-chiến trên bờ, không thể nào kiểm-soát các Giang-Đoàn Xung-phong hay toàn-thể Giang-lực được.
Để vươn lên làm binh-chủng thiện-chiến nhất của VNCH, ngay từ những ngày đầu thành-lập, Thuỷ-Quân Lục-Chiến đă chịu nhiều gian-khổ hy-sinh. Đây là một bức h́nh “Tiếc Thương.”
Philippe Auboyneau, ở đây mang cấp-bậc HQ Đại-Tá, Hạm-Trưởng Tuần-Dương-Hạm Le Triomphant.
Các đoàn Tuần-giang và Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-binh của Pháp Những đoạn trên đây tường-tŕnh về những lực-lượng Hải-Quân chính-thức. Tuy-nhiên, cần phải-kể đến một tổ-chức bán-chính-quy là Giang-thuyền đă thành-lập từ đầu năm 1951. Tổ-chức phụ-lực (supplétif) này không thuộc Hải-Quân mà thuộc Vệ-binh Quốc-gia, hoạt-động bao-trùm trên toàn-thể các vùng sông-ng̣i Việt-Nam. Tổ-chức Giang-thuyền lúc đó gồm có hai Liên-Đoàn Tuần-giang biệt-lập Nam và Bắc-Việt, và một đoàn Tuần-giang Trung-Việt.75 Liên-Đoàn Tuần-giang Nam-Việt thành-lập ngày 1-3-1951, đầu-tiên gồm có ba đoàn Tuần-giang, đến cuối năm tổ-chức thêm đoàn Tuần-giang thứ tư. Mỗi đoàn Tuần-giang gồm có ba Trung-đội, mỗi Trung-đội có hai tàu Vơ-đét, riêng đoàn Tuần-giang thứ tư có tới bốn Trung-đội. Nhưng vào giữa năm 1952, sau các thiệt-hại do hai cuộc đụng-độ tại rạch Ông Nghĩa và ở sông Thị Vải, đoàn thứ tư này trở lại tổ-chức thông-thường như các đoàn khác. Liên-Đoàn Tuần-giang Bắc-Việt cũng được thành-lập kể từ 1-3-1951 bằng quân-số của Bảo-Chính-Đoàn, lúc đầu có ba đoàn Tuần-giang. Sau đó v́ các đoàn này bị thiệt-hại và cũng v́ thiếu-phương-tiện giang-đĩnh nên Hải-Quân Pháp phải rút xuống c̣n hai đoàn. Đầu năm 1954, các đoàn c̣n lại tập-trung tất cả ở Nam-Định để tăng-cường cho mặt-trận vùng Nam châu-thổ sông Hồng. Đoàn Tuần-giang Trung-Việt măi đến ngày 1-9-1951 mới thành-lập. Tuy chỉ là một đoàn nhưng đoàn này đă được đặc-biệt tăng-cường thêm quân-số, cấp thêm nhiều phương-tiện hơn so với các đoàn Tuần-giang thành-lập lúc trước.76 Tới ngày 30-6-1954, các đoàn Tuần-giang bị giải-tán và cải-biến thành sáu Đại-đội Tuần-giang (compagnies fluviales). Sau ngày đ́nh-chiến, các Đại-đội Com-măng-đô Bắc-Việt và Lực-Lượng Tuần-Giang (force fluviale) chuyển vào Nam vĩ-tuyến 17, được lệnh phối-hợp cùng các Đại-đội Com-măng-đô Nam-Việt để thành-lập Lực-Lượng "Infanterie Marine" hay Hải-Quân Bộ-binh77, thuộc BTL/HQ Pháp.
H́nh Thiếu-Úy Jean Louis Delayen trong quân-phục làm việc màu vàng. Delayen cấp Đại-Úy trong quân-phục tác-chiến màu đen của Commando (Décembre 1954), và quân-phục Thiếu-Tướng (1977).
Vào tháng 8 năm 1954, một Tiểu-Đoàn Commando thành-h́nh tại Nha-Trang. Đó là Tiểu-Đoàn Đổ-Bộ số 1 của Hải-Quân Pháp (Bataillon de Marche) mà người Mỹ thường gọi là 1st Landing Battalion. Tiểu-Đoàn-Trưởng là Đại-Úy Jean Louis Delayen78. Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-binh này chính là tiền-thân của Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.79
Hai Huy-hiệu TQLCVN.
Sự Thành-lập Thuỷ-Quân Lục-Chiến Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam được chính-thức thành-lập bởi Nghị-định số 991/ND ngày 13-10-1954 do Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm kư và ban-hành.80 Nghị-Định này có tính-cách hồi-tố, v́ TQLC đă thành-lập từ ngày 1 tháng 10 năm 1954. Cũng như Hải-Quân Việt-Nam lúc khởi-đầu, TQLC mới chỉ có tên nhưng thực-sự chưa có đơn-vị nào trực-thuộc. Tất cả Lực-lượng "Infanterie Marine" đều c̣n thuộc vào BTL/HQ Pháp. Cho đến tháng 5 năm 1955, quyền chỉ-huy Tiểu-Đoàn tác-chiến TQLC đầu-tiên mới vào tay Sĩ-Quan Việt-Nam.
Tổ-Chức Sơ-khởi của TQLC T́nh-h́nh Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-binh cho đến đầu năm 195581 như sau: - Ngoài Tiểu-Đoàn Đổ-Bộ số 1 của Delayan đồn-trú tại Nha-Trang, tất cả các đội Com-măng-đô và Tuần-giang đóng rải-rác nhiều nơi, từ Huế xuống đến đồng-bằng Cửu-Long. Tổng-số quân-nhân lên tới 2,400 người với hầu-hết cấp Chỉ-huy là người Pháp. - Thiếu-Tá Lê-Quang-Trọng được chỉ-định chỉ-huy đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam nhưng không có nhân-viên Bộ Chỉ-Huy và cũng không có cả tổ-chức thống-thuộc xác-định quyền-hạn. Thiếu-Tá Trọng bị coi như cô-lập với các đơn-vị Hải-Quân Bộ-Binh, mà đáng lẽ phải mang tên mới là Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam. - TQLC chưa đứng-vững đă gặp ngay trở-ngại về cắt-giảm quân-số. Sau ngày đ́nh-chiến 20-7-1954, quân-đội cần giải-giới nhiều đơn-vị. Cả HQVN - gồm luôn TQLC - chỉ được giữ một cấp-số 3,000 người. Số hiện-hữu 2,400 TQLC là một tỷ-lệ bất-tương-xứng cho quân-chủng. Trong hoàn-cảnh phức-tạp của t́nh-thế đất-nước và t́nh-trạng phân-tán của Lực-Lượng Hải-Quân Bộ-Binh Pháp cũng như Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam lúc đó, cấp-số tổ-chức này được ấn-định lại là 1,137 Sĩ-Quan và Binh-Sĩ. - Số-phận TQLC/VN tuy vậy, vẫn c̣n được các giới-chức quân-sự bàn-thảo nhiều lần nhưng không có tiến-triển ǵ sáng-sủa. Sử-gia Mỹ Witlow viết rằng: “...nguyên-do là v́ binh-đoàn TQLC/VN không thực-sự hiện-hữu và chỉ có ở trên giấy-tờ mà thôi”. - Ngày 1-1-1955 các Đại-đội Tuần-giang số 1, 2, 3, 4, và 7 được chính-thức sáp-nhập vào "đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến" này, trực-thuộc Quân-chủng Hải-Quân.82 Rồi t́nh-thế cũng biến-chuyển tốt-đẹp. Những cuộc hành-quân dẹp các Lực-Lượng Giáo-phái bắt-đầu và sự hữu-hiệu của TQLC được chứng-minh tốt nhất là ngoài chiến-trường.
Theo ḍng chiến-sử, TQLCVN luôn-luôn tự chứng-minh sự hữu-hiệu tốt nhất là ngoài chiến-trường.
- Ngày 1-5-55, một số nhân-viên thuyên-chuyển tới để Thiếu-Tá Trọng thành-lập một Bộ Chỉ-Huy nhỏ tại Sài-G̣n. Sau đó ít ngày, Thủ-Tướng Diệm chỉ-định Đại-Úy Bùi-Phó-Chí thay-thế Đại-Úy Delayen83. Quyền chỉ-huy đầu-tiên của một Tiểu-Đoàn tác-chiến TQLC vào tay người Việt. Tiểu-Đoàn này sau năm 1965 mang danh Quái-Điểu, chính là con Cọp-Biển đầu-tiên của TQLC Việt-Nam. Trong thời-gian này, Thiếu-Tá Trọng đă thăng-cấp Trung-Tá.84 Để thay-thế Ông, Thiếu-Tá Phạm-Văn-Liễu nguyên là Tham-Mưu-Trưởng (TMT) được bổ-nhiệm Chỉ-huy TQLC ngày 18-1-1956.85 Không lâu, Đại-Úy Bùi-Phó-Chí, Xử-Lư Thường-Vụ (XLTV) thay Thiếu-Tá Liễu vào ngày 31-7-1956. Ngày 30-9-1956, Thiếu-Tá Lê-Nhữ-Hùng được chỉ-định chỉ-huy TQLCVN. Ông Hùng giữ chức-vụ này tới gần 4 năm.
Đại-Úy Bùi-Phó-Chí, vị Tiểu-Đoàn-Trưởng TQLC đầu-tiên. Huy-hiệu nón beret của TQLCVN 1954 (trái), Huy-hiệu Tiểu-Đoàn 1 Đổ-Bộ (phải).
Thiếu-Tá Lê-Nhữ-Hùng chỉ-huy TQLCVN từ 2-10-1956 đến 23-5-1960. Sau đó Ông giữ chức vụ Tỉnh-Trưởng Tỉnh Kiến Hoà và thăng cấp Trung-Tá. Cũng trong năm 1955, Tiểu-Đoàn 2 (sau gọi là Trâu-Điên) ra đời tại Rạch-Dừa, rồi di-chuyển về Cam-Ranh, tỉnh Khánh-Hoà. Một Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn được thành-lập để chỉ-huy hai Tiểu-Đoàn trên. Vào năm đầu chuyển-tiếp Pháp-Việt, lực-lượng này là quân bộ-chiến có trang-bị một số Thuỷ-Xa và Chiến-Đĩnh86 cơ-hữu, phối-hợp hành-quân như một thứ Giang-Lực Thuỷ-bộ thuộc Hải-Quân.
Một Dương-Vặn-Hạm LST (Orne-L9002) và một lực-lượng quân bộ-chiến có trang-bị Thuỷ-Xa. H́nh chụp tháng 6-1953 tại Duyên-Hải Trung-phần VN.
Đại-Úy Lê-Nguyên-Khang (trái, sau này là Tư-Lệnh TQLC), đứng cạnh là Thiếu-Tá Lê-Nhữ-Hùng (CHT/TQLCVN) và một số Sĩ-quan VN du-học khoá ”Marine Corps” đầu-tiên tại trường TQLC Quantico.87 Hai SQ Liên-lạc Hoa-kỳ đứng bên phải.
Tổ-chức Điều-hành Chuyển-tiếp Kể từ 1951, trong khi Lục-Quân viễn-chinh Pháp thất-thế trên bộ phải rút-lui, thu-gọn khu-vực pḥng-thủ; Lực-Lượng Hải-Quân của họ vẫn hoạt-động hữu-hiệu. Tất cả những đ̣i-hỏi của Lục-Quân xin yểm-trợ đều được Hải-Quân thoả-măn tối-đa. Tướng Henry Navarre, trong nhiệm-kỳ từ tháng 5-1953 đến tháng 6-1954, đă rất hài-ḷng về sự hoạt-động của Hải-Quân vào lúc bấy giờ.88
Hai TQLCVN đang xung-phong tiến chiếm mục-tiêu. Khi Hội-Nghị Genève về chiến-tranh Đông-Dương sắp đến hồi kết-thúc, th́ Pháp bắt đầu chuyển-giao các đơn-vị nhỏ cho Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam chỉ-huy. Điển-h́nh là chuyển-giao một chiếc Giang-Vận-Hạm (Landing Craft Utility) cho Hải-Quân Việt-Nam, vị Thuyền-Trưởng Giang-Vận-Hạm (LCU) đầu-tiên là HQ Trung-Úy Hồ-Tấn-Quyền, Cơ-Khí-Trưởng là Trung-Úy CK Đoàn-Ngọc-Bích, xuôi ngược tham-dự hành-quân và chuyển-vận quân-dụng khắp sông-rạch châu-thổ sông Cửu-Long.89
Một chiếc Giang-Vận-Hạm.
Vào đầu năm 1955, các đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam (trừ LCU của Trung-Úy Quyền) vẫn c̣n do những Sĩ-Quan Pháp điều-khiển, nhưng các Giang-Vận-Hạm90 bắt đầu được chuyển-giao thêm. Sau HQ-534 của Trung-Úy Quyền, tới HQ-533 do HQ Trung-Úy Chung-Tấn-Cang và HQ-537 do HQ Trung-Úy Đỗ-Quư-Hợp chỉ-huy. Tới ngày 20-8-1955, vị Phụ-Tá Hải-Quân thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu (Bộ TTM) mới nắm quyền điều-khiển ngành Hải-Quân. Lần-lần từ đó, quyền chỉ-huy Hải-Đoàn và Chiến-Hạm được chuyển-giao cho Sĩ-Quan Việt-Nam điều-khiển. Hải-Đoàn Xung-Phong đầu-tiên được giao cho Hải-Quân Việt-Nam chỉ-huy là Dina I tại Cần-Thơ. Vị Chỉ-Huy-Trưởng đầu-tiên là HQ Đại-Úy Lê-Quang-Mỹ. Sau vài tháng, căn-cứ Hải-Quân Pháp ở Mỹ-Tho được chuyển-giao cho Việt-Nam. Dina I cải-danh thành Hải-Đoàn Xung-Phong 21 di-chuyển về căn-cứ này. Địa-bàn hoạt-động là vùng Đồng-Tháp-Mười.91 Tuy 3 Trục-Lôi-Hạm đă mang Quốc-kỳ Việt-Nam kể từ ngày 11-2-1954 nhưng các Hạm-Trưởng là người Pháp. Thực-sự vị Hạm-Trưởng đầu-tiên của HQVNCH là HQ Trung-Úy Lâm-Nguơn-Tánh (sau này là Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân). Ông nhận-lănh quyền chỉ-huy chiếc Giang-Pháo-Hạm LSIL 1030 của Pháp.92 Chiến-hạm này mang số HQ-30. Chuyến công-tác đầu-tiên của HQVNCH cũng do chiếc HQ-30 này thực-hiện bằng đường sông, từ Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n đi Cần-Thơ ngang qua kinh Chợ-Gạo.93 Khi HQ Đại-Úy Trần-Văn-Chơn đảm-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực thay-thế HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ, Ông cũng kiêm- nhiệm luôn chức-vụ Hạm-Trưởng Giang-Pháo-Hạm HQ-31.94
HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ - Tư-Lệnh HQVN đầu-tiên95.
Tuy tiến được một vài bước nhỏ, sự chuyển-giao quyền-hành này so với Không-Quân vẫn chậm hơn. Cho đến khi khai-diễn chiến-dịch Rừng-Sát (9-1955), Hải-Quân Việt-Nam chưa hoàn-toàn thoát ra khỏi sự lệ-thuộc của Pháp. Tháng 5 năm 1955, Pháp trao quyền chỉ-huy Hải-Đoàn Xung-Phong thứ 3. Hải-Đoàn Xung-Phong thứ 4 được trao trong tháng 8 năm 1955. Tính tới cuối năm 1955, Hải-Quân Việt-Nam gồm có các đơn-vị và cơ-sở sau đây: - Hải-Đoàn Xung-phong số 21 (Mỹ-Tho) - Hải-Đoàn Xung-phong số 23 (Vĩnh-Long) - Hải-Đoàn Xung-phong số 24 (Sài-G̣n) - Hải-Đoàn Xung-phong số 25 (Cần-Thơ) - 3 căn-cứ Hải-Quân: Sài-G̣n, Cát-Lái và Đà-Nẵng - 4 đồn Thuỷ-Quân: Mỹ-Tho, Cần-Thơ, Vĩnh-Long, Long-Xuyên - Trung-tâm Huấn-luyện Nha-Trang - Hải-Quân Công-xưởng Ba-Son - Kho đạn Thành-Tuy-Hạ. Trước đó, có Hải-Đoàn Xung-phong số 22 do Pháp thành-lập và di-chuyển từ miền Bắc vào, nhưng Hải-Đoàn này đă bị tan-nát khi Việt-minh và Pháp đụng trận. Những chiến-đĩnh khi trao cho HQVN không c̣n bao-nhiêu nên sau đó, Hải-Đoàn 22XP đă sáp-nhập vào Hải-Đoàn 21XP. Về tổ-chức, các Hải-Đoàn không hoàn-toàn giống nhau. Đại-để mỗi Hải-Đoàn có từ 5 đến 7 Quân-Vận-Đĩnh, 1 Giang-Vận-Hạm hay Giang-Pháo-Hạm tăng-phái v.v... Các Hải-Đoàn khi mới thành-lập gọi tên theo nơi trú-đóng, sau đổi thành số 1, 2, 3... và cuối-cùng đổi thành các danh-hiệu như trên.96
Những Kế-hoạch Quân-Số 1955 và Trang-bị Thực-sự cho Hải-Quân Sau hội-nghị Genève 1954, đất-nước bị chia-cắt, vùng đất Việt-Nam Tự-Do chỉ c̣n lại từ sông Bến-Hải trở về Nam đến mũi Cà-Mau. Trong khi quân-số toàn-thể Quân-Đội Quốc-gia Việt-Nam bị cắt-giảm, Hải-Quân cũng chịu ít nhiều ảnh-hưởng, nhất là lệnh giải-nhiệm sau chiến-tranh. Trong dự-án toàn-quân 100,000 người, tất cả HQVN, kể luôn TQLC bị giới-hạn ở quân-số 3,250 người (3.2% quân-lực) với: - Bộ Tham-mưu và cơ-sở phụ-thuộc: 950 - Quân-trường: 400 - Thuỷ-Thủ-Đoàn: 1,900. Vào tháng 6 năm 1955, Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam thi-hành một dự-án gọi là “Dự-án Quân-số 150,000 người”. Trên thực-tế, số quy-định là 155,677 người, bao-gồm luôn 1,204 Nữ-phụ-tá và 5,719 dân-chính. Hải-Quân có 4,250 người, trong đó kể luôn 250 dân-chính. Đây là dự-án đầu-tiên cho phép dân-chính làm việc với Hải-Quân. Khi quân-số QĐQGVN tăng lên gấp rưỡi (từ 100,000 lên 150,000 người) th́ Hải-Quân chỉ được tăng một tỷ-lệ rất nhỏ-nhoi: từ 3,250 lên tới 4,000 quân-nhân (+250 dân-chính) như kể trên mà thôi. Vào tháng 7-1955, Hải-Quân đă có một quân-số hiện-diện 3,858 người (khoảng 91% cấp-số), phân chia ra như sau: - Hải-Quân chính-thức 2,56797 gồm 190 Sĩ-Quan, 2,377 Hạ-Sĩ-Quan và Thuỷ-Thủ. - Thuỷ-Quân-Lục-chiến 1,291 gồm: 43 Sĩ-Quan, 257 Hạ-Sĩ-Quan và 991 Binh-Sĩ.
Quan-niệm Lưu-động-tính và Nguyên-tắc Điều-hợp Quân-đội Trong lịch-sử Quân-Lực Việt-Nam, kế-hoạch quân-số 1955 được coi như kế-hoạch căn-bản về tổ-chức gần suốt 10 năm (1955-1964)98. Cho tới năm 1965, v́ chiến-tranh bùng-nổ lớn và cũng v́ sự phát-triển nhân-sự và kỹ-thuật, kế-hoạch trên mới bị thay-đổi. Sự thay-đổi sau này thật lớn-lao.
HQVN vẫn c̣n là một lực-lượng nhỏ-bé chỉ có vài ngàn người cho đến khi HQ Việt-Nam được hoàn-toàn độc-lập năm 1955. Những h́nh-ảnh chính-thức này trích ra từ cuốn sách “Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972. Khi c̣n non trẻ, QĐQGVN đă từng ư-thức rằng t́nh-báo nhân-dân tại địa-phương là quan-trọng và quan-niệm tổ-chức quân-đội có tính-cách lănh-thổ. C̣n người Hoa-Kỳ trong khi yểm-trợ cho Việt-Nam chống Cộng-sản, lại chỉ muốn áp-dụng phương-cách riêng của họ. Cuốn Quân-Sử 4 ghi-nhận quan-niệm khác-biệt về tổ-chức quân-đội giữa hai bên Việt-Mỹ như sau: Người Mỹ muốn quân-đội này (Việt-Nam) phải đặt nặng vào lưu-động-tính, và các đơn-vị không dựa vào một tổ-chức lănh-thổ chặt-chẽ.99 Quan-niệm lưu-động-tính và nguyên-tắc điều-hợp Quân-đội của người Mỹ đ̣i-hỏi những phương-tiện chuyển-vận tối-tân với trang-bị nặng-nề và tốn-kém mà một Quốc-gia non-trẻ như Việt-Nam Cộng-Hoà không thể nào cung-ứng được. Việt-Nam có lúc đă phải nghĩ đến việc tự-lập và t́m thêm đồng-minh. C̣n có một lầm-lẫn nguy-hại nữa. Đó là khi có nhiều người Hoa-Kỳ tin-tưởng rằng người Nam Việt-Nam muốn người Mỹ có mặt ở Nam Việt-Nam măi-măi. Theo Giáo-sư Phạm-Kim-Vinh: “sự thực th́ VNCH chỉ muốn Mỹ đừng can-thiệp vào nội-bộ quốc-gia Việt-Nam. Miền-Nam chỉ mong dẹp được cái tṛ chỉ-trích lỳ-lợm của báo-chí Mỹ và sự phê-phán sai-lạc của Quốc-hội Hoa-kỳ”.100
Trong HQVN, Hải-thuyền được quan-niệm như một lực-lượng địa-phương-quân101 sinh-hoạt cạnh dân-chúng vùng duyên-hải. H́nh trên: Hải-thuyền và Địa-phương-quân hoạt-động phối-hợp.
Quân-lực Việt-Nam với những phương-tiện địa-phương đă khởi-sự chế-tạo súng nội-hoá tại các Công-Xưởng. Riêng tại các Hải-Xưởng, HQVN đặt ưu-tiên hàng đầu trong việc đóng ghe hải-thuyền. Một vị Tư-Lệnh Hải-Quân là HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền c̣n đề-nghị gửi cán-bộ du-học tại nhiều quốc-gia khác nhau để tăng-tiến kiến-thức. Tất cả cố-gắng tương-tự không bao-lâu đă dần-dần đi vào quên-lăng. Những quan-niệm của người Hoa-Kỳ về lưu-động-tính, sử-dụng hoả-lực tối-đa, kèm theo với một hệ-thống yểm-trợ tiếp-vận nặng-nề đă gây nguy-hại đến sự thành-bại của cuộc chiến sau này. Khi Hoa-Kỳ c̣n nắm giữ tiếp-vận, mọi chuyện b́nh-thường. Khi Hoa-Kỳ ngưng lại (1973-1975), các phương-tiện tác-chiến suy-sụp nhanh-chóng và quan-trọng nhất, cả đến hoả-lực cũng bị khô-cạn. Quân-lực VNCH thiếu-thốn đạn-dược, quân-dụng; lập-tức bị lâm-nguy và bị bại-trận dễ-dàng. Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam khi Pháp rút-lui Trước khi rút-lui, Pháp đă để lại cho Hải-Quân Việt-Nam102 một số chiến-hạm và Giang-đĩnh. Sau đó, cộng thêm với những Giang-đĩnh của các đoàn Tuần-giang bán chính-quy sáp-nhập vào, Hải-Quân Việt-Nam đạt tới những con số như sau: - 3 Hộ-Tống-Hạm (PC, Patrol Craft) - 2 Hải-Vận-Hạm (LSM, Landing Ship Medium) - 1 Tàu Thuỷ-Đạo103 (Bâtiment Hydrographe) - 3 Trục-Lôi-Hạm104 YMS (Dragueur: Yard Mine Sweeper) - 2 Trợ-Chiến-Hạm (LSSL, Landing Ship Support Large) - 5 Giang-Pháo-Hạm (LSIL, Landing Ship Infantery Large)105 - 4 Giang-Vận-Hạm (LCU, Landing Craft Utility) - 2 Tuần-Duyên-Đĩnh106 (GC, Garde Côtière) - 70 Quân-Vận-Đĩnh (LCM, Landing Craft Mechanized) trong số này có 2 Tiền-Phong-Đĩnh107 (LCM Monitor), 4 Soái-Đĩnh108 (LCM de Commandement), 53 Quân-Vận-Đĩnh bọc thép (LCM blindé) và 11 Quân-Vận-Đĩnh loại nhẹ (LCM léger). - 95 Tiểu-đĩnh gọi chung là Vơ-đét, trong đó có 17 chiếc loại ứng-chiến (Vedette d'interception), 1 Vơ-đét canh-pḥng (Vedette de surveillance), 6 chiếc loại tuần-cảng Y (yard). Ngoài ra là các Tiểu-Giáp-Đĩnh109: 36 chiếc loại STCAN, 12 chiếc loại FOM110 dài 8m và 23 chiếc loại FOM dài 11m. - 100 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP (Landing Craft Vehicle Personnel), loại tàu nhỏ cỡ như Vơ-đét (chở được 6 người) trong đó có 81 loại b́nh-thường và 19 loại nhẹ. - 15 Sà-lan trong đó một Sà-lan máy, 1 Sà-lan chở nước và 13 Sà-lan thường. - 3 Tàu ḍng111 (remorqueur). Phần lớn chiến-hạm đă cũ và có một vài chiếc không c̣n dùng được.112
Tiểu-Giáp-Đĩnh, được đóng tại Xưởng Ba-Son (HQCX sau này), là loại chiến-đĩnh hoạt-động rất hiệu-quả.
Cấp-bậc SQHQ và Chức-vụ Phụ-Tá Hải-Quân Đầu-tiên Trong những năm đầu mới thành-lập, các Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam chỉ mới tốt-nghiệp từ quân-trường. V́ cấp-bậc c̣n quá thấp, SQHQVN không đủ thâm-niên để nắm giữ bất-cứ một chức-vụ quan-trọng nào.113 Ngay cả chức-vụ Trưởng-Ban Hải-Quân kiêm Phụ-Tá Hải-Quân VN cạnh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QĐQGVN (đáng lẽ phải là Sĩ-Quan Hải-Quân VN), cũng do giới-chức ở ngoài nắm giữ. Khoảng cuối năm 1955, khi Hải-Quân Pháp bắt đầu chuyển-giao quyền chỉ-huy các đơn-vị thuộc Giang-Lực cho Việt-Nam, quân-số Hải-Quân Việt-Nam rất là khiêm tốn. Về cấp Sĩ-Quan, chỉ có một Đại-Úy (Lê-Quang-Mỹ), tất cả Sĩ-Quan Khoá 1, 2, 3 đều là Trung-Úy, Khoá 4 và 5 là Thiếu-Úy114. Ngoài ra, c̣n thêm các Sĩ-Quan Hải-Quân đầu-tiên mới tốt-nghiệp Trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp (École Navale de Brest) hồi-hương khoảng cuối mùa hè 1955. Vào năm 1956, nếu không kể đến Hạm-Đội Pháp tại Viễn-Đông, HQ Đại-Tá Récher là Sĩ-Quan thâm-niên hiện-diện của HQ Pháp trên bờ. Ông đảm-nhiệm cả hai chức-vụ Phụ-Tá Hải-Quân cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng lẫn quyền chỉ-huy Hải-Quân Việt-Nam. Nhằm tiến-hành ngay việc điều-động Hải-Quân trong những cuộc Hành-Quân b́nh-định, nên vào ngày 1 tháng 7 năm 1955115 Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm bổ-nhiệm Thiếu-Tướng Trần-Văn-Đôn vào chức-vụ Trưởng-Ban Hải-Quân thay-thế Đại-Tá Récher. Tướng Đôn đang làm phụ-tá cho Tổng-Tham-Mưu-Trưởng nay kiêm-nhiệm luôn việc chỉ-huy Hải-Quân116. Sự chuyển-quyền chỉ có tính-cách chính-trị v́ toàn-thể giới-chức Pḥng Hải-Quân thuộc quyền Thiếu-Tướng Đôn đều là các Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp.
Tướng Trần-Văn-Đôn khi mang cấp-bậc Trung-Tướng.
Thiếu-Tá Mỹ và những cuộc Hành-Quân Đầu-tiên Trong khi đó, cuộc Hành-Quân tại Rừng-Sát khai-diễn117. Đáng lẽ cuộc Hành-Quân đă tiến-hành từ tháng 7-1955, nhưng măi tới trung-tuần tháng 9 mới khởi-sự được, bởi v́ Quân-đội chưa hoàn-toàn sử-dụng được Hải-Quân để bao-vây khu Rừng-Sát. Lúc đó, Quân-đội Việt-Nam chỉ mới có Hải-Đoàn Xung-Phong số 21 thuộc quyền điều-khiển của người Việt, do Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ làm Hải-Đoàn-Trưởng.118 Các Hải-Đoàn khác, tuy đă do Sĩ-Quan Việt-Nam làm Chỉ-Huy-Trưởng119, nhưng về hệ-thống vẫn c̣n trực-thuộc Bộ Chỉ-Huy Giang-lực (COFFLUSIC) của Pháp. Nếu muốn sử-dụng các Hải-Đoàn này, chức-quyền Việt-Nam phải thông-báo cho người Pháp. Khi Bộ TTM/QĐQGVN thông-báo cho Bộ Chỉ-Huy Giang-Lực Pháp biết Việt-Nam cần sử-dụng Hải-Đoàn để hành-quân, người Pháp đồng-ư. Nhưng v́ điều-kiện của Pháp đưa ra là tránh tiếng cho chính-quyền nước họ, Việt-Nam phải đặt tất cả các Hải-Đoàn tham-chiến dưới quyền chỉ-huy tạm-thời của HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ. - Từ ngày 5 tháng 6 năm 1955 đến ngày 19 tháng 6 năm 1955, Hải-Quân tham-dự cuộc Hành-Quân Đinh-Tiên-Hoàng 1 tại miền Tây120. Hải-Đoàn 25 đổ quân án-ngữ, chiếm Cái-Vồn, Cần-Thơ. Khi khai-diễn, quân Hoà-Hảo của Ông Trần-Văn-Soái tức Năm-Lửa bị bất-ngờ, chống-cự rất yếu. Lực-Lượng trục Vĩnh-Long Cần-Thơ bị tan-ră ngay. Ngoài một số theo Ông Soái chạy về Đồng-Tháp-Mười, một số bị bắt (239 người), số quân ra quy-thuận rất lớn, có tới 1,823 người. Khi chiến-dịch này chấm-dứt ngày 12-8-1955, Hải-Quân không bị thiệt-hại ǵ đáng kể.
H́nh Ông Trần-Văn-Soái trong quân-phục Trung-Tướng quân-đội Hoà-Hảo.
- Ngày 1-8-1955, Chính-phủ Ngô-Đ́nh-Diệm giải-tán các Bộ Chỉ-Huy và cơ-cấu trực-thuộc của Giáo-Phái để thống-nhất quân-lực.121
Một đoàn quân Cao-Đài trở về hợp-tác với Chính-quyền Quốc-Gia Việt-Nam, diễn-hành tại Sài-G̣n.
Quang-cảnh một Khu Đền-Thánh Cao-Đài cạnh bờ-sông (H́nh nhỏ: Huy-hiệu trên mũ của quân-nhân Cao-Đài).
Tháng 8, trong những hành-động gây-hấn chống chính-phủ, quân-đội B́nh-Xuyên tấn-công cả tàu-thuyền qua lại trên sông Ḷng-Tàu. Trong một chuyến tập-kích, 7 Đoàn-Viên Hải-Quân Việt và Pháp bị thương, 1 người Pháp bị giết trên Trục-Lôi-Hạm Chương-Dương. Chiến-hạm này đă bị tấn-công bất-ngờ trên đường đi thử máy đường-trường, sau khi được đại-kỳ tại Hải-Quân Công-Xưởng. Ngày 5-8-1955, các Quân-Vận-Đĩnh LCM Việt-Nam bắt-đầu hộ-tống các tàu giang-hành trên 2 con sông Ḷng-Tàu và Soài-Rạp.122
Tiểu-Đoàn thứ hai của Thuỷ-Quân Lục-chiến Rút kinh-nghiệm điều-động hành-quân trong trận Rừng-Sát, các Đại-đội Giang-thuyền lần-lần giải-tán để biến thành Tiểu-Đoàn thứ hai của Thuỷ-Quân Lục-chiến khoảng đầu tháng 2-1956. Vào lúc này, lực-lượng Thuỷ-Quân Lục-chiến gồm có: - một Bộ Chỉ-Huy, - hai Tiểu-Đoàn, - năm Đại-đội Khinh-binh Trợ-chiến, - một Biệt-động-đội (corps franc) và - một Phân Thuỷ-đội Thao-dượt (flottille d'entrainement).123
Trục-Lôi-Hạm Chương-Dương HQ-112 này bị B́nh-Xuyên tấn-công bất-ngờ trên đường đi thử máy đường-trường tháng 8-1955.
Diễn-tiến về Huấn-luyện Sĩ-Quan Trong khi đó, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang huấn-luyện các khoá Sĩ-Quan sau đây: - Khoá 6 Sĩ-Quan Hải-Quân với tổng-số 21 Sinh-Viên Sĩ-Quan, gồm 16 ngành Chỉ-Huy và 5 ngành Cơ-Khí. Nhập-trường ngày 21 tháng 04 năm 1955, thời-gian thụ-huấn 11 tháng. Măn-khoá ngày 08 tháng 03 năm 1956 - Khoá 7 Sĩ-Quan Hải-Quân bắt đầu tuyển-mộ vào cuối năm 1955. Khoá này được khai-giảng tại Nha-Trang vào đầu năm 1956. Học-tŕnh, kể cả thực-tập ngoài đơn-vị, được nâng lên hai năm với đầy-đủ các môn học văn-hoá, kiến-thức và chuyên-nghiệp cho hai ngành chỉ-huy và cơ-khí.
Đụng-độ Quan-trọng Đầu-tiên của Hải-Quân Việt-Nam Trong khi các cuộc Hành-Quân tranh-chấp với B́nh-Xuyên và Giáo-phái diễn-tiến, Thiếu-Tá Mỹ trở-thành Tư-lệnh Hải-Quân đầu-tiên của Việt-Nam: Vào ngày 20 tháng 8 năm 1955 bằng một nghị-định chính-thức, Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm bổ-nhiệm Hải-Quân Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ124 vào chức-vụ Trưởng-Ban Hải-Quân, Phụ-Tá Hải-Quân125 cạnh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QĐQGVN (thay Tướng Đôn) để chỉ-huy Hải-Quân và đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến.
Các Hộ-Tống-Hạm PC đầu-tiên của HQVN: HQ-01, HQ-02, HQ-03.
Ngày 15 tháng 9, Hải-Quân Việt-Nam đă bắt gặp tại khúc quanh Quatre Bras của sông Ḷng-Tàu 4 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP của B́nh-Xuyên đang được Dương-Vận-Hạm LST 106 của Pháp tiếp-tế quân-dụng. Lực-lượng Hải-Quân Pháp ngăn-cản Hải-Quân VN và giúp-đỡ cho các Tiểu-Vận-Đĩnh B́nh-Xuyên chạy thoát. Sau khi bị Quân-đội Quốc-gia đánh-bật khỏi Đô-thành, quân B́nh-Xuyên kéo về ẩn-náu tại Rừng-Sát. Ngày 21 tháng 9 năm 1955, Chiến-dịch Hoàng-Diệu được phát-động để tấn-công và càn-quét cứ-điểm cuối-cùng của B́nh-Xuyên tại đây. Đại-Tá Dương-Văn-Minh được chỉ-định làm Tư-lệnh Chiến-dịch. Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân đóng tại Rạch-Cát. Thành-phần Hải-Quân Việt-Nam tham-dự gồm có: - HQ-01, - Các Giang-Pháo-Hạm, - Các Giang-Vận-Hạm, - Hải-Đoàn Xung-Phong số 21, 22, 23, 24, 25 và - Tiểu-Đoàn 1 TQLC. Tư-Lệnh Hải-Quân chỉ-huy tổng-quát lực-lượng Hải-Quân tham-dự từ Soái-Hạm Chi-Lăng(HQ-01). Nhiệm-vụ trước tiên của Hải-Đoàn Xung-phong và TQLC là tuần-soát và chiếm-cứ những đồn cũ của B́nh-Xuyên trên sông Ḷng-Tàu, giải-toả đoạn thuỷ-lộ huyết-mạch Vũng-Tàu Nhà-Bè, mở đường cho sự lưu-thông của dân-chúng và thương-thuyền ra vào Sài-G̣n.126 Đại-Tá Dương-Văn-Minh cũng có khi đặt Bộ Tư-Lệnh lưu-động của Ông trên Soái-Hạm Chi-Lăng(HQ-01). Từ đó, Tư-Lệnh Chiến-dịch chỉ-huy các cuộc tiến quân của Bộ-Binh và điều-khiển các cuộc tác-xạ đồng-loạt bằng pháo-binh vào các cứ-điểm của B́nh-Xuyên. Khi thuỷ-triều dâng-cao, nước tràn-ngập các hầm trú-ẩn, bộ-đội B́nh-Xuyên phải leo lên cây ẩn-núp và trở-thành mồi ngon cho pháo-binh và hải-pháo tác-xạ bằng đạn nổ-chụp.127
Soái-Hạm Chi Lăng, HQ-01.
Phóng-đồ cuộc Hành-Quân Rừng-Sát, càn quét cứ-điểm cuối-cùng của B́nh-Xuyên. Trong các trận chiến vùng sông-rạch Nhà-Bè Vũng-Tàu. Hải-Quân đóng-góp nhiều công-trạng. Trận đánh duy-nhất của Chiến-dịch đă xảy ra tại Rạch-Lá (Banc de Corail). B́nh-Xuyên tấn-công Chiến-đĩnh Hải-Quân bằng súng đại-bác không giật SKZ. Hải-Quân phản-công128 và Thuỷ-Quân Lục-Chiến lập-tức đổ-bộ. Một Trung-đội B́nh-Xuyên bị tiêu-diệt. Sau trận này, B́nh-Xuyên càng suy-yếu thêm. Quân-đội Quốc-gia dùng chiến-thuật phong-toả và pháo-kích. Một pháo-đội 105 ly được Quân-Vận-Đĩnh LCM chuyên-chở đến g̣ Mang-Thít làm căn-cứ hoả-lực. V́ Pháo-binh tác-xạ liên-tục ngày đêm khắp vùng, quân B́nh-Xuyên không c̣n chỗ-trú-ẩn an-toàn phải ra đầu hàng. Chiến-dịch Hoàng-Diệu kết-thúc ngày 24 tháng 10 năm 1955.
Danh-xưng Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ngày 23-10-1955, trong một cuộc trưng-cầu dân-ư truất-phế Ông Bảo-Đại và bầu Ông Ngô-Đ́nh-Diệm làm Quốc-Trưởng, 98% cử-tri bỏ phiếu tán-thành. Tân Quốc-Trưởng Ngô-Đ́nh-Diệm tuyên-bố Hiến-Ước tạm-thời tại Dinh Độc-Lập ngày 26-10-1955. Việt-Nam là nước Cộng-Hoà, Quốc-Trưởng lấy danh-hiệu là Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hoà.129
Quốc-Trưởng Ngô-Đ́nh-Diệm trở-thành Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hoà ngày 26-10-1955.
Với danh-xưng mới là Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà, Hải-Quân gửi các đơn-vị tham-dự các chiến-dịch tại Miền Tây Nam-phần: Đinh-Tiên-Hoàng 2 và Nguyễn-Huệ. Khi Chiến-dịch Đinh-Tiên-Hoàng 1 tấn-công các căn-cứ Hoà-Hảo, lực-lượng giáo-phái đă phải phân-tán. Quân-đội Quốc-gia dồn nỗ-lực vào khu Rừng-Sát. Khi quân Hoà-Hảo tập-trung lại được lực-lượng, Quân-đội Quốc-gia mở Chiến-dịch Đinh-Tiên-Hoàng 2 vào ngày 22-9-1955. Những trận đánh Hoà-Hảo đáng kể nhất đă diễn ra tại Nam Thái-Sơn / Ba-Thê, Rạch-Giá / Hà-Tiên, Vĩnh-Phú, Cái-Dầu, Giồng-Riềng. Nhiều cuộc đột-nhập bằng Giang-đĩnh và đặc-biệt bằng những Xuồng máy loại M 2 vào vị-trí địch-quân đă được thực-hiện. Một Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP bị bắn ch́m trên đường hành-quân. Trung-Đoàn Lê-Quang là đơn-vị thiện-chiến của Ông Lê-Quang-Vinh (tức Ba-Cụt) phục-kích một Tiểu-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến, gây thiệt-hại khá nặng cho quân ta tại Giồng-Riềng. Chiều ngày 6-12-1955, TQLC đă tấn-công một đại-đội của Ba-Cụt nhiều đợt. Đối-phương báo-cáo tới chiều-tối rồi lợi-dụng ban-đêm trốn-thoát.130
Các Hải-Đoàn Xung-Phong rất hữu-dụng trong những cuộc hành-quân tại Đồng-Tháp-Mười và những vùng sông-rạch khác ở Miền-Nam Việt-Nam.
Cũng trong tháng 12-1955, quân Chính-phủ c̣n mở một cuộc hành-quân vào Cái-Cái để giải-toả áp-lực của quân-đội Năm-Lửa. Chiến-dịch Đinh-Tiên-Hoàng 2 kết-thúc.131 Nhận-xét về giá-trị và khả-năng Giang-Lực trong giai-đoạn này, một bản Tường-tŕnh Hành-Quân của Bộ Tổng-Tham-Mưu đă viết như sau: “Trên cả hai phương-diện b́nh-định lẫn hành-quân, các Hải-Đoàn Xung-Phong rất hữu-dụng tại Miền-Nam Việt-Nam v́: hoả-lực mạnh, di-động nhanh-chóng và dễ-dàng phân-tán mỏng được.”
Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm và Đại-Tá Dương-Văn-Minh xuống thăm một Hộ-Tống-Hạm. Đây có lẽ là tấm ảnh cuối-cùng HQVN vận quân-phục giống HQ Pháp. Sau đó không lâu cả phù-hiệu, mũ-nón và quân-phục được thay-đổi. Sinh-hoạt của Sĩ-Quan Hải-Quân Có nhiều bài viết do tác-giả ngoài Hải-Quân đă đề-cập đến cuộc sống nhàn-hạ của các Sĩ-Quan Hải-Quân như làm việc ít giờ, đi học toàn-thời tại các trường thuộc Viện Đại-học Sài-G̣n, dư thời-gian ăn chơi... Thực-sự không phải như vậy. Với một số-lượng Sĩ-Quan chuyên-nghiệp nhỏ-bé chưa tới 100 người cho tới cuối thập-niên 1950, họ rất vất-vả vừa trau-dồi hải-nghiệp, vừa làm việc, vừa chiến-đấu. Dù kinh-nghiệm chưa đủ, các Sĩ-Quan Hải-Quân thời phôi-thai luôn-luôn bận-rộn, phải nhận-lănh những nhiệm-vụ nặng-nề ngoài thâm-niên cấp-bậc, kinh-nghiệm và vượt quá cả tuổi trẻ của họ.132 Qua h́nh-ảnh c̣n sót lại của thập-niên 1950, ta thấy Sĩ-Quan Hải-Quân Lê-Quang-Mỹ rất trẻ. Trong khi lo-lắng thành-lập Hải-Quân, Ông c̣n điều-động đơn-vị hành-quân trong sông, Ông cũng theo chiến-hạm thao-dượt tập-đội ngoài biển, cùng lúc Phụ-Tá cho TTMT/QĐVNCH, Ông làm Tư-Lệnh Hải-Quân, chỉ-huy TQLC, Giám-đốc Hải-Quân Công-Xưởng, Hạm-Trưởng Soái-Hạm...
Khi mang cấp Hải-Quân Đại-Tá, Tư-Lệnh Lê-Quang-Mỹ c̣n rất trẻ.
Vào giai-đoạn giao-thời 1955-1957, cùng lúc điều-động nội-bộ Hải-Quân, Ông c̣n phải đối-phó cả phần ngoại-vi. Tài-liệu ghi-nhận Thiếu-Tá Mỹ đă phải đương-đầu với nhiều phe-phái chính-trị, các giới-chức quân-sự trong và ngoài Quân-Đội. Ông Lê-Quang-Mỹ đă từng gặp nhiều khó-khăn và vượt qua trở-ngại để xây-dựng và bành-trướng Hải-Quân. Trong khi đó, những thế-lực Việt-Nam, Pháp, Mỹ với quan-niệm khác-biệt lại muốn lái HQVN theo các chiều-hướng khác nhau. Khi xem qua những thành-tích Hải-Quân thời sơ-khởi, đặc-biệt là công-việc đa-đoan của HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ trong những ngày đầu của HQVNCH, Nhà Văn Điệp-Mỹ-Linh đă tự-hỏi một cách thán-phục như sau: "Qua những tài-liệu, sách vở mà tôi đă đọc..., một câu hỏi được đặt ra là: làm thế nào mà Ông Lê-Quang-Mỹ có thể thực-hiện được tất cả những việc đó ? Thật không dễ giải-đáp được."133
Hải-Quân Thuần-túy Việt-Nam Ngay khi nhậm-chức được 4 ngày, Tư-Lệnh Hải-Quân Lê-Quang-Mỹ bổ-nhiệm các Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam vào những chức-vụ chỉ-huy then-chốt. Các Sĩ-Quan Pháp bị thay-thế hết, chỉ trừ có Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang được lưu-giữ đến ngày 7 tháng 11 năm 1955. Phó-Đô-Đốc Edouard Jozan, Tư-Lệnh Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông, lập-tức thuyên-chuyển tất cả số Sĩ-Quan này sang làm việc bên Phái-bộ Huấn-Luyện Hỗn-hợp Mỹ-Pháp TRIM134. Lúc đó, thành-phần Hải-Quân Mỹ trong TRIM rất nhỏ-bé, chỉ gồm có 2 Sĩ-Quan Hải-Quân (và 1 Sĩ-Quan Thuỷ-Quân Lục-Chiến) trong một tổng-số là 155 người của phái-bộ.135 Nh́n vào con số ít ỏi đó, người ta thấy có lẽ cả Bộ TTM/QĐVNCH cũng như Bộ Quốc-Pḥng Hoa-Kỳ đều không mấy quan-tâm tới sự hiện-hữu cần-thiết của Hải-Quân Việt-Nam ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến 1954-1975. - Ngày 7 tháng 11 năm 1955, Pháp chuyển-giao Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang lại cho Hải-Quân Việt-Nam136. Kể từ đó, mỗi năm Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang đào-tạo khoảng 1,200 Sĩ-Quan và Đoàn-viên các cấp. - Tháng 12 ngày 7 năm 1955, để bành-trướng các hoạt-động ở sông-rạch, mỗi Hải-Đoàn được trang-bị 5-6 LCM, 4 LCVP và 5-6 hô-bo (hors-bord) có vận-tốc cao. - Hải-Quân tiếp-nhận hai Trợ-Chiến-Hạm (LSSL - Landing Ship Support Large): HQ-225 và HQ-226. Về quân-số, vào tháng 7 năm 1955, Hải-Quân Việt-Nam có 3,858 người, kể cả 1,291 Thuỷ-Quân Lục-Chiến.137 Cũng trong năm này, Hải-Quân thành-lập các lực-lượng lớn và tất cả Bộ Chỉ-Huy đều đặt tại Sài-G̣n. (1) Hải-Lực. Gồm có các chiến-hạm: - Ba PC (Patrol Craft or Submarine Chaser) Hộ-Tống-Hạm: Chi-LăngHQ-01, Vạn-Kiếp HQ-02, Đống-Da HQ-03. - Ba YMS Trục-Lôi-Hạm: Hàm-Tử HQ-111, Chương-Dương HQ-112, Bạch-Đằng HQ-113. - Hai LSSL Trợ-Chiến-Hạm: HQ-225 Nỏ-Thần138 và HQ-226 Linh-Kiếm. - Bốn LSM (Landing Ship Medium) Hải-Vận-Hạm: Hát-Giang HQ-400, Hàn-Giang HQ-401, Lam-Giang HQ-402, Ninh-Giang HQ-403. - Và 10 Tuần-Duyên-Đĩnh WBP139 (một loại Coast Guard Patrol Cutters).
Huy-Hiệu Bộ Chỉ-Huy Hải-Lực.
Một đơn-vị thuộc Hải-Lực: Trợ-Chiến-Hạm Linh-Kiếm HQ-226 (LSSL).
(2) Giang-Lực140 gồm có: - 5 Hải-Đoàn. Mỗi Hải-Đoàn được trang-bị tối-thiểu 5 Quân-Vận-Đĩnh (LCM - Landing Craft, Mechanized), 4 Tiểu-Vận-Đĩnh (LCVP - Landing Craft, Vehicle and Personnel), 5 Hô-bo có vận-tốc cao. - 4 Giang-Pháo-Hạm (LSIL - Landing Ship, Infantry, Large). - 5 Giang-Vận-Hạm (LCU - Landing Craft Utility). - 4 YTL (Yard Tug, Light or Harbor Craft). - Hậu-cứ các Hải-Đoàn được đặt tại Cần-Thơ, Mỹ-Tho, Vĩnh-Long, Long-Xuyên, Cát-Lái. (3) Các đơn-vị bờ141 gồm có: - Bốn Duyên-khu tại Phú-Quốc, Nha-Trang, Vũng-Tàu, Đà-Nẵng. - Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang. - Hải-Quân Công-Xưởng, - Trung-tâm Tiếp-liệu - Các Thuỷ-xưởng Cần-Thơ, Đà-Nẵng. (4) Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Kể từ ngày 21 tháng 12, Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam Lê-Quang-Mỹ công-bố Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam h́nh-thành và bắt đầu hoạt-động như là một Đại-đơn-vị của Hải-Quân.142 Bộ Tư-lệnh Hải-Quân được đặt ở Trại Bạch-Đằng sau khi Pháp bàn-giao căn-cứ Caserne Francis Garnier ở bờ Sông Sài-G̣n. Về Quân-Y, Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm-Tấn-Tước đảm-nhiệm chức-vụ Y-Sĩ-Trưởng Hải-Quân. Bộ Chỉ-huy Thuỷ-Quân Lục-Chiến cùng đóng chung ở Trại Bạch-Đằng. Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm-Tấn-Tước cũng phụ-trách luôn phần quân-y cho TQLC.143
Trụ-sở Hải-Quân Pháp ở bờ Sông Sài-G̣n vào đầu thế-kỷ 20.
Hải-Quân trong Chiến-dịch Nguyễn-Huệ Chiến-dịch Nguyễn-Huệ khai-diễn ngày 1-1-1956 dưới quyền Tư-lệnh của Thiếu-Tướng Dương-Văn-Minh. Vùng Hành-Quân rất rộng, được chia ra hai khu-chiến và một khu trái độn: - Khu-chiến Miền-Tây, hữu-ngạn sông Hậu từ Châu-đốc Rạch-Giá xuống Cà-Mau dưới quyền chỉ-huy của Đại-Tá Dương-Văn-Đức. Nhiệm-vụ chính là thanh-toán chủ-lực của ông Trần-Quang-Vinh và các lực-lượng giáo-phái ly-khai đang khuấy-rối đồn-bót. - Khu-chiến Đồng-Tháp, dưới quyền chỉ-huy của Trung-Tá Nguyễn-Văn-Là. Nhiệm-vụ chính là thanh-toán tàn-quân của ông Trần-Văn-Soái. - Khu trái độn là phân-khu Vĩnh-Long, dưới quyền điều-động của Đại-Tá Nguyễn-Văn-Quan. Chính-phủ đă huy-động vào chiến-dịch những lực-lượng hùng-hậu. Lần đầu-tiên có sự tham-dự của Sư-Đoàn 4 Dă-chiến, các Sư-Đoàn 11, 14, 15 khinh-chiến, các Trung-Đoàn Địa-phương, Cảnh-sát, Công-an Lưu-động. Hải-Quân cũng tập-trung những thành-phần rất đáng kể như sau: - 4 Hải-Đoàn Xung-phong 21, 22144, 23, 24 - 2 Giang-Pháo-Hạm - 1 Trợ-Chiến-Hạm - 3 Giang-Vận-Hạm - Một số-lượng lớn Xuồng M2. Trong số đó, Khu-chiến Đồng-Tháp được phân-chia 3 HĐXP, 1 LCU và 20 Xuồng M2. Hải-Quân hoạt-động đắc-lực trong khu-chiến này. Đặc-biệt là GĐ 21XP giữ an-ninh rất thành-công cho sườn phía Bắc của Sư-Đoàn 14 trong vùng giáp-giới Việt-Miên. Chiến-dịch Nguyễn-Huệ nhắm vào việc b́nh-định, tiễu-trừ lực-lượng giáo-phái ly-khai. Nhiệm-vụ giao-phó được coi như thành-công rực-rỡ. Chiến-dịch này chấm-dứt ngày 31-5-1956 đánh dấu sự hoàn-thành với việc mang Ông Trân-Văn-Soái về quy-thuận và việc bắt được Ông Ba-Cụt tại trận-tiền.145 Những Ngày cuối của Hải-Quân Pháp tại Việt-Nam Năm 1956 đánh dấu sự chấm-dứt lệ-thuộc nước Pháp, Lực-Lượng Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông (Forces Navales en Extrême-Orient: viết tắt FNEO) chính-thức giải-tán vào ngày 26 tháng 4, 1956. Tuy vậy, một số Sĩ-Quan và Đoàn-Viên người Pháp làm việc chung với đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam cũng vẫn c̣n. Hải-Lực nhận thêm 3 Giang-Pháo-Hạm (LSIL) nữa để có đủ 5 chiếc như dự-trù: Long-Đao HQ-327, Thần-Tiễn HQ-328, Thiên-Kích HQ-329, Lôi-Công HQ-330, Tầm-Sét HQ-331. Tháng 6 năm 1956, Trung-Hoa Dân-quốc Đài-Loan gửi 2 Khu-Trục-Hạm Hộ-Tống mang quân đổ-bộ chiếm-đóng đảo Ba-B́nh Itu-Aba. Để xác-nhận chủ-quyền của Việt-Nam, HQVNCH chỉ-thị Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04 trên đường từ Subic hồi-hương, bắt đầu tuần-tiễu vùng biển thuộc quần-đảo Trường-Sa.
Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04. .
Ngày 14 tháng 9 năm 1956, Hải-Quân Công-Xưởng tức Cơ-xưởng Ba-Son lớn nhất của toàn-cơi Việt-Nam và Đông-Nam-Á trở về với quyền sở-hữu của Hải-Quân Việt-Nam. Vào hồi 9 giờ 45 phút sáng hôm đó, lá cờ tam-tài được hạ xuống, chấm-dứt 98 năm thời Pháp-thuộc. Đứng dưới lá quốc-kỳ màu vàng ba sọc đỏ của Việt-Nam vừa được kéo lên kỳ-đài hải-xưởng, Tư-Lệnh HQVN, HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ được chỉ-định kiêm-nhiệm luôn chức Giám-Đốc.146 Trong năm này, kế-hoạch nghiên-cứu một Lực-Lượng Hải-Thuyền (LLHT) để tuần-tiễu và bảo-vệ duyên-hải147 được đệ-tŕnh Bộ Quốc-Pḥng. Căn-cứ trên thực-trạng "ngân-khoản eo-hẹp của một quốc-gia mới thu-hồi độc-lập không cho phép mua hạm-đội lớn", đây là một giải-pháp tự-lập có thể thi-hành được, không cần nhờ vả ngoại-bang. Giới-chức nghiên-cứu hy-vọng như vậy. Thế nhưng cũng lại v́ ngân-quỹ quốc-pḥng c̣n quá eo-hẹp mà trong khi "hạm-đội lớn" không có, kế-hoạch "hải-thuyền nhỏ" cũng chưa được phê-chuẩn.
Hàng chục ngàn ghe-thuyền tương-tự như chiếc này, thường-xuyên qua lại sát bờ biển cần được LLHT kiểm-soát.
Hải-Quân Công-Xưởng và Tiến-bộ mới Số-lượng chiến-hạm và chiến-đĩnh HQVN gia-tăng. Nhu-cầu sửa-chữa148 đ̣i-hỏi sự gia-tăng nhân-lực cho Hải-Quân Công-Xưởng (HQCX). Ước-tính đề-nghị cần phải có một số-lượng dân-chính lên tới 1,350 người. Vào cuối năm 1956, 52 nhân-viên gồm Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Dân-chính thuộc HQVNCH được gửi đi huấn-luyện ở Hải-Xưởng Mỹ tại Subic Bay, Phi-Luật-Tân. Sau đó, 19 kỹ-sư và chuyên-viên kiến-trúc tàu-bè người Nhật-Bản được tuyển-chọn và gửi qua để trợ-giúp kỹ-thuật cho HQCX Sài-G̣n.
Hải-Quân Công-Xưởng tức Sở Ba-Son, Cơ-xưởng lớn nhất vùng Đông-Nam-Á (h́nh chụp cuối thập-niên 1940).
Song-song với những cải-tiến hoạt-động tại HQCX cũng như tại các Hải-Xưởng khác, toàn-thể Hải-Quân Việt-Nam bắt đầu áp-dụng những phương-cách bảo-tŕ và sửa-chữa mới-mẻ, hữu-hiệu hơn khi trước. Thời Pháp, mỗi khi sửa-máy, cơ-khí-viên phải điều-tra để phát-hiện sự hư-hỏng, rồi tháo rời từng chi-tiết máy. Khi thấy bộ-phận nào hư-hỏng, nhân-viên chỉ sửa-chữa hay thay-thế cơ-phận hư-hỏng đó, c̣n những bộ-phận khác vẫn để tiếp-tục sử-dụng. Theo phương-pháp mới, toàn-thể khối máy hư hay đáo-hạn được thay-thế bằng nguyên-khối máy mới. Các loại máy chánh, máy phụ, máy điện v.v... đều được sửa-chữa định-kỳ. Khi chiến-hạm chiến-đĩnh đến thời-hạn vào xưởng đại-kỳ, Công-Xưởng sẽ tháo-gỡ toàn-bộ các máy, mang đi sửa-chữa và thường khi đưa toàn-bộ máy mới xuống thay-thế, không sửa-chữa chi-tiết lặt-vặt dưới tàu.149 Các máy cũ hay các khối máy hư-hỏng được giám-định phế-thải hay tân-trang bởi các xưởng chuyên-môn cho riêng loại máy đó. Phương-cách mới giúp việc theo-dơi t́nh-trạng kỹ-thuật chiến-hạm, chiến-đĩnh được dễ-dàng. Công-tác sửa-chữa đại-kỳ, tiểu-kỳ hay bất-thường đều được thi-hành rất sát với chương-tŕnh dự-trù đă tiên-liệu dài hạn từ trước.
Một góc Hải-Quân Công-Xưởng.
Biến-chuyển Đáng nói của Năm 1956 Các sử-gia, khi sưu-tầm và nghiên-cứu về HQVNCH, đă đồng-ư rằng năm 1956 là năm có nhiều diễn-biến mạnh-mẽ đưa Hải-Quân Việt-Nam đến giai-đoạn phát-triển (1957-1967) trong khi thiếu-thốn phương-tiện: Hải-lực Việt-Nam Cộng-Hoà chỉ gồm có các chiến-hạm nhỏ-bé nhưng đă mang lại sự tự-hào cho tinh-thần Quốc-gia Dân-tộc150. H́nh-ảnh Quốc-kỳ được kéo lên trên kỳ-đài gây những xúc-động rất lớn-lao làm nức ḷng mọi người. Cao-trào Độc-lập dâng-cao, quân-dân Việt-Nam Cộng-Hoà (VNCH) quyết-tâm đẩy ảnh-hưởng thực-dân Pháp ra khỏi lănh-thổ151. Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm gây áp-lực mạnh để Quân-đội Viễn-chinh Pháp phải rút ra sớm152, trước hạn-kỳ. Theo kế-hoạch Việt-Pháp kư-kết th́ Hải-Quân VNCH sẽ tăng lên đến 9,000 người. Chiến-hạm, chiến-đĩnh và phi-cơ được dự-trù trang-bị như sau: Hải-lực: - 4 Khu-Trục-Hạm DE - 10 Hộ-Tống-Hạm PC - 27 Tuần-Duyên-Đĩnh. Giang-lực: - 4 Giang-Pháo-Hạm LSIL - 2 Trợ-Chiến-Hạm LSSL - 4 Giang-Vận-Hạm LCU - 5 Hải-Đoàn Xung-phong (mỗi đơn-vị gồm 9 Quân-Vận-Đĩnh LCM và 8 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP).
Hải-Vận: - 4 Dương-Vận-Hạm LST - 4 Hải-Vận-Hạm LSM. Không-tuần: - 1 Phi-đội Thuỷ-phi-cơ.153 Nay HQVNCH đẩy Hải-Quân Pháp ra đi th́ chương-tŕnh Khu-Trục-Hạm Cao-Tốc mà HQVN một thời mong-đợi không c̣n nữa. Trong khi hai Chính-phủ Việt-Nam và Pháp đang đối-đầu về chính-trị, với tư-cách Tư-lệnh Hải-Quân một Quốc-gia độc-lập, HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ kư ngay lệnh bổ-nhiệm các Sĩ-Quan HQVN nắm lấy hết quyền chỉ-huy của Sĩ-Quan Pháp trên chiến-hạm cũng như tại mọi đơn-vị khác, kể cả TQLC 154.
Khi tràn vào Việt-Nam, người Nhật đă tịch-thu chiến-hạm, chiến-đĩnh của Pháp. Khi Nhật đầu hàng đồng-minh, đến lượt Hải-Quân Pháp được sử-dụng phương-tiện của Nhật. Đây là một loại Thuỷ-Phi-Cơ từ thời Nhật-thuộc.
Hải-Quân ư-thức ngay trách-vụ bảo-vệ các hải-đảo ngoài khơi Biển-Đông rất sớm: Ngay khi có quyền điều-động chiến-hạm, HQVNCH chỉ-thị Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04, trên đường hồi-hương (sau đại-kỳ ở Subic Bay về) tuần-tiễu quần-đảo Trường-Sa, chứng-minh chù-quyền lănh-hải.155 Một số hải-đảo quan-trọng trong toàn vùng Biển-Đông đă được thuỷ-thủ Việt-Nam cắm bia để xác-nhận chủ-quyền. Về việc tăng-cường pḥng-thủ Hoàng-Sa, HQVNCH đă gửi ra đảo những đơn-vị thiện-chiến của Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Về kinh-tế, HQVNCH đồng-thời vừa trợ-giúp kế-hoạch vừa cung-cấp phương-tiện khai-thác phân chim ở Hoàng-Sa. Một kế-hoạch tương-tự cũng được dự-trù cho Trường-Sa.
Hoạt-động của Hải-Lực trong những Ngày đầu Để tuần-dương, đầu-tiên Hải-Quân Việt-Nam được trang-bị 3 Hộ-Tống-Hạm: Chi-Lăng HQ-01, Vạn-Kiếp HQ-02, Đống-Đa HQ-03. Tiếp-theo, hai chiếc nữa là Tụy-Động HQ-04 và Tây-Kết HQ-05 cũng được Pháp trao vào năm 1956. HQ Trung-Úy Nguyễn-Ngọc-Quỳnh đại-diện Hạm-Trưởng nhận-lănh HQ-04 tại Sài-G̣n.156 Ông Quỳnh mang chiến-hạm ra Đà-Nẵng để trao lại Hạm-Trưởng chính-thức là HQ Đại-Úy Trần-Văn-Phấn tại đó. Những ngày đầu của Hải-Lực đă thực-sự xảy ra nhiều biến-cố dồn-dập: nhận-lănh tàu-bè vội-vàng trong khi HQVN c̣n non-yếu kinh-nghiệm, không đủ nhân-lực và dụng-cụ; lại thiếu-thốn yểm-trợ, sửa-chữa; nhân-viên chưa quen đơn-vị đă phải hoạt-động hành-quân, thăm-viếng, thao-diễn, tác-chiến liên-tục... chiến-hạm hư-hại đáng kể. Tuy vậy, khi nghe tin có một vài chiến-hạm của Hải-Quân Trung-Hoa CS đang lảng-vảng ở vùng biển Hoàng-Sa, Tư-Lệnh Hải-Quân, HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ liền dẫn ngay một hải-đội gồm các Hộ-Tống-Hạm và vài loại chiến-hạm khác nhau ra vùng Hoàng-Sa để biểu-dương lực-lượng. Đó cũng là dịp để các chiến-hạm Việt-Nam thám-sát Quần-đảo này lần đầu-tiên.157 Để đánh dấu những diễn-biến trưởng-thành quan-trọng, Hải-Quân Việt-Nam đă tổ-chức một cuộc diễn-hành để biểu-dương lực-lượng trên sông Sài-G̣n trong ngày Quốc-Khánh 26/10/1956. Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm đă đến chủ-toạ cuộc lễ.158 Hải-Quân Hoa-Kỳ (HQHK) gửi Tuần-Dương-Hạm USS Los Angeles (CA-135), có gắn Hoả-tiễn Regulus đến thăm-viếng thiện-chí.
Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm đi ngang Tuần-Dương-Hạm USS Los Angeles (CA-135) của HQHK trước khi duyệt-khán các chiến-hạm HQVNCH năm 1956.
Theo hồi-ức của Cựu Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh159 (bài viết năm 1993), vào ngày đó (26/10/1956) Ông là Chỉ-huy-Trưởng Hải-Lực. Lực-Lượng dưới quyền HQ Đại-Úy Tánh (sau này trở-thành Hạm-Đội HQVNCH) mới chỉ có 4 Hộ-Tống-Hạm PC, 3 Trục-Lôi-Hạm YMS, 2 Trợ-Chiến-Hạm LSSL, 5 Giang-Pháo-Hạm LSIL, 3 Hải-Vận-Hạm LSM và 10 chiếc Giang-Vận-Hạm LCU. Hai chiếc Hải-Vận-Hạm LSM, HQ-401 Ninh-Giang và HQ-402 Lam-Giang160 chỉ vừa mới được bàn-giao có 4 ngày trước buổi diễn-hành. Chuyến hải-hành tập-đội có tính-cách quy-mô đầu-tiên được thực-hiện vào mùa gió Tây-Nam, do đích-thân Tư-Lệnh Hải-Quân, HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ điều-động. Phụ-Tá của Ông là Chỉ-huy-Trưởng Hải-Lực, HQ Đại-Úy Lâm-Nguơn-Tánh. Đoàn tàu gồm có 2 Hộ-Tống-Hạm PC (HQ-02, HQ-03), 1 Trục-Lôi-Hạm YMS (HQ-111), 1 Trợ-Chiến-Hạm LSSL (HQ-225), 2 Giang-Pháo-Hạm LSIL (HQ-329, HQ-330) và 2 Hải-Vận-Hạm LSM (HQ-401, HQ402) khởi-hành từ Vũng-Tàu ngày 6-11-1956 đi An-Thới, Phú-Quốc.
Trợ-Chiến-Hạm Nỏ-Thần HQ-225. Hải-Đội trên đường thao-dượt th́ gặp băo (coup de vent), Tư-Lệnh cho các chiến-hạm được vận-chuyển tự-do, t́m chỗ neo tránh gió. Không may, hai chiến-hạm HQ-225 và HQ-111 đứt neo, bị sóng gió đánh giạt lên băi-biển An-Thới. V́ công-vụ, Trung-Tá Mỹ phải trở về Sài-G̣n. Chỉ-Huy-Trưởng Hải-lực đă thành-công kéo hai chiếc tàu ra khỏi chỗ cạn sau 15 ngày làm việc vất-vả. Chiếc Trục-Lôi-Hạm HQ-111, tuy được kéo ra trước nhưng v́ vỏ bằng cây nên sườn tàu bị méo-mó và sau đó phế-thải. C̣n chiếc Trợ-Chiến-Hạm HQ-225 may-mắn hơn, không bị hư-hại bao-nhiêu, tự-động chạy về được hải-xưởng Sài-G̣n.161
HQ Đại-Úy Chung-Tấn-Cang và HQ Trung-Úy Lộ-Văn-Dần trên đài chỉ-huy một chiếc Hải-Vận-Hạm mới lănh. Cảnh xuất-hiện trong một tác-phẩm điện-ảnh quay tại biển Nha-trang (1955), phim “Chúng Tôi Muốn Sống”.
Vị-thế Quân-giai của Tư-Lệnh Hải-Quân Khi HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ được bổ-nhiệm chỉ-huy HQVN, Ông là Phụ-Tá Hải-Quân dưới quyền của vị Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà. Hệ-thống quân-giai được tiếp-nối với Tổng-Trưởng Quốc-pḥng và trên nữa là Tổng-Thống, vị Tổng-Tư-Lệnh tối-cao của Quân-Đội. Phụ-Tá Hải-Quân không phải là một thành-phần của Bộ Tổng-Tham-Mưu, mà tất cả các thành-viên đều là Sĩ-Quan Bộ-Binh. Do đó, Hải-Quân có rất ít ảnh-hưởng đến các quyết-định quân-sự quan-trọng ở cấp cao. Vị-thế khiêm-nhường này tiếp-tục qua thời HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn. Vai-tṛ nhỏ-bé của Hải-Quân (gồm cả Thuỷ-Quân Lục-Chiến) thể-hiện trên quân-số lúc đó, Hải-Quân chỉ chiếm có 3.4 phần trăm của tổng-số Quân-đội 150,000 người.162
Cấp-Hiệu Hải-Quân cũng như của Lục-Quân và Không-Quân đă thay-đổi nhiều lần. Tài-liệu trích-dẫn này được ghi là: Phù-hiệu163 thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà (thiếu phần HSQ và Đoàn-Viên Hải-Quân).
Chuyến Hải-Tŕnh Thăm-viếng Thiện-chí Đông-Nam-Á Sau khi t́nh-h́nh Miền-Nam đă khá ổn-định, Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm cử HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ làm Trưởng phái-đoàn Hải-Quân đi thăm-viếng thiện-chí và cám-ơn các nước bạn đồng-minh chống Cộng-Sản trong vùng Đông-Nam-Á như Phi-Luật-Tân, Tân-Gia-Ba, Mă-Lai-Á, Thái-Lan. Phân-Đoàn gồm có 2 Hộ-Tống-Hạm PC và 1 Hải-Vận-Hạm LSM. Lúc ấy, HQ Thiếu-Tá Trần-Văn-Chơn là Chỉ-Huy-Trưởng Phân-Đoàn. HQ Đại-Úy Vương-Hữu-Thiều là Hạm-Trưởng chiếc Hải-Vận-Hạm. Chuyến hải-tŕnh viễn-du này dài tới một tháng. HQ Trung-Tá Lê-Quang-Mỹ được đón-tiếp nồng-hậu tại ba hải-cảng Manila, Singapore và Bangkok.164
Căn-bản Hải-Quân: các Đoàn-Viên Các sách sử Việt-Nam trong quá-khứ thường ghi rất ngắn-gọn những biến-cố quan-trọng với các hoạt-động của vua quan ở cấp lớn. Khi đọc những sách đó, người ta khó mà h́nh-dung ra được sự sinh-hoạt của tập-thể lớn nhất của quốc-gia là thường-dân. Cuốn Lược-sử này mô-tả về tổ-chức HQVNCH nên chỉ nói nhiều đến các giới-chức cao-cấp trong và ngoài Hải-Quân. Đó là những người nắm quyền điều-hành, ảnh-hưởng nhiều đến sự chuyển-biến của tổ-chức.165 Tuy-nhiên cũng đứng trên phương-diện tổ-chức, các đơn-vị Hải-Quân là những tập-thể mà trên dưới hoạt-động nhịp-nhàng liên-kết chặt-chẽ với nhau. Trên con tàu không phải một ḿnh vị Hạm-Trưởng làm được mọi việc, mà là sự hợp-lực hài-hoà, khéo léo của tất cả mọi người. Tàu tách bến mà anh thuỷ-thủ làm giây không buông giây đúng lúc th́ con tàu làm sao ra được.166 Hạm-trưởng chỉ có một mà đoàn-viên hàng trăm hay có khi hàng ngàn trên các chiến-hạm lớn, Vả lại, trang sử Hải-chiến nào cũng đẹp v́ t́nh huynh-đệ chi-binh. Cho dù là Đô-Đốc Tư-Lệnh cả Hạm-Đội hay một Thuỷ-thủ đang bắn súng cũng cùng chung một số-phận như nhau khi hai Hạm-Đội giao-chiến. Tàu ch́m, tất-nhiên họ cùng lúc hy-sinh. Ngoài các giới-chức cao-cấp như các Sĩ-Quan Hải-Quân đă được đề-cập rất nhiều trong suốt cuốn sách, những trang sau đây đặc-biệt lược-duyệt qua các đường nét huấn-luyện và sự-nghiệp tiến thân của các thành-viên được coi là hạ-tầng cơ-sở của tổ-chức. Đó là các Đoàn-Viên Hải-Quân.
Thành-phần Hạ-tầng của Hải-Quân Nói chung, các Đoàn-Viên Hải-Quân có thể phân ra 3 thành-phần như sau là Sĩ-Quan Đoàn-viên167, Hạ-Sĩ-Quan Chuyên-Nghiệp Hải-Quân và Thuỷ-Thủ Hải-Quân.168 (1)- Sĩ-Quan Đoàn-viên Chuyên-nghiệp: Thời-gian quân-vụ và khả-năng chuyên-nghiệp của các Sĩ-Quan Đoàn-Viên rất cao. Họ là những gạch nối quan-trọng giữa Chỉ-Huy-Trưởng và Đoàn-viên các đơn-vị bờ cũng như chiến-hạm. Họ cũng là những Huấn-luyện-viên xuất-sắc của các quân-trường Hải-Quân. Vào thời-kỳ bành-trướng 1967-1972, v́ thiếu cán-bộ chuyên-môn cao, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân quyết-định mở các lớp Sĩ-Quan Đoàn-viên do Hải-Quân huấn-luyện tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc vào năm 1969.169 Tổng-cộng có 4 khoá, mỗi khoá khoảng 60 người, thời-gian học là 6 tháng. Họ học chuyên-môn rất ít, phần lớn học về tổ-chức đơn-vị và lănh-đạo chỉ-huy. Đến năm 1972 chương-tŕnh này chấm-dứt. Để được theo học các khoá Sĩ-Quan Đoàn-viên, ứng-viên phải có những điều-kiện sau đây: - Cấp Trung-Sĩ I, Thượng-Sĩ có bằng Trung-Học Đệ-Nhất-Cấp. - Cấp Thượng-Sĩ nhất, phải có bằng Cao-Đẳng Chuyên-Nghiệp hay bằng Trung-Học Đệ-Nhất-Cấp. Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, các khoá-sinh tốt-nghiệp mang cấp-bậc cao nhất là Đại-Úy. Tuy chưa có vị nào trở-thành Hạm-Trưởng,170 nhưng một số đă nắm quyền Thuyền-Trưởng các Giang-Vận-Hạm và Duyên-Tốc-Đĩnh. (2) - Hạ-Sĩ-Quan Chuyên-Nghiệp Hải-Quân Hải-Quân mở hai khoá Hạ-Sĩ-Quan Hải-Quân: Khoá thứ nhất có khoảng 200 người, đa-số là ứng-viên thanh-niên học-sinh, và c̣n một số ít là Đoàn-Viên về học tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Điều-kiện để theo học các khoá này: - Ứng-viên tối-thiểu phải có bằng Trung-Học Đệ-Nhất-Cấp và đầy-đủ sức khoẻ để đi biển. - Học 3 tháng cơ-bản quân-sự tại TTHL/HQ Nha-Trang. - Ra trường đi tập-sự với cấp-bậc Thuỷ-Thủ Tập-Sự. - Sau ba tháng trở lại TTHL/HQ Nha-Trang học Sơ-Đẳng Chuyên-Nghiệp theo ngành-nghề họ chọn. Sau 3 đến 6 tháng học chuyên-nghiệp họ được cử đi tập-sự tại các đơn-vị Hải-Quân trong 4 tháng. Sau hết, trở lại quân-trường để thụ-huấn Trung-Đẳng Chuyên-Nghiệp, thời-gian từ 3 đến 6 tháng tùy theo ngành-nghề và từ đấy sau khi ra trường họ mới chính-thức trở-thành Hạ-Sĩ-Quan Hải-Quân. Tổng-cộng thời-gian họ thụ-huấn trong quân-trường là 11 tháng. Tất cả 2 khoá đă đào-tạo cho HQVNCH trên 400 Hạ-Sĩ-Quan. Sau đó, HQVN không mở thêm một lớp nào nữa, mà chỉ huấn-luyện chuyên-nghiệp cho các HSQ và Đoàn-viên Hải-Quân mà thôi Đa-số các vị HSQ này đều trở về học các khoá Sĩ-Quan Đoàn-Viên tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc. Cũng trong hai khoá Hạ-Sĩ-Quan này vào năm 1963 – 1964, các khoá-sinh có bằng Tú-Tài I được gọi đi học tại Trường Sĩ-Quan Trừ-Bị Thủ-Đức. Sau khi tốt-nghiệp, đa-số họ chọn các quân, binh-chủng khác, chỉ một số nhỏ trở lại phục-vụ Hải-Quân. Do đó HQVN đă mất đi một số cán-bộ ưu-tú về chuyên-môn. Người có cấp-bậc cao nhất của hai khoá này lên tới cấp Thiếu-Tá, làm Chỉ-Huy-Trưởng một đơn-vị.171 (3) - Thuỷ-Thủ Trong tất cả các quân, binh-chủng QLVNCH, Hải-Quân tuyển-chọn thuỷ-thủ với tiêu-chuẩn văn-hoá khá cao: 1 - An-ninh lư-lịch rơ-ràng. 2 - Sức khoẻ tốt. 3 – Văn-hoá: bằng Trung-Học Đệ-Nhất-Cấp. Sau khi trúng-tuyển vào Hải-Quân, các khoá-sinh phải qua những giai-đoạn huấn-luyện sau đây: - Ba tháng căn-bản quân-sự, ra trường với cấp-bậc Thuỷ-Thủ Tập-Sự. - Trở về TTHL/HQ, học Sơ-Đẳng Chuyên-Nghiệp từ 3 đến 6 tháng tuỳ theo ngành-nghề. Sau đây là những ngành-nghề chính của Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVNCH: 1- Kế-Toán: Quản-trị hành-chánh, quân-lương 2- Tiếp-Vụ: Đảm-trách ẩm-thực 3- Trọng-Pháo: Sử-dụng và bảo-tŕ vũ-khí, đạn-dược 4- Vô-Tuyến: Khai-thác truyền-tin, nhận và chuyển công-điện 5- Giám-Lộ: Truyền-tin bằng cờ hiệu, đèn hiệu, định vị-trí chiến-hạm, tu-bổ, bảo-tŕ các dụng-cụ hải-hành, cờ hiệu... 6- Vận-Chuyển: Lái tàu, bảo-tŕ vỏ tàu, xuồng, neo, xích neo và dây cột tàu 7- Điện-Khí: Sử-dụng bảo-tŕ và sửa-chữa máy điện 8- Điện-Tử: Bảo-tŕ và sửa-chữa dụng-cụ điện-tử 9- Thám-Xuất: Kiểm-soát radar và sonar, theo-dơi các hoạt-động trên không, trên và dưới mặt biển 10- Quản-Kho: Phụ-trách về quân-trang, quân-dụng và tiếp-liệu 11- Y Tá: Đảm-trách về quân-y 12- Bí-Thư: Đảm-trách dịch-vụ hành-chánh và văn-thư 13- Cơ-Khí: Sửa-chữa, bảo-tŕ máy chánh, các loại động-cơ nổ, máy lọc-nước... 14- Pḥng-Tai: Cứu-hoả và cứu-thuỷ 15- Điện-pháo: Sử-dụng và bảo-tŕ hệ-thống điện của vũ-khí, đạn-dược.
Phù-hiệu 14 chuyên-nghiệp của Đoàn-viên HQVN. C̣n chuyên-nghiệp điện-pháo: giống trọng-pháo, bao ngoài là 4 tia chớp-điện.
Sau khi được huấn-luyện chuyên-môn, các khoá-sinh măn-khoá được đeo phù-hiệu chuyên-nghiệp và cấp-bậc bên tay áo trái và khi trở-thành Sĩ-Quan Đoàn-viên th́ không c̣n đeo phù-hiệu chuyên-nghiệp nữa. Qua một thời-gian từ hai đến ba năm công-vụ, các khoá-sinh được gửi về học các lớp Hạ-Sĩ-Quan, thời-gian học là 4 tháng tại TTHL/HQ Nha-Trang hoặc TTHL/HQ Cát-Lái. Khoảng 1 hoặc 2 năm sau khoá-sinh được gọi về học các lớp Trung-Đẳng Chuyên-Nghiệp tại TTHL/HQ Nha-Trang. Muốn trở-thành Sĩ-Quan Đoàn-Viên, khoá-sinh tốt-nghiệp Trung-Đẳng phải qua một lớp Cao-Đẳng Chuyên-Nghiệp và ghi-danh theo học Khoá Sĩ-Quan Đoàn-Viên. Thời-gian học là 6 tháng. Trong năm 1969, có 50 tân-binh Hải-Quân đang học tại Cam-Ranh - được tuyển-chọn đi thụ-huấn căn-bản quân-sự tại Hoa-Kỳ. Đây là khoá căn-bản quân-sự duy-nhất được học tại nước ngoài. Vào những năm 1968-1969, để theo kịp đà chuyển-giao các tàu-bè và chiến-cụ tối-tân với kỹ-thuật cao, nhiều Đoàn-Viên được gửi đi tu-nghiệp tại Hoa-Kỳ, tùy theo ngành-nghề từ 6 tháng đến 1 năm, sau khi đă học 6 tháng Anh-Ngữ tại Trung-Tâm Sinh-Ngữ Quân-Đội. Đa-số các khoá-sinh tu-nghiệp thuộc các chuyên-nghiệp Cơ-Khí, Điện-Khí, Vô-Tuyến, Điện-Tử và Pḥng-Tai và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 một số Sĩ-Quan và Đoàn-viên Hải-Quân đă bị kẹt lại Hoa-Kỳ cho đến nay.172
Đoàn-viên Hải-Quân đi du-học tại Hoa-Kỳ. Có cả một lớp huấn-luyện căn-bản quân-sự.
Phụ-bản của Chương 2 Quân-Phục và Phù-Hiệu Hải-Quân Việt-Nam ngày đầu
1 - Tinh-thần Hải-Quân Việt-Nam trong những Ngày đầu Thành-lập Hải-Quân Việt-Nam, trong những ngày đầu thành-lập, là một tập-thể có tinh-thần quốc-gia rất mạnh-mẽ. Các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Thuỷ-Thủ đều tự-hào là chiến-sĩ của Quân-đội Quốc-gia Việt-Nam ngay từ khi được huấn-luyện và thực-tập trên các chiến-hạm và đơn-vị HQ Pháp. Họ nêu cao tinh-thần dân-tộc, dốc chí học-tập những điều mới lạ về hải-nghiệp do những huấn-luyện-viên kỳ-cựu của Hải-Quân Pháp truyền-đạt. Sự thông-minh cần-cù, lănh-hội nhanh-chóng những kỹ-thuật mới-mẻ của thuỷ-thủ-đoàn Việt-Nam khiến người Pháp nể-phục. Các Sĩ-Quan tốt-nghiệp tại Trường Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp, L’École Navale de Brest hay tại Nha-Trang đều có kiến-thức đại-học. Về cách ăn-mặc và xă-giao họ rất lịch lăm. Cũng như Sĩ-Quan, các Hạ-Sĩ-Quan, Đoàn-Viên tiên-phong là nền-tảng của Hải-Quân Việt-Nam. Họ là các huấn-luyện-viên giỏi của trường Sĩ-Quan Hải-Quân, những bậc thầy gương-mẫu trong các trường Cao-Đẳng, Trung-Đẳng, Sơ-Đẳng Chuyên-nghiệp về sau này. Đặc-biệt những vị huấn-luyện-viên kinh-nghiệm Trường Ngoài Khơi đă nâng cao khả-năng tác-chiến trên biển của HQVN lên rất nhiều. Về cách ăn-mặc lúc đầu, tuy có đôi chút ảnh-hưởng của Hải-Quân Pháp, nhưng v́ tinh-thần khát-khao tự-chủ, cái ngù đỏ bằng len của chiếc mũ Hải-Quân Pháp biến ngay thành cái ngù đen bằng cao-su cho các Thuỷ-Thủ Việt. Những con rồng bằng kim-tuyến uốn khúc trên vành nón casquette và trên cầu-vai của các Sinh-Viên Sĩ-Quan và Sĩ-Quan đă làm nổi-bật tính-chất con Rồng cháu Tiên độc-đáo của dân-tộc.
Nhiều bài báo Pháp thời thập-niên 1950 thường đề-cập tới tinh-thần tự-chủ của Quốc-Gia Việt-Nam qua những biểu-tượng “Rồng Tiên” này.
Sau này hồi-tưởng lại, vị Đô-Đốc đă hai lần làm Tư-Lệnh Quân-chủng là ông Trần-Văn-Chơn, đă tâm-sự trong một buổi gặp-gỡ tại tư-gia ông Tôn-Thất-Thuấn, một vi SQ Hàng-Hải Thương-Thuyền kỳ-cựu ở San Diego năm 2001 như sau: Lúc mới bắt đầu thành-lập Quân-đội Quốc-gia, mặc dầu quyền-lợi về lương-bổng bên Hàng-Hải Thương-Thuyền cao hơn bên Hải-Quân, tuy-nhiên tôi vẫn xin chuyển qua Hải-Quân để phục-vụ quân-đội và Tổ-Quốc-và tôi rất hănh-diện trong bộ quân-phục của Hải-Quân Việt-Nam.
Quân-phục của Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam vào thập-niên 1950. Lưu-ư 3 loại mũ thay-đổi khác nhau.
2- Cấp-bậc và Phù-hiệu HQVN trong những Ngày đầu Thành-lập Trong giai-đoạn h́nh-thành, cấp-bậc và chuyên-nghiệp từ Thuỷ-Thủ cho đến Hạ-Sĩ I thuộc Hải-Quân Việt-Nam rất là phiền-phức. Có nhiều cách đeo cấp-bậc. Trên quân-phục tiểu-lễ, Thuỷ-Thủ tân-binh: dưới ô vuông Thuỷ-Thủ chưa có vạch nào. Khi măn-khoá chuyên-nghiệp th́: - Thuỷ-Thủ chuyên-nghiệp (Matelot Spécialisé), có một gạch bên dưới ô vuông huy-hiệu. - Khi lên Hạ-Sĩ (Quartier Maître), có hai gạch bên dưới ô vuông huy-hiệu. - Hạ-Sĩ I (Quartier Maître 1ère Classe), có ba gạch dưới ô vuông huy-hiệu. Nhưng khi mặc quần-áo làm việc xanh, th́ lại khác hẳn, lon đeo trên cầu vai, Thuỷ-Thủ một vạch ngang màuđỏ, Hạ-Sĩ hai vạch đỏ, Hạ-Sĩ I ba vạch đỏ, chụp ảnh đen trắng, trông như Thiếu-Úy, Trung-Úy và Đại-Úy. Riêng các người tốt-nghiệp lớp Hạ-Sĩ-Quan, được chọn từ lớp Sơ-Đẳng theo học, ra trường đeo Hạ-Sĩ I, cấp-bậc là một vạch vàng to bản, có hai lằn chỉ xanh ở hai đầu vạch vàng. Tiếng Việt vẫn gọi họ là Hạ-Sĩ I, nhưng tiếng Pháp gọi là Quartier Maître Maitrancier. Một loại Hạ-Sĩ-Quan xuất-thân từ trường chứ không phải sống lâu lên lăo làng. Dập theo hệ-thống cấp-bậc và cách đeo lon của Hải-Quân Pháp, có nhiều điều bây giờ nhớ lại, thật là ngộ-nghĩnh. Với hàng Hạ-Sĩ-Quan, từ Trung-Sĩ trở lên mặc quân-phục như Sĩ-Quan. Đặc-biệt Trung-Sĩ I, đeo ba chữ V trên tay áo, nhưng trên nón lại có một vạch vàng quanh nón, trông đằng sau hệt như lon của một vị Thiếu-Úy. Người Pháp vốn quư các hàng Hạ-Sĩ-Quan này, coi là những vị thầy của các ngành, viên Trung-Sĩ I, Pháp gọi là Maître (Thầy). Thượng-Sĩ trên tay áo đeo một vạch vàng to, một sợi chỉ trắng ở giữa và một vạch vàng nhỏ song-song nhau, Pháp gọi là Maître Principal. Nếu vị Thượng-Sĩ này được thăng-cấp th́ không lên Thiếu-Úy mà lên thẳng Trung-Úy. Lon của vị Trung-Úy từ Đoàn-Viên lên c̣n có hai vạch, nhưng có một nút vàng gắn giữa hai vạch ấy. Hải-Quân Việt-Nam có vài vị ở giai-đoạn đầu h́nh-thành đeo lon như thế. Sau khi Pháp ra đi, quân-phục, cấp-bậc đổi lại. Các vị Sĩ-Quan Việt-Nam từ đoàn-viên lên, tổng-quát không có ǵ khác, ngoại-trừ màu dạ trên cầu vai mà thôi. Hải-Quân là một quân-chủng với nhiều ngành, nghề chuyên-nghiệp. Tùy khả-năng và kiến-thức, mỗi người được lựa-chọn vào một nghề riêng. Nhất là ở giai-đoạn h́nh-thành, do người Pháp huấn-luyện, ai muốn được chọn vào Hải-Quân, lúc ấy, năm 1952, 53, 54, người ấy phải nói và viết được tiếng Pháp, tương-đương với lớp đệ-tứ. Qua một kỳ thi văn-hoá, căn-cứ trên kết-quả, các thí-sinh được xếp theo thứ-tự từ 1 đến 5. Ai được xếp vào loại 5, coi là giỏi, nói và viết thông-thạo Pháp-ngữ, được chọn các nghề như Bí-Thư, Kế-Toán, Giám-Lộ. Sau là Cơ-Khí, Trọng-Pháo, Nhà Bếp (Tiếp-Vụ). V́ thế, những lớp người tiên-khởi gia-nhập Hải-Quân từ lớp đoàn-viên, sau là các Hạ-Sĩ-Quan, các cán-bộ huấn-luyện chuyên-nghiệp. Chính lớp người này đă là ṇng-cốt của hạ-tầng cơ-sở, xây-dựng cho Hải-Quân Việt-Nam những viên gạch chắc-chắn, vững-bền.
Một sĩ quan Hải-Quân chỉ-huy cuộc diễn-hành tại bến Bạch-Đằng.giữa thập-niên 1950. (Ảnh của Ông Nguyễn-Văn-Thông).
Trích từ bài “Quân-Phục, Cấp-Bậc, Phù-Hiệu Chuyên-Nghiệp HQVNCH” của HQ Trần-Chấn-Hải. Xin xem tiếp Phụ-Bản về Quân-phục, Cấp-Bậc, Phù-hiệu Chuyên-Nghiệp HQVNCH ở phía sau.
Chương 3 Giai-đoạn Phát-triển (1957-1967)
Cho dù gặp những trở-ngại trên bước h́nh-thành, nhiều khó-khăn khi dựng lại cờ Tổ-Quốc trên kỳ-đài chiến-hạm; sau năm 1956, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà (HQVNCH) cũng đă tiến được những bước khởi-hành vững-chắc. Năm 1957 T́nh-h́nh bang-giao Việt-Nam Cambodge căng-thẳng dần từ cuối năm 1956. Hải-Quân VNCH gửi 1 Trợ-Chiến-Hạm, 2 Quân-Vận-Đĩnh và 4 Giang-Vận-Hạm chuyên-chở 2,400 Việt-kiều bị chính-phủ Cambodge trục-xuất hồi-hương về Việt-Nam vào tháng 2 năm 1957. Cuối tháng 4, 4 Hải-Vận-Hạm cùng 3 Giang-Pháo-Hạm hoàn-tất việc chuyển-vận 1,500 đồng-bào từ Đà-Nẵng đến Cát-Lái trên đường đi Phước-Long định-cư. Tháng 5, các Sĩ-Quan Hải-Quân Pháp cuối-cùng rời Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang173, giao hoàn-toàn trọng-trách huấn-luyện lại cho Hải-Quân Việt-Nam. Hải-Quân Việt-Nam nhận thêm nhiều Modified Landing Craft (loại tiểu-đĩnh có khả-năng chạy trên sông và trên ruộng lúp-xúp nước), 2 Quân-Vận-Đĩnh (LCM), 2 Hộ-Tống-Hạm (PC - Patrol Craft) và 3 Trục-Lôi-Hạm YMS (Yard Minesweeper). Hầu-hết các giang-đĩnh và chiến-hạm này đều do Hoa-Kỳ viện-trợ cho Pháp trong thời-kỳ chiến-tranh Đông-Dương và nay Pháp giao lại cho Việt-Nam. Khi chuyển-giao các chiến-hạm và chiến-đĩnh đó lại cho Hải-Quân Việt-Nam, một vài nhân-viên Hải-Quân Pháp quá-khích đă phá-hoại bằng cách bỏ cát trong dầu chạy máy hoặc nhận bùn vào các ống dẫn dầu khiến một số chiến-cụ bị hư. Một số tàu-thuyền khác v́ t́nh-trạng thiếu bảo-tŕ, HQVN chỉ sử-dụng được một thời-gian ngắn rồi đành phế-thải. Năm 1957 là thời-gian Hải-Quân tăng-trưởng, toàn-thể Hải-Quân gồm cả Thuỷ-Quân Lục-Chiến (do HQ trực-tiếp chỉ-huy) có 4,800 người. Đặc-biệt Giang-Lực tăng 50 phần trăm.174 Các Quân-y-sĩ hiện-dịch lần-lượt trở về và đă được Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm-Tấn-Tước bổ-nhiệm vào phục-vụ ở Bệnh-xá Bạch-Đằng, Bệnh-xá Hải-Quân Công-Xưởng, Căn-cứ Cát-Lái, Bệnh-xá Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang. Riêng Bác-sĩ Nguyễn-Phúc-Quế được chỉ-định làm Y-Sĩ-Trưởng Thuỷ-Quân Lục-Chiến và cùng với Đại-Úy Lê-Nguyên-Khang tiếp-nhận căn-cứ Cam-Ranh. Bệnh-xá đầu-tiên của TQLC được Bác-Sĩ Quế thành-lập ở B́nh-Ba, Cam-Ranh.175 HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn thay-thế HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ trong chức-vụ Tư-lệnh Hải-Quân. Sau khi khoá 7 măn-khoá, để có thời-gian chuẩn-bị cho một chương-tŕnh huấn-luyện hoàn-toàn Việt-Nam, Trung-Tâm không nhận ngay Sinh-Viên. Một số Sĩ-Quan ưu-tú được gọi về chuẩn-bị làm huấn-luyện-viên176, đă hoàn-thành việc soạn-thảo chương-tŕnh học-tập cho các khoá Hải-Quân sau này.
Trung-Úy Nguyễn-Đỗ-Hải (sau này thăng-cấp tới Đại-Tá, h́nh trên) là một trong số Sĩ-Quan đă hoàn-thành việc soạn-thảo chương-tŕnh huấn-luyện SQHQ.
Cuối năm 1957, Hải-Quân gửi chiến-hạm, Thuỷ-Quân Lục-Chiến cùng quân bạn tham-dự Chiến-dịch Hồng-Nhạn tại vịnh Thái-Lan. Các Sĩ-Quan Khoá 7 thực-tập lần cuối trên các chiến-hạm thuộc Chiến-dịch này, trước khi họ chính-thức được bổ-nhiệm đi các đơn-vị.177 Khoá Đầu-tiên có tên “Thiên-Văn” Khoá 7 là khoá đầu-tiên có tên “Thiên-Văn”. Năm 1956, HQVN quyết-định đặt tên cho Khoá 7 là Đệ-Nhất Thiên-Xứng. Đó là chùm sao số 7 của Hoàng-Đạo. Các khoá kế-tiếp được đặt tên theo ṿng thứ-tự 12 chùm sao của ṿng Hoàng-Đạo đó. Khoá 8 là Đệ-Nhất Hổ-Cáp, khoá 9 là Đệ-Nhất Nhân-Mă, khoá 10 là Đệ-Nhất Nam-Dương, khoá 11 là Đệ-Nhất Bảo-B́nh, khoá 12 là Đệ-Nhất Song-Ngư. Tiếp-theo qua “ṿng” thứ hai, khoá 13 mang tên là Đệ-Nhị Dương-Cưu.. Qua tới “ṿng” thứ ba, khoá 25 mang tên là Đệ-Tam Dương-Cưu. v.v...178
Huy-Hiệu Đệ-Nhất Thiên-Xứng, thực-hiện khi các Cựu SVSQ/HQ khoá 7 họp mặt tại Westminster năm 2004.
Cách Đặt tên Các Khoá Sĩ-Quan Hải-Quân theo Cḥm Sao Như đoạn trên đă đề-cập, Khoá 7 được đặt tên là Đệ-Nhất Thiên-Xứng theo tên cḥm sao số 7 trên Hoàng-Đạo. Các khoá đàn anh của Khoá 7 tại TTHL/HQ/Nha-Trang đương-nhiên179 được mang những tên như sau: Khoá 1- Đệ-Nhất Dương-Cưu Khoá 2- Đệ-Nhất Kim-Ngưu Khoá 3- Đệ-Nhất Song-Nam Khoá 4- Đệ-Nhất Bắc-Giải Khoá 5- Đệ-Nhất Hải-Sư Khoá 6- Đệ-Nhất Xử-Nữ.
Mười hai chùm sao trên Hoàng-Đạo.
Sau đây là một vài chi-tiết bổ-túc cho danh-xưng của các cḥm sao này: Mặt Trời di-chuyển giáp một ṿng biểu-kiến trên Hoàng-Đạo (Ecliptic) trong thời-gian một năm chừng 365 ngày 1/4, đi ngang qua 12 cḥm sao. Các cḥm sao này tương-tự như 12 con giáp (Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) của khoa chiêm-tinh-học Đông-phương. Nếu tính từ điểm xuân-phân (21 tháng 3), các cḥm sao được gọi tên theo các tiếng Việt, Anh, Pháp như sau: Số 1- Dương-Cưu (Bélier hay Aries); từ 21 tháng 03 đến 20 tháng 04. Số 2- Kim-Ngưu (Taureau hay Taurus); từ 21 tháng 04 đến 20 tháng 05. Số 3- Song-Nam (Gémeaux hay Gemini); từ 21 tháng 05 đến 21 tháng 06. Số 4- Bắc-Giải (Cancer): từ 22 tháng 06 đến 22 tháng 07. Số 5- Hải-Sư (Lion hay Leo): từ 23 tháng 07 đến 23 tháng 08. Số 6- Xử-Nữ (Vierge hay Vergo): từ 24 tháng 08 đến 22 tháng 09. Số 7- Thiên-Xứng (Balance hay Libra); từ 23 tháng 09 đến 23 tháng 10. Số 8- Hổ-Cáp (Scorpion hay Scorpius); từ 24 tháng 10 đến 22 tháng 11. Số 9- Nhân-Mă (Sagittaire hay Sagittarius); từ 23 tháng 11 đến 21 tháng 12. Số10-Nam-Dương (Capricorne hay Capricornus):Từ 22 tháng 12 đến 20 tháng 01. Số 11- Bảo-B́nh180 (Verseau hay Aquarius); từ 21 tháng 01 đến 19 tháng 02. Số 12- Song-Ngư (Poissons hay Pisces); từ 20 tháng 02 đến 20 tháng 03.
Chương-Tŕnh Huấn-Luyện Sĩ-Quan Kể từ năm 1957, Chương-Tŕnh Huấn-Luyện Sĩ-Quan HQVN được tiêu-chuẩn-hoá như sau: a - Ngành Chỉ-Huy: Mặc-dù thời-gian học tại quân-trường là 2 năm, 18 tháng hay một năm th́ các môn học chính vẫn như nhau. Học-tŕnh chỉ có rút ngắn cho thích-hợp với thời-gian. - Giai-Đoạn 1: Sinh-Viên Sĩ-Quan từ giai-đoạn sơ-khởi đến Chuẩn-Úy, phải hoàn-tất các môn học như Toán-học đại-cương, Lượng-giác h́nh-học phẳng và Lượng-giác không-gian (Lượng-giác cầu), Vận-Chuyển thực-tập và lư-thuyết nhập-môn, Điện-Từ-Trường, Điện Kỹ-Nghệ cấp 1, Anh-Văn và các môn phụ. Căn-bản quân-sự, Tháo-ráp vũ-khí nhẹ và Thực-hành tác-xạ. - Giai-Đoạn 2: Sinh-Viên chuẩn-bị tốt-nghiệp Thiếu-Úy gồm có các môn chính trong Hải-Nghiệp như Vận-Chuyển Lư-thuyết, Hàng-Hải Thiên-Văn, Sức-bền Vật-Liệu, Lư-thuyết Thuyền-Bè tàu nổi và tàu ngầm, Cơ-Khí Động-Cơ Nổ 2 th́ và 4 th́, Điện-Kỹ-Nghệ cấp 2, Vận-Chuyển Chiến-Thuật, Anh-Văn và các môn phụ. b - Ngành Cơ-Khí: Có các môn chính như sau: Động-Cơ-Nổ 2 th́ và 4 th́, Động-Cơ Diesel, Điện-Kỹ-Nghệ, Pḥng-Tai, Sức-Bền Vật-Liệu, Lư-Thuyết Thuyền-Bè áp-dụng cho tàu nổi và tàu ngầm. Chú-trọng nhiều về nguyên-tắc và thực-hành việc bảo-tŕ các loại động-cơ. Các môn phụ tương-tự như các môn phụ của ngành Chỉ-Huy như Căn-bản quân-sự, Tháo-ráp vũ-khí nhẹ, Thực-hành tác-xạ...
Năm 1958 - Chiến-dịch Hồng-Nhạn tại Phú-Quốc tiếp-diễn. - Trong kế-hoạch di-tản đồng-bào đi lập ấp mới, các chiến-hạm chiến-đĩnh chuyển-vận đă chuyên-chở đồng-bào từ Ba-Nam về U-Minh, Cái-Sắn. - Khoá Sĩ-Quan Hải-Quân đầu-tiên được tuyển-mộ và huấn-luyện bởi chính Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam là Khoá 8 Hổ Cáp. Danh-hiệu Sĩ-Quan Tàu-Ngầm đă xuất-hiện khi các SVSQ Khoá 8 lần đầu-tiên mang cầu vai đen không cấp-bậc, trong giai-đoạn sơ-khởi 3 tháng đầu-tiên. - Các nhà quân-sử VNCH thường cho rằng những năm 1957-1958 là thời-gian tương-đối thanh-b́nh ở Miền-Nam Việt-Nam. Tuy vậy, riêng Hải-Quân ghi-nhận một biến-chuyển lớn: Tiểu-Đoàn 1 Thuỷ-Quân Lục-chiến, trong khi hành-quân có Hải-Đoàn Xung-phong yểm-trợ tại An-Xuyên là vùng cực Nam của VNCH, đă đụng quân Cộng-Sản.181 Biến-cố này chứng-tỏ dă-tâm của Bắc-Việt khởi-sự xâm-lăng Miền-Nam từ năm 1958, tức là chỉ 4 năm sau khi chúng kư-kết hiệp-định đ́nh-chiến Genève.182
Biến-cố Hoàng-Sa Trong khi t́nh-h́nh trong nội-địa VNCH cho tới những năm 1958, 1959 c̣n tương-đối lắng-dịu th́ ngoài Biển-Đông đă xảy ra mấy biến-cố quan-trọng. Trước hết vào đêm 20 rạng 21 tháng 2 năm 1956, Trung-Cộng bất-thần gửi Hồng-Quân đổ-bộ và chiếm-đóng đảo Phú-Lâm (Woody Island). Phú-Lâm thuộc nhóm đảo An-Vĩnh là ḥn đảo lớn nhất trong quần-đảo Hoàng-Sa, cách đảo Hoàng-Sa (Pattle Island, thuộc nhóm đảo Trăng-Khuyết) là nơi có quân trú-pḥng Việt-Nam, 50 hải-lư. Trong mùa Xuân năm 1956, 200 Hồng-Quân Trung-Hoa xây-cất xong 11 doanh-trại trên Phú-Lâm.183 Vào ngày 9 tháng 6 năm 1956, quân-nhân Việt-Pháp cùng nhân-viên đài Khí-tượng tại đảo Hoàng-Sa báo-cáo thấy 200 "lính" dân-quân Trung-Cộng đổ-bộ lên đảo Robert (đảo Hữu-Nhật). Việt-Nam phản-ứng ngay bằng cách điều-động một Hộ-Tống-Hạm, một Hải-Vận-Hạm và hai Giang-Pháo-Hạm ra ngay Hoàng-Sa184. Không có súng nổ và Việt-Nam tái-chiếm lại Hữu-Nhật khi Trung-Cộng âm-thầm rút-lui.
Bản-đồ Vị-trí Tổng-quát Quần-đảo Hoàng-Sa. Vào tháng 2 năm 1959, Trung-Cộng lại âm-mưu một kế-hoạch “tầm ăn dâu” khác. Trước hết, một số ngư-phủ được gửi tới đánh cá gần quần-đảo của ta. Thấy không có quân trú-pḥng trên đảo Quang-Hoà (Duncan Island), đám ngư-phủ này chiếm luôn đảo đó. Trợ-Chiến-Hạm Nỏ-Thần HQ-225 được lệnh đến nơi điều-tra. Sau đó, thêm 5 chiến-hạm nữa chuyên-chở theo một Đại-đội TQLC tới tăng-cường. TQLC đổ-bộ lên đảo bắt giữ 31 ngư-phủ Trung-Cộng185. Tàu Hải-Quân mang họ về Đà-Nẵng. Trung-Cộng phản-đối dữ-dội, nhưng Việt-Nam quyết-tâm bảo-vệ chủ-quyền quốc-gia. Số ngư-phủ bị câu-lưu gần 2 tháng rồi được trả về Hồng-Kông để hồi-hương.
Trợ-Chiến-Hạm Nỏ-Thần HQ-225 được lệnh ra Hoàng-Sa để điều-tra. Chiến-Hạm này được trang-bị 6 đại-bác 40 ly.
Năm 1959 Ngoài biến-cố lớn ngoài biển Hoàng-Sa vừa kể ở trên, những biến-cố khác cần nhắc đến như sau: Lực-Lượng Hải-Thuyền được thành-lập để hoạt-động trong các đội Hải-Thuyền rải-rác suốt dọc duyên-hải Việt-Nam. Theo quan-niệm ban đầu, Lực-Lượng này được trang-bị bằng nhân-viên bán-quân-sự, tuyển-mộ trong số thanh-niên ngư-phủ tại địa-phương. V́ là người địa-phương, những nhân-viên này hoạt-động rất dễ-dàng. Một khi có địch-quân xâm-nhập, Hải-Thuyền sẽ nhận biết ngay. Việc chọn người gặp khó-khăn v́ không đủ ứng-viên địa-phương theo tiêu-chuẩn. Sau này, các di-dân Miền-Bắc có kinh-nghiệm đi biển đánh cá được tuyển-dụng để chiếm vào chỗ-thiếu-hụt đó.
Hải-Thuyền có thể sản-xuất hàng loạt với các vật-liệu địa-phương.
Ngày 6-8-1959, HQ Thiếu-Tá Hồ-Tấn-Quyền186, Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân; được thăng-cấp Trung-Tá để thay-thế HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn187 (hết nhiệm-kỳ 2 năm), làm Tư-Lệnh Hải-Quân.188 Cũng như lần chỉ-định Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ bị Pháp cản-trở, lần này người Hoa-kỳ lại mong-đợi HQ Thiếu-Tá Lâm-Nguơn-Tánh đảm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân.189 Cả hai lần, Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm đều giữ nguyên quyết-định của Ông, không xét đến ư-kiến người ngoại-quốc.
HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền, Q.TL/HQVN lên thăm Tuần-Dương-Hạm USS Toledo tại Bến Bạch-Đằng.
Bộ Chỉ-Huy Hải-Trấn được chính-thức thành-lập.190 Hải-Trấn là một đại-đơn-vị hết sức lớn. Nếu không tính TQLC, số-lượng quân-nhân và dân-chính dưới quyền Bộ Chỉ-Huy Hải-Trấn chiếm đến một nửa quân-số Hải-Quân. Hải-Trấn gồm có nhiều cơ-quan đầu năo và các đơn-vị bờ như sau: - Bốn Duyên-khu. Bộ Chỉ-Huy của mỗi Duyên-khu đặt tại Phú-Quốc, Nha-Trang, Vũng-Tàu, Đà-Nẵng. - Trung-tâm Huấn-luyện HQ Nha-Trang. - Hải-Quân Công-Xưởng - Các Thuỷ-xưởng Cần-Thơ, Đà-Nẵng. - Trung-tâm Tiếp-liệu. Hải-Lực lần-lượt nhận thêm ba Trục-Lôi-Hạm (MSC)191: HQ-114 Hàm-Tử II192, HQ-115 Chương-Dương II193, HQ-116 Bạch-Đằng II194. Thời-gian này, Hải-Quân Việt-Nam có tất cả 119 chiến-hạm và chiến-đĩnh các loại.
Trục-Lôi-Hạm Hàm-Tử II HQ-114 (MSC Class Bluebird), Chiến-hạm HQVNCH đầu-tiên xuyên Nhật-đạo. Ba chiến-hạm loại 300 tấn này từ Bắc-Mỹ, vượt Thái-B́nh-Dương về Việt-Nam. 195
Hải-tŕnh tổng-quát vượt Thái-B́nh-Dương của các Chiến-hạm HQ-114, HQ-115, HQ-116, HQ-06, HQ-500, HQ-501, HQ-502, HQ-503, HQ-504…
Hải-tŕnh tổng-quát vượt Thái-B́nh-Dương của các Hộ-Tống-Hạm HQ-07, HQ-08, HQ-09, HQ-10, HQ-11, HQ-12, HQ-13, HQ-14 đi xa hơn; từ vùng Đông-Bắc Mỹ-Châu ngang qua kinh Panama, ngược bờ-biển Mễ-Tây-Cơ đến San Diego (và San Franscisco) về Việt-Nam. 196
Một mẫu Chứng-chỉ Xuyên-Nhật-Đạo thường do TL/HQ hay Hạm-Trưởng kư thay cho Đại-Hải Long-Vương cấp cho SQ và ĐV giữ làm kỷ-niệm khi Chiến-hạm vượt qua Đường-Đổi-Ngày (International Date Line).
Từ trước đến giờ, các chiến-hạm của Hải-Quân Việt-Nam đến hạn đại-kỳ đều phải đi qua nhờ-vả Hải-Xưởng Hoa-Kỳ tại Subic, Phi-Luật-Tân. Vào năm 1958 khi khả-năng kỹ-thuật gia-tăng, Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n bắt-đầu đảm-nhiệm mọi công-tác sửa-chữa quan-trọng cho chiến-hạm.197 Nhiều Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan được gởi sang Hoa-Kỳ học-tập chuyên-nghiệp. Các Sĩ-Quan cao-cấp tu-nghiệp tại Naval War College ở Newport, Rhode Island. Vị Sĩ-Quan đầu-tiên theo học tại Naval War College tức trường Cao-đẳng Hải-chiến198 là Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn. Một số Sĩ-Quan trung-cấp tu-nghiệp tại Naval Postgraduate School ở Monterey, California. Cũng trong năm 1959, HQ-329 cùng một số chiến-hạm khác của Hải-lực được lệnh túc-trực tại Hoàng-Sa. Các chiến-hạm này luân-phiên nhau mỗi hai tháng để ngăn-chặn các ghe-chài Trung-Cộng xâm-nhập quần-đảo này.
HQ-329 giang-hành trên Sông Sài-G̣n, cũng có mặt tại Hoàng-Sa năm 1959. Tầm Quan-trọng của Giang-Lực Có thể nói Hải-Quân Việt-Nam nhắm vào hai nhiệm-vụ: bảo-vệ quốc-gia chống ngoại-xâm và duy-tŕ an-ninh nội-địa. V́ mục-tiêu thứ nhất có ưu-tiên hàng đầu trước năm 1959, Giang-Lực hoạt-động đa-số trong các sông-ng̣i nội-địa, không được coi là quan-trọng. Như một Tuỳ-Viên Hải-Quân Hoa-Kỳ đă giải-thích vào năm 1959: "Giang-Lực đóng một vai-tṛ phụ-thuộc so với Hải-Lực", v́ Hải-Lực tuần-tiễu dọc duyên-hải và ngoài-khơi. Tuy-nhiên với sự gia-tăng hoạt-động của Cộng-Sản trong nội-địa vào những năm 1959 và 1960, các Sĩ-Quan Việt-Nam và Hoa-Kỳ đă chú-ư nhiều hơn đến việc cải-tiến Giang-Lực. Hoạt-động của Cộng-quân (CQ) được tập-trung vào vùng châu-thổ sông Cửu-Long. Đây là vùng đông dân-cư nhất của Việt-Nam. Vào giữa năm 1959, Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm mô-tả các tỉnh Miền-Nam như đang "ở trong t́nh-trạng bị bao-vây". Phái-bộ Cố-vấn đồng-ư với chính-phủ Việt-Nam khi kết-luận rằng t́nh-trạng ở vùng đồng-bằng sông Cửu-Long đă trầm-trọng hơn t́nh-trạng của các năm 1954 hay 1955. Một điều hiển-nhiên là Giang-Lực trong khi tuần-tiễu sông-ng̣i, chuyên-chở binh-sĩ và đồ tiếp-liệu; đă đóng một vai-tṛ quan-trọng trong việc tái duy-tŕ an-ninh cho khu-vực châu-thổ. V́ có rất ít đường xá, trên 1,500 dặm sông-ng̣i là một hệ-thống thuỷ-lộ quan-trọng cho việc thương-mại và giao-thông.
Tổ-Chức và Hoạt-Động của Giang-Lực vào năm 1959 V́ hầu-hết hoạt-động giang-lực nằm trong Miền-Tây Nam-phần, Bộ Chỉ-Huy Giang-Lực di-chuyển từ Sài-G̣n về Cần-Thơ. Giang-lực có một tổng-số là 96 Giang-đĩnh, tổ-chức thành 5 Hải-Đoàn Xung-Phong199 Mỗi Hải-Đoàn có chừng 2 Sĩ-Quan và 100 Đoàn-Viên, đồn-trú tại Mỹ-Tho, Cần-Thơ, Vĩnh-Long, Long-Xuyên và Sài-G̣n. Các Hải-Đoàn luân-chuyển hành-quân một tháng rồi huấn-luyện một tháng. Trong thời-kỳ huấn-luyện, một Toán Huấn-luyện Lưu-Động gồm sáu Sĩ-Quan và Đoàn-Viên từ Sài-G̣n tới để giảng-dạy lư-thuyết và các kỹ-thuật đặc-biệt. Thời-gian c̣n lại của thời-kỳ huấn-luyện được dành cho việc sửa-chữa chiến-đĩnh. Mỗi Hải-Đoàn có 19 tiểu-đĩnh, đa-số là các tàu đổ-bộ của Hoa-Kỳ thời Thế-Chiến thứ hai được biến-cải. Trong mỗi Hải-Đoàn, một chiếc LCM-6 Commandement, cửa mũi được thay-thế bằng một mũi nhọn, dùng làm Soái-đĩnh. Tàu này cung-cấp các phương-tiện truyền-tin và yểm-trợ hải-pháo trong khi hành-quân. Hải-Đoàn c̣n có một chiếc Tiền-Phong-Đĩnh (hay Thiết-Giáp-Đĩnh Monitor). Cũng cải-biến hơi giống như chiếc Soái-đĩnh Commandement nhưng hoả-lực Monitor hùng-hậu hơn. Vũ-khí trang-bị gồm có một đại-bác 40 ly, hai đại-bác 20 lỵ, một đại-liên 50, và một súng cối 81 ly. Các binh-sĩ và đồ tiếp-liệu được chuyên-chở trên 5 chiếc LCM và 12 LCVP và STCAN. Trong những chiến-đĩnh được Hải-Quân Pháp trao lại, chỉ có loại STCAN là vận-chuyển mau-lẹ nhất. Đây là loại tàu được đóng riêng cho hoạt-động sông.
Tiền-Phong-Đĩnh (hay Thiết-Giáp-Đĩnh) có hoả-lực rất hùng-hậu.
Khu-vực hoạt-động chính của Giang-Lực là châu-thổ sông Cửu-Long. Ở đây, các Hải-Đoàn và 4 Tiểu-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến t́m-kiếm truy-lùng địch-quân. Vào năm 1959, 6 LCM, 4 LCVP cùng 2 vedette và nhiều đơn-vị Thuỷ-Quân Lục-Chiến đă thực-hiện các cuộc hành-quân trong tỉnh An-Xuyên. Hai chiếc LCM và 2 LCVP khác tuần-tiễu ranh-giới Cambodge gần Châu-Đốc. Trong khi đó, 1 LCM và 2 LCVP hoạt-động ở sông Đồng-Nai và khu-vực Rừng-Sát gần Sài-G̣n. Đồng-thời 2 LCVP tuần-tiễu gần một kho nhiên-liệu của Bộ-Binh ở phía Bắc Sài-G̣n. Mặc dầu vào năm 1960, TQLC vừa được bổ-nhiệm vào Lực-Lượng Chiến-lược Trừ-bị cùng với Nhẩy-Dù, các Tiểu-Đoàn TQLC vẫn tiếp-tục hoạt-động với Hải-Quân. Ngoài ra, Giang-Lực c̣n thực-hiện nhiều cuộc hành-quân hỗn-hợp với Bộ-binh.200
Cũng như FOM/STCAN, Vedette VP201 (Vedette de Port - Harbour Defence Motor Launch - HDML) là loại chiến-đĩnh rất hữu-hiệu trong sông. VP lại c̣n có khả-năng tuần-duyên.
Tài-liệu Căn-Bản về Tổ-Chức. Trước đây, hầu-hết các tài-liệu về tổ-chức và điều-hành tổng-quát của Quân-đội cũng như của các Quân, Binh-chủng Việt-Nam Cộng-Hoà đều do văn-pḥng hay pḥng-sở thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH soạn-thảo và ban-hành. Về phần Hải-Quân khi HQ Thiếu-Tá Mỹ làm Tư-Lệnh, HQ Trung-Úy Nguyễn-Văn-Ánh được chỉ-định làm Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân (TMT/HQ). Ông Ánh nắm giữ chức-vụ này nhiều năm qua hai vị Tư-Lệnh, đă điều-hành Bộ Tham-Mưu của Ông soạn-thảo những tài-liệu quan-trọng đầu-tiên. Tập Văn-thư Căn-bản phải được kể là quan-trọng nhất. Đó là nơi tập-trung tất cả những huấn-thị điều-hành các đơn-vị Hải-Quân. Trong tập văn-thư đó, các văn-thư được sắp-xếp rất thứ-tự theo từng loại hoạt-động và theo thời-gian nên rất dễ t́m-kiếm. Tập Văn-Thư Căn-Bản được Bộ Tham-mưu Hải-Quân nhật-tu thường-xuyên. Các Đơn-Vị-Trưởng và Quân-nhân các cấp căn-cứ theo đó để thi-hành hầu hoàn-tất những nhiệm-vụ giao-phó. Ngày 10 tháng 9 năm 1959, cuốn sách quy-luật Hải-Quân đầu-tiên, mang tên Hải-Quy202 được Bộ Tư-Lệnh HQVN ban-hành. Tập tài-liệu quan-trọng này ấn-định quy-chế hoạt-động tổng-quát cho các đơn-vị và quân-nhân Hải-Quân. Truyền-thống cao-quư của người lính thuỷ được đề-cập đến rất nhiều. Đặc-biệt vai-tṛ dẫn-lộ chiến-hạm và chỉ-huy các đơn-vị sông-biển của các Hạm-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng được quy-định rơ-ràng.
Tổ-chức Tham-mưu của Bộ Tư-Lệnh HQVNCH. Lúc mới thành-lập, ban tham-mưu của Tư-Lệnh Hải-Quân (cũng là Phụ-Tá HQ cạnh TTMT/QĐQGVN) chỉ là một pḥng văn-thư nhỏ-bé nằm trong khuôn-viên của Bộ Tổng-Tham-Mưu. Pḥng này lớn dần, di-chuyển về trại Cửu-Long Thị-Nghè, rồi về trại Bạch-Đằng tức là Caserne Francis Garnier ở bến Bạch-Đằng (bờ Sông Sài-G̣n) khi căn-cứ này được chuyển-giao qua Hải-Quân Việt-Nam. Sơ-đồ tổ-chức tổng-quát của Bộ Tham-mưu Hải-Quân: Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân nhận lệnh trực-tiếp từ Tư-Lệnh Hải-Quân, điều-hành 4 pḥng: - Pḥng 1 - Nhân-Viên - Pḥng 2 - T́nh-Báo203 - Pḥng 3 - Hành-Quân - Pḥng 4 - Tiếp-Vận204 Mỗi pḥng điều-hành bởi Trưởng-Pḥng. Pḥng lại chia ra nhiều ban do các Trưởng-Ban nắm giữ.
Sơ-đồ Tổ-Chức Hải-Quân từ Năm 1959-1963
Ngoài HQ Trung-Úy Nguyễn-Văn-Ánh205, những Sĩ-Quan sau đây từng nắm giữ chức-vụ TMT/HQ: - HQ Đại-Úy Hồ-Tấn-Quyền, thăng-cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ - HQ Thiếu-Tá Nguyễn-Đức-Vân. - HQ Thiếu-Tá Đặng-Cao-Thăng, thăng-cấp Trung-Tá trong chức-vụ. - HQ Trung-Tá Lâm-Nguơn-Tánh, sau đó làm Tư-Lệnh-Phó (thăng-cấp Đại-Tá trong chức-vụ) - HQ Trung-Tá Trần-Văn-Phấn, thăng-cấp Đại-Tá trong chức-vụ, sau đó nắm quyền Tư-Lệnh Hải-Quân một thời-gian ngắn. - HQ Trung-Tá Diệp-Quang-Thuỷ, thăng-cấp Đại-Tá rồi Phó-Đề-Đốc trong chức-vụ Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân cho tới ngày 30-4-1975.
Chuyến Công-tác Bắc Vĩ-Tuyến 17 lần Đầu-tiên Cuối năm 1959 đầu năm 1960, hải-vụ “Bắc-Tiến” đầu-tiên của HQVN đă do Hộ-Tống-Hạm Vạn-Kiếp, HQ-02 thi-hành. Đi cùng với chiến-hạm này có Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04, túc-trực ngoài khơi khi chiếc Vạn-Kiếp vào gần bờ. Chuyến công-tác có mục-đích quan-sát hệ-thống pḥng-thủ duyên-hải của Miền-Bắc và yểm-trợ Nha Chiến-Tranh Tâm-Lư thuộc Bộ Quốc-Pḥng trong việc thả truyền-đơn và tài-liệu vào đất địch. Mục-tiêu là bờ-biển Vinh, Thanh-Hoá. Tham dự công-tác này c̣n có HQ Thiếu-Tá Nghiêm-Văn-Phú, Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Lực. Đích-thân HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền, Tư-Lệnh Hải-Quân đi trên HQ-02 chỉ-huy trực-tiếp. Cựu Hạm-Trưởng HQ-02, Ông Nguyễn-Ngọc-Quỳnh206 đă hồi-tưởng lại biến-cố đó sau hơn 40 năm trong một bài viết mới đây, xin được tóm-lược như sau: Chiến-hạm rời Đà-Nẵng vào buổi chiều để có thể đến vĩ-tuyến 17 sau hoàng-hôn. Tư-Lệnh HQ chỉ-thị cho Hạm-Trưởng đưa chiến-hạm vào tới khoảng cách bờ 6 hải-lư. Chiến-hạm chạy song-song với bờ để thả truyền-đơn cùng tài-liệu bằng bong-bóng bay và túi ny-lông. Gió Đông-Bắc lúc ấy có tốc-độ cao nên đưa bong-bóng vào bờ khá nhanh. Khi đă thả hết, Đại-tá Quyền c̣n yêu-cầu chiến-hạm tiến gần bờ hơn nữa. Khi c̣n cách bờ khoảng 3 hải-lư, các Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVNCH tiếp-tục quan-sát duyên-hải Bắc-Việt bằng radar và bằng viễn-kính.
Hải-tŕnh tổng-quát chuyến công-tác của HQ-02, với sự yểm-trợ ngoài xa của HQ-04.
Cho đến khi chiến-hạm về gần đến vĩ-tuyến 17, trời đă sáng. Mọi sự an-toàn và không có chỉ-dấu nào cho thấy rằng là Cộng-sản Bắc-Việt (CSBV) đă phát-giác được sự xâm-nhập. Các truyền-đơn và tài-liệu theo những bong-bóng bay vào rất sâu trong đất liền vùng Thanh-Hoá. Các túi ny-lông đă do nhiều dân chài vớt được suốt dọc bờ-biển từ Vinh vào tới gần vĩ-tuyến 17. Mặc-dù địch tăng-cường kiểm-soát miền duyên-hải, trong thập-niên 60 có nhiều dân chài Miền-Bắc vượt tuyến vào các tỉnh duyên-hải miền Trung xin tị-nạn. Một số đă mang theo những truyền-đơn mà họ lượm được và cất giấu, để xuất-tŕnh cho các đơn-vị duyên-pḥng của chúng ta khi xin tị-nạn. Nội-dung những tài-liệu đă thả là động-lực quan-trọng thúc-đẩy họ vượt gian-nguy để t́m tự-do. Ngoài ra, chắc cũng c̣n có tác-dụng không nhỏ đối với tinh-thần của nhiều dân duyên-hải Miền-Bắc không có hoàn-cảnh vượt-thoát. Công-tác của HQ-02 như vậy đă đem lại kết-quả mong-muốn.207
Hộ-Tống-Hạm Vạn-Kiếp, HQ-02
Danh-hiệu các Chiến-hạm vào đầu thập-niên 1960 Tuy Giang-Vận-Hạm và Giang-Pháo-Hạm là các loại chiến-hạm đầu-tiên được trao cho các Hạm-Trưởng Việt-Nam chỉ-huy nhưng trong mấy năm đầu của HQVN, cả hai loại chiến-hạm này chỉ có số vỏ tàu mà không có tên. Các Trục-Lôi-Hạm YMS được chỉ-định cả số lẫn tên ngay từ ngày 11-2-1954 khi gia-nhập Hải-Quân Việt-Nam. Năm 1957, Các Trợ-Chiến-Hạm LSSL và Giang-Pháo-Hạm LSIL được đặt tên của các vũ-khí thời cổ: Nỏ-Thần, Linh-Kiếm; Long-Đao, Thần-Tiễn, Thiên-Kích, Lôi-Công, Tầm-Sét.208 Các Giang-Vận-Hạm LCU không bao-giờ được đặt tên. Các Hộ-Tống-Hạm PC, PCE và PCER; các Trục-Lôi-Hạm YMS và MSC được đặt tên của các trận đánh nổi-tiếng trong lịch-sử chống quân xâm-lăng Trung-Hoa: Tụy-Động, Vân-Đồn, Đống-Đa, Ngọc-Hồi, Vạn-Kiếp, Chi-Lăng, Kỳ-Hoà, Nhựt-Tảo, Chí-Linh, Hà-Hồi; Hàm-Tử, Chương-Dương, Bạch-Đằng. Các Hải-Vận-Hạm LSM209 và Lương-Vận-Hạm AKL được đặt tên của các con sông: Hát-Giang, Hàn-Giang, Lam-Giang, Ninh-Giang, Hương-Giang, Tiền-Giang, Hậu-Giang, Hoá-Giang.
Các Dương-Vận-Hạm LST được đặt tên của các cửa bể và hải-cảng: Cam-Ranh, Đà-Nẵng, Thi-Nại, Vũng-Tàu, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, Vĩnh-Long. Các Tuần-Duyên-Hạm PGM được đặt tên của các ḥn đảo Việt-Nam: Phú-Dự, Tiên-Mới, Minh-Hoa, Kiến-Vàng, Kèo-Ngựa, Kim-Quy, Mây-Rút, Nam-Du, Hoa-Lư, Tổ-Yến, Định-Hải, Trường-Sa, Thái-B́nh, Thị-Tứ, Song-Tử, Tây-Sa, Hoàng-Sa, Phú-Quư, Ḥn-Tróc, Thổ-Châu.210
Tuần-Duyên-Hạm PGM Hoa-Lư HQ-608. Năm 1960 - Thêm bốn mươi Sĩ-Quan và sáu mươi Hạ-Sĩ-Quan được gởi sang Hoa-Kỳ tu-nghiệp. - Hải-Quân Việt-Nam cũng gởi một toán quân-nhân t́nh-nguyện sang Đài-Loan thụ-huấn về phá-hoại dưới nước211 UDT (Underwater Demolition Teams). Măn-khoá học, họ trở-thành những Biệt-hải đầu-tiên của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. - Ngày 2 tháng 4, 45 tân Sĩ-Quan Hải-Quân khoá 8 Hổ-Cáp ra trường. Cũng trong năm này, Lực-Lượng Hải-Thuyền thực-sự hoạt-động tại duyên-khu 1, sau khi Tiểu-Đoàn 63 CSBV tức Tập-Đoàn Đánh-Cá Sông-Gianh xâm-nhập Duyên-Khu Đà-Nẵng. - Tháng 7, khoá đầu-tiên với 400 Đoàn-viên Hải-Thuyền212 được tuyển-mộ và huấn-luyện tại Đà-Nẵng, dưới sự chỉ-huy của Hải-Quân Trung-Úy Nguyễn-Văn-Thông. - Tháng 12, bốn Duyên-Đoàn (DĐ hay ZĐ) đầu-tiên với 80 hải-thuyền được thành-lập, đóng tại Cửa Việt, Cửa Thuận-An, Đà-Nẵng và Hội-An. Thời-gian này, Lực-Lượng Giang-Cảnh cũng được thành-lập.213
Huy-Hiệu Lực-Lượng Giang-Cảnh. Hải-Quân Trung-Tá Chung-Tấn-Cang là vị Sĩ-Quan thứ hai được tu-nghiệp tại Naval War College. Từ năm này trở về sau, mỗi năm, một Sĩ-Quan cao-cấp Hải-Quân theo học tại Đại-học Quân-sự này. Hải-Quân nhận 1 PC (Patrol Craft), Hộ-Tống-Hạm Vân-Đồn HQ-06214. Chiến-hạm này thay-thế cho một chiếc đồng-loại quá cũ, đă được phế-thải từ trước.
Hộ-Tống-Hạm Vân-Đồn HQ-06. Khả-năng kỹ-thuật của Hải-Quân Công-Xưởng (HQCX) Sài-G̣n tiếp-tục gia-tăng. Vào đầu thập-niên 1960, HQCX này là cơ-sở kỹ-nghệ lớn nhất của Việt-Nam Cộng-Hoà.215
Thành-lập Đoàn Giang-Vận Năm 1960, Cộng-Sản Hà-Nội quấy-phá khắp nơi. Nhiều đoạn đường sông bị chúng chặn lại lấy thuế, tịch-thu tài-sản dân-chúng, bắt-bớ người Quốc-gia di-chuyển bằng tàu-thuyền. V́ nhu-cầu hộ-tống những đoàn Giang-Vận trong sông, một Hải-Đoàn được thành-lập, mang tên Hải-Đoàn 81 Hộ-tống. Hải-Đoàn này gồm có một Soái-Đĩnh, 2 Tiền-Phong-Đĩnh, 12 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP, 12 Tiểu-Giáp-Đĩnh FOM, có nhiệm-vụ giữ an-ninh các đoàn ghe chở vật-liệu như xi-măng, dầu xăng và các nhu-yếu-phẩm khác từ Sài-G̣n về Lục-Tỉnh; và ngược lại chở lúa gạo, than củi, cá khô... từ Lục-Tỉnh tiếp-tế cho Sài-G̣n. Là một đơn-vị Hải-Quân quản-trị bởi Hải-Quân, nhưng việc sử-dụng lại trực-thuộc một Ủy-ban Liên Bộ: Bộ Quốc-Pḥng (đại-diện là Bộ Tổng-Tham-Mưu), Bộ Công-Chánh, Bộ Kinh-Tế và Bộ Giao-Thông Vận-Tải. Thường mỗi tháng Liên-Bộ họp tại Bộ Công-Chánh để ấn-định ngày đi về của 4 đoàn công-voa216 trong tháng tới. Đầu tháng là hai đoàn chánh, xen kẽ là hai toán phụ đi vào giữa tháng. Mỗi chuyến đi và về một chiều mất 18 ngày. Một cách cụ-thể, đoàn công-voa chở nhiên-liệu đến Cần-Thơ thuộc các công-ty Xufa, Shell, Caltex... và các ghe chở nhu-yếu-phẩm như xi-măng, phân-bón để cung-cấp cho vùng Lục-Tỉnh. Khi đoàn ghe đến Long-Xuyên th́ có các ghe đă tháp-tùng để đi tới Sóc-Trăng, Bạc-Liêu và đây là điểm chót. Lúc về từ Sóc-Trăng về Sài-G̣n, đa-số chở gạo. Trung-b́nh mỗi ghe có trọng-tải là 300 tấn, mỗi đoàn trung-b́nh có 45 ghe. Như thế, mỗi chuyến đi về, một đoàn công-voa đă cung-cấp cho Thủ-đô 13,500 tấn thực-phẩm và ngược lại cũng ngần ấy tấn nhiên-liệu, và các vật-dụng khác từ Thủ-đô cung-cấp cho Lục-Tỉnh. Kể cả đi và về, và cả 4 đoàn, mỗi tháng đoàn Giang-vận, dưới sự hướng-dẫn và bảo-vệ của các chiến-đĩnh Hải-Quân, đă cung-ứng một số-lượng tiếp-liệu là khoảng 100,000 tấn (13,500x 2 x 4= 108,000 tấn). Nếu sông Ḷng-Tàu, dưới sự bảo-vệ của Hải-Quân đă khiến các tàu-bè ra vào cặp bến Sài-G̣n an-toàn, Giang-Đoàn 81 Hộ-tống đă âm-thầm đem lại những nhu-cầu căn-bản cho đồng-bào Thủ-đô và cả vựa lúa vùng Lục-Tỉnh.217
Đoàn Giang-Vận đi ngang Kinh Chợ-Gạo
Năm 1961 Vào tháng 5 năm 1961, Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền đề-nghị cho gửi thêm Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam được du-học tại 5 quốc-gia Âu-Châu, tại Nhật-Bản, Canada và Úc-Đại-Lợi - ngoài các lớp du-học tại Hoa-Kỳ. Vị Tư-Lệnh này cho biết rằng sự huấn-luyện tại Hoa-Kỳ chỉ là căn-bản, Ông ước-mong là kiến-thức của Sĩ-Quan Hải-Quân phải được rộng-răi hơn trong các lănh-vực kiến-trúc chiến-hạm, luyện-kim, sức đẩy hạt nhân... Chỉ nhờ cách-thức đó Hải-Quân Việt-Nam mới có thể tự-lực cánh-sinh thoát khỏi sự lệ-thuộc và kiểm-soát của người Hoa-Kỳ. Đề-nghị này bị xếp lại v́ coi là không thực-tế. Chỉ có một Sĩ-Quan được gửi du-học ngoài nước Mỹ mà thôi.218 Chương-tŕnh MAP (Military Assistance Program) chấp-thuận 406 Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam du-học Hoa-Kỳ về tất cả các ngành chuyên-môn của Hải-Quân. Ngoài ra, nhiều Sĩ-Quan được đưa đi thực-tập trên các chiến-hạm thuộc Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ. Các Hộ-Tống-Hạm HQ-01, HQ-04 và HQ-05 của Hải-Quân Việt-Nam tham-dự cuộc thực-tập đánh tàu ngầm đầu-tiên với các Tiềm-Thuỷ-Đĩnh Hoa-Kỳ Blue Fish và Blue Gill ngoài khơi vịnh Cam-Ranh. Các Hộ-Tống-Hạm t́m tàu ngầm bằng sonar và đánh bằng các lựu-đạn tay MK2. Thám-xuất-viên và các nhân-viên khác của Việt-Nam rất khá trong việc xác-định vị-trí và tấn-công tàu ngầm Hoa-Kỳ.219 Trong những năm liên-tiếp, HQVNCH lưu-tâm nhiều đến việc chống Tiềm-Thuỷ-Đĩnh. Tuy khả-năng nhân-viên khá nhưng chiến-hạm lại quá cũ. Vỏ tàu mỏng-manh không chịu nổi áp-lực thuỷ-lựu-đạn mỗi khi phóng cho nổ ngầm dưới nước.220
Tiềm-Thuỷ-Đĩnh Hoa-Kỳ Blue Gill USS-242 thực-tập với các Hộ-Tống-Hạm HQ-01, HQ-04 và HQ-05 ở ngoài khơi Cam-Ranh.
Lúc này, Hải-Quân Việt-Nam có gần sáu ngàn quân, kể các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Lực-Lượng Hải-Thuyền có 80 ghe đủ các loại, tuần-tiễu sát ven-biển Vùng I Duyên-Hải, từ vĩ-tuyến 17 tới Sa-Huỳnh. Hải-Lực nhận: - 1 PCE (Patrol Craft Escort) Hộ-Tống-Hạm Đống-Da II, HQ-07221. - 1 LSM (Landing Ship, Medium) Hải-Vận-Hạm Hương-Giang HQ-404. Trong khi đó các Trục-Lôi-Hạm Hàm-Tử II HQ-114, Chương-Dương II HQ-115, Bạch-Đằng II HQ-116 theo thứ-tự, lần-lượt hồi-hương. Các MSC là những chiến-hạm duy-nhất được đóng mới tinh, tuy kích-thước nhỏ-bé nhưng t́nh-trạng về kỹ-thuật lại tương-đối cao.
Hải-thuyền chạy buồm mang truyền-thống hàng-hải dân-tộc.
Phương-tiện tiêu-chuẩn trên một Trục-Lôi-Hạm dùng phá ḿn cuối thời thập-niên 1950 sang 1960-1970. Những trang-bị quan-trọng gồm có: (1) Trống phát ra âm-thanh, (2) dây rà tách ra bởi các cây bừa (3) “con heo” giữ cho dây nổi tại độ sâu cần-thiết (ở đây sử-dụng ”ngư-lôi”, ch́m), (4) kéo cắt dây ḿn đặt dọc theo đường dây...
Tất cả Thuỷ-Thủ-Đoàn Việt-Nam của các chiến-hạm Việt-Nam đều trải qua chương-tŕnh huấn-luyện, thực-tập ngoài khơi tại Hoa-Kỳ, rồi mới nhận-lănh chiến-hạm hồi-hương. Tổng-số chiến-hạm của Hải-Lực là 21 chiếc. Tinh-thần Hải-Quân lên cao, khuynh-hướng quốc-gia rơ-rệt 222.
HQ-07 là chiếc Hộ-Tống-Hạm PCE đầu-tiên của HQVN.
Huy-hiệu Hạm-Trưởng, biểu-tượng cho quyền chỉ-huy trên biển được chính-thức ban-hành. Huy-hiệu bằng đồng, được đúc nổi với ngôi sao dẫn-lộ, một bánh xe 'tay lái tàu' có khắc 3 hàng chữ ṿng quanh: Danh-dự, Tài-đức, Kỷ-luật.223 Khi đương-nhiệm, các Hạm-Trưởng224 mang huy-hiệu này trên ngực áo bên phải. Các cựu Hạm-Trưởng mang huy-hiệu trên ngực áo bên trái.
Huy-hiệu Hạm-Trưởng (trái) biểu-tượng cho quyền chỉ-huy trên biển. H́nh giữa và h́nh bên phải là các huy-hiệu không chính-thức.
“Đại-Tá-Đoàn Tương-Lai của TQLC” từ trái sang phải: Trung-Úy Phạm-Văn-Chung, Trung-Úy Ngô-Văn-Định, Trung-Úy Nguyễn-Năng- Bảo, Đại-Úy Cổ-Tấn Tinh-Châu, Đại-Úy Nguyễn-Thành-Yên, Đại-Úy Cao-Văn-Thịnh, Đại-Úy Nguyễn-Văn-Hay, Đại-Úy Hoàng-Văn-Nam tại sân tập đổ-bộ trực-thăng ở Thủ-Đức năm 1961.
Việc Thành-lập Liên-đội Người-Nhái.
Thuỷ-Kích TQLC tại Phá Tam-Giang.
Việc thành-lập Liên-đội Người-Nhái225 gặp trở-ngại và xảy ra hơi trễ. Ngay khi mới làm Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam, HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền đă đề-nghị việc thành-lập một Liên-Đội Người-Nhái để bảo-vệ các tàu-bè, tàu cũng như các cầu-cống. Lúc đầu các cố-vấn Mỹ chống lại đề-nghị này v́ họ tin rằng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam đă được giao cho trọng-trách này.
Sau khi HQ Hoa-Kỳ không nhận huấn-luyện Người-Nhái, phía Việt-Nam đă gửi Sĩ-Quan và Đoàn-Viên sang Đài-Loan để thụ-huấn vào năm 1960. Một Sĩ-Quan và và bảy Đoàn-Viên được huấn-luyện ở Đài-Loan đă trở-thành ṇng-cốt của Liên-Đội Người-Nhái sau này. Tổ-chức Người-Nhái HQVN được chính-thức thành-lập vào tháng 7, 1961. Lúc đầu, Lực-Lượng này được chấp-thuận một cấp-số 48 Sĩ-Quan và Đoàn-Viên và được trao cho trách-nhiệm tháo-gỡ các chướng-ngại-vật dưới nước, bảo-vệ các hải-cảng quân-sự và thực-hiện các cuộc hành-quân đặc-biệt trong các sông-ng̣i. Hoạt-động Tuần-dương hỗn-hợp với Đệ-Thất Hạm-Đội. Vào đầu thập-niên 1960, nhiều tin-tức t́nh-báo ghi-nhận những nỗ-lực của Cộng-Sản gia-tăng xâm-nhập bằng đường biển. Trong khi việc tuần-tiễu vùng cận-duyên có thể trông cậy vào những đơn-vị hải-thuyền đang được thành-lập, việc ngăn-chặn những chuyến tàu lớn của Bắc-Việt vượt Vĩ-tuyến 17 ngoài khơi 30 hải-lư rơ-ràng ngoài khả-năng của Hải-lực Việt-Nam lúc đó. Sau khi kế-hoạch tổng-quát được nghiên-cứu và chấp-thuận, cuộc tuần-dương hỗn-hợp Việt-Mỹ đă khởi-sự vào ngày 22 tháng 12 năm 1961226.
Kế-hoạch tổng-quát về tuần-dương khởi-sự vào ngày 22 tháng 12 năm 1961 Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng Không-Thám Hoa-Kỳ cũng thiết-lập một trục tuần-tiễu cách bờ 30 Hải-lư ra ngoài tới vùng quần-đảo Hoàng-Sa bằng các Thuỷ-phi-cơ Martin của Không-Đoàn Tuần-Thám VP 40. Các phi-cơ này đặt căn-cứ tại Đài-Loan227 tuần-tiễu bất-thường, nhưng ít nhất hai ngày một lần. Các chiến-hạm được chỉ-định tuần-tiễu 10 ngày ngoài biển và về Đà-Nẵng nghỉ 5 ngày. Các chiến-hạm được chỉ-thị là chạy đi chạy lại trong khu-vực trách-nhiệm. Mỗi chiến-hạm được chỉ-định tuần-dương 30 ngày cho mỗi chuyến công-tác, tức là có mặt tại Vĩ-tuyến ba lần và có 15 ngày nghỉ bến. Do đó, tại Đà-Nẵng luôn-luôn phải có ít nhất là 3 chiến-hạm. Lệnh công-tác của mỗi chiến-hạm được dự-trù là 45 ngày.
Thuỷ-Phi-Cơ Martin P5M-2 Marlin đang phóng 2 hoả-tiễn.
Đây là lần đầu-tiên Hải-Quân Việt-Nam phải tuần-tiễu lâu-dài và bắt-buộc phải hải-hành thường-trực trong 10 ngày đêm. Các Hộ-Tống-Hạm PC có bề ngang rất hẹp, 24 bộ trong khi dài tới 174 bộ, thường lắc rất mạnh những khi đi sóng ngang. Trong mùa gió Đông-Bắc biển rất xấu, các PC gần như là một Tiềm-Thuỷ-Đĩnh, lúc nào cũng bị nước bao-phủ từ sàn tàu lên tới đài chỉ-huy. Khi tuần-tiễu theo trục Đông-Tây, các chiến-hạm phải đi hơi ngang sóng, do đó, mức-độ lắc-lư của các Hộ-Tống-Hạm có thể nói là khủng-khiếp.228 Việc tuần-tiễu được khởi-sự vào mùa Đông, đúng lúc gió-mùa Đông-Bắc thổi mạnh, và vùng biển gần vĩ-tuyến 17 có sóng lớn, mưa phùn và lạnh-lẽo. Trong khi thực-phẩm và tiếp-liệu thiếu-thốn, công-tác tuần-dương lúc đó quả thực vất-vả, đôi khi vượt quá thể-lực và sức chịu-đựng của người Việt-Nam cỡ trung-b́nh. Đặc-biệt là nước uống trên Hộ-Tống-Hạm PC rất kém tiêu-chuẩn, thường có màu vàng v́ lẫn-lộn rỉ-sét. Được đào-luyện trong những hoàn-cảnh khắt-khe như vậy, mười năm sau có rất nhiều Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan "vĩ-tuyến" đă trở nên những cấp chỉ-huy lỗi-lạc trong Hải-Quân Việt-Nam thời thập-niên 1970.
Các Hộ-Tống-Hạm PC h́nh như lá tre (bề ngang rất hẹp, 23 bộ trong khi bề dài tới 174 bộ) thường lắc rất mạnh khi sóng ngang.
Phải chờ đợi nhiều năm, khi Hải-Quân Việt-Nam có các chiến-hạm lớn hơn và khi hạn-kỳ 10 + 5 ngày được rút ngắn xuống c̣n 6 ngày tuần-dương + 3 ngày nghỉ bến, cuộc sống "tuần-dương Biển-Bắc" mới một phần nào bớt cơ-cực.
Nhiệm-vụ của HQVNCH và việc Thi-hành. Qua hai đạo dụ: Dụ số 1 ngày 1 tháng 7 năm 1949 và Dụ số 2 ngày 6 tháng 3 năm 1952 do Quốc-Trưởng Bảo-Đại kư ban-hành, việc thành-lập Hải-Quân cũng như nhiệm-vụ của tổ-chức này đă được đề-cập đến lần đầu-tiên. Nhiệm-vụ HQVN bao-gồm công-tác canh-pḥng và kiểm-soát miền duyên-hải, hải-đảo cùng các thuỷ-lộ nội-địa. Hải-Quy Việt-Nam229 có ghi Nhiệm-vụ và Thi-hành của HQVN ngay trong những trang đầu-tiên. Để nhiệm-vụ trên được hoàn-tất, Hải-Quân Việt-Nam thi-hành những công-tác như sau: - Kiểm-soát an-ninh duyên-hải - Ngăn-chặn địch xâm-nhập - Rà-ḿn, khai-quang hải-cảng và thuỷ-lộ - Phối-hợp Không-Quân và Lục-Quân trong các cuộc hành-quân liên-quân - Bảo-vệ an-ninh hệ-thống thuỷ-lộ - Yểm-trợ lực-lượng bạn cả trên hai phương-diện hành-quân và tiếp-vận.
Có hàng chục ngàn ghe-thuyền qua lại trên Biển-Đông. An-ninh duyên-hải bao-gồm việc kiểm-soát các thuyền tương-tự như chiếc này.
Xem như vậy, nhiệm-vụ Hải-Quân chỉ có tính-cách pḥng-thủ như kiểm-soát, ngăn-chặn, giữ-ǵn an-ninh, yểm-trợ quân bạn v.v… Trong suốt quá-tŕnh hoạt-động, những quy-định này ảnh-hưởng rất nhiều, gây bất-lợi cho kết-quả sau cùng của cuộc chiến. Hải-Quân vốn là một phương-tiện thế-công230, nhưng ưu-điểm này đă không bao-giờ được phát-huy suốt trong cuộc chiến.
Quan-niệm Thế-công của Hải-Quân Đọc tài-liệu liên-hệ đến HQVNCH, người ta thấy có hai trường-hợp, ưu-điểm thế-công của Hải-Quân đă được Quân-đội nhắc đến một cách sơ-sài như sau: - Lần đầu là vào năm 1956, khi hào-khí của Hải-Quân nhất là Hải-Lực vừa mới dâng-cao, khả-năng của HQVNCH được một số chức-quyền tin-tưởng. Những Vị này nghĩ rằng: Nếu một khi Hải-Quân được trang-bị đầy-đủ, huấn-luyện kỹ-lưỡng, Quân-chủng này có thể thi-hành các hoạt-động tấn-công tiêu-diệt địch bằng những phương-cách như sau: (1) Phong-toả hải-phận địch-quân. (2) Đổ-bộ chiếm-cứ lănh-thổ địch. (3) Hành-Quân phá-huỷ các vị-trí địch. (4) Tiêu-diệt Hải-Quân của địch. Quan-niệm như vậy có thể đúng. Tuy vậy trong thời-điểm 1956 đó quả là một tham-vọng quá lớn-lao231, vượt ngoài khả-năng thực-hiện của Việt-Nam Cộng-Hoà nói chung và HQVNCH nói riêng. Với phương-tiện thô-sơ, trang-bị nghèo-nàn; không một ai có thể nào làm được chuyện lớn! - Lần thứ nh́ vào khoảng năm 1972-1973, phương-tiện thế-công của Hải-Quân sống lại với ư-kiến của Đại-Tướng Cao-Văn-Viên về việc tấn-công Miền-Bắc để pḥng-thủ Miền-Nam.232 Trung-Tá Nguyễn-Đạt-Thịnh thuộc Tổng-Cục Chiến-Tranh Chính-Trị cũng khai-triển kế-hoạch này qua một số bài báo. Theo đó VNCH bất-thần sử-dụng Hải-Quân mang vài Sư-Đoàn đổ-bộ bờ-biển Bắc-phần Việt-Nam. Kế-hoạch đó tuy vậy chưa bao-giờ được Bộ Tổng-Tham-Mưu nghiên-cứu một cách nghiêm-chỉnh và ước-lượng mức-độ khả-thi233. Bỏ ngoài những sách-lược chỉ có tính-cách giấy-tờ, HQVNCH cũng đă từng thực-hiện những công-tác nhỏ, tấn-công hậu-tuyến địch ngoài Bắc-Việt bằng Hải-tuần. Kết-quả đáng khích-lệ, nhưng tiếc rằng kế-hoạch chỉ được thi-hành nửa vời, đứt đoạn, chưa đ́ đến nơi đến chốn.
Tem thư “Chuẩn-bị Bắc-Tiến” của Hoạ-Sĩ Vơ-Hùng-Kiệt.
Cựu Tư-Lệnh HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ, khi được hỏi về chuyện này trong thập-niên 1980, đă phát-biểu như sau: "Tôi chỉ tiếc một điều là từ lâu "họ" đă không khai-thác tiềm-năng của Hải-Quân, không sử-dụng được đúng mức một lực-lượng tinh-nhuệ và hùng-hậu nhất nh́ trong vùng biển Thái-B́nh-Dương..."234 Người Việt-Nam chúng ta suy-tôn 3 vị anh-hùng bách-chiến là Lư-Thường-Kiệt, Trần-Hưng-Đạo và Nguyễn-Huệ. Cả ba nhà quân-sự này đều đă tận-dụng ưu-điểm thế-công của quân thuỷ. Gần thời-đại chúng ta nhất có Quang-Trung Hoàng-Đế Nguyễn-Huệ. Thành-tích biệt-lệ bách-chiến bách-thắng của nhà Vua chính là nhờ biết sử-dụng Hải-Quân. Giáo-Sư Sử-Học Nguyễn-Nhă đă khẳng-định như vậy khi viết rằng: "Trong các cuộc đánh chiếm Gia-Định, Phú-Xuân cũng như ra Bắc-Hà để diệt hai họ Nguyễn, Trịnh; Nguyễn-Huệ luôn-luôn tiến đại-quân bằng đường thuỷ. Nguyễn-Huệ là chiến-lược-gia đại-tài về “chiến-lược gió-mùa”, lợi-dụng đường biển và mùa gió đại-thắng địch-quân."235 Người Hoa-Kỳ cũng nh́n thấy những ưu-điểm thế-công trong chiến-trận Việt-Nam. Đô-Đốc Ulysses S. Grant Sharp, Tư-Lệnh Thái-B́nh-Dương, đă nhiều lần thúc-dục chính-phủ sớm ra lệnh cho Hải-Quân phong-toả vịnh Bắc-Việt.236 Nếu Hoa-kỳ chịu thi-hành kế-hoạch này, tránh kế-hoạch leo thang chiến-tranh từ-từ th́ trận chiến Việt-Nam có lẽ đă đổi chiều, và nhất là có thể đă cứu-vớt được nhiều sinh-mạng không bị hy-sinh vô-ích.
Lược-đồ kế-hoạch thả ḿn phong-toả Hải-cảng Hải-Pḥng
Giang-Lực trong những năm 1960-1961 Vào tháng 10 năm 1960, Giang-Lực đảm-nhiệm thêm công-tác Hộ-tống các công-voa chở than từ Năm-Căn và gạo từ Cà-Mau, Rạch-Giá, Châu-Đốc và Bạc-Liêu, từ châu-thổ sông Cửu-Long lên Sài-G̣n. Đôi khi Việt-Cộng, gần như cắt đứt Sài-G̣n ra khỏi con đường tiếp-tế này. Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực biệt-phái 18 STCAN, 4 LCM và 8 LCVP cho một đơn-vị gọi là Toán Hộ-tống Giang Hành. Đơn-vị này đă Hộ-tống khoảng từ sáu đến tám chuyến công-voa khứ-hồi mỗi tháng. Trong năm 1961, Hải-Quân trợ-giúp cho việc chuyên-chở trên một triệu tấn hàng-hoá từ châu-thổ. Cộng-Sản đă cố-gắng khuấy-phá các đoàn công-voa nhiều lần. Có tới năm trường-hợp địch-quân giật ḿn, nhưng không có tàu chuyên-chở nào bị thiệt-hại đáng kể. Ngay cả trước khi tiếp-nhận thêm công-tác hộ-tống công-voa, Giang-Lực đă bị thiếu quân-số để có thể cung-ứng cho tất cả các chiến-đĩnh. Vào tháng 12, 1960, quân-số được trang-bị cho các chiến-đĩnh xuống tới mức 50% cấp-số đ̣i-hỏi. V́ lư-do này, khả-năng tác-chiến của Giang-Lực đă bị hạn-chế. Trung-Tá Quyền đă đề-nghị một cuộc gia-tăng quân-số trong tương-lai cho toàn-thể Hải-Quân, nhưng trong khi chờ đợi, ông đă thuyên-chuyển binh-sĩ từ các đơn-vị khác tới để tăng-cường cho Giang-Lực. Năm 1960, các Giang-Đoàn được chấp-thuận một cấp-số tổng-cộng 602 người, nhưng chỉ có 340 người hiện-diện. Vào tháng 3 năm 1961, chính nhờ nỗ-lực của Trung-Tá Quyền, con số này đă được tăng lên 422 người, đó là một tiến-triển khả-quan. Tư-Lệnh Đệ-Thất Hạm-Đội HQHK là Đô-Đốc Felt đă thảo-luận vấn-đề này với Tổng-Thống Diệm trong khi Ông viếng thăm Việt-Nam ngày 29 tháng 9 năm 1961. Tuy-nhiên, vào tháng 10 năm 1961, các Cố-Vấn báo-cáo là Giang-Lực vẫn c̣n thiếu 30% quân-số.237
Phối-hợp Hoạt-động giữa Hải-Quân và Lục-Quân Giang-Lực chưa được sử-dụng tới mức hiệu-năng tối-đa. Người Mỹ vẫn cho rằng sự thiếu-hụt quân-số chính là lư-do của vấn-đề này, nhưng cũng c̣n các lư-do khác nữa. V́ Lục-Quân ít khi sử-dụng các Sĩ-Quan Hải-Quân trong việc hoạch-định các kế-hoạch hành-quân, các Lực-Lượng của Giang-Lực thường được tập-trung vào lúc chót, do đó chỉ quy-tụ được một số ít các Giang-Đĩnh. Toán Giang-Đĩnh nhỏ-bé được sử-dụng cho cuộc hành-quân không đủ sức để chống-cự những cuộc tấn-công lớn của địch. Và chỉ có các tàu đổ-bộ loại LCU, LSIL, và các LCM Commandement/Monitor mới được trang-bị đầy-đủ các dụng-cụ truyền-tin; việc kêu-gọi các Lực-Lượng bạn để tăng-cường đôi khi gặp trở-ngại. Cũng thế, Lục-Quân cũng rất sợ-hăi ảnh-hưởng tai-hại của các vụ Cộng-Sản giật ḿn đối với các đơn-vị của họ. Các cuộc tấn-công bằng ḿn, thường được tiếp-nối các chiến-thuật đă được địch-quân phát-triển trong cuộc chiến chống Pháp tại Đông-Dương. Một quả ḿn được điều-khiển cho nổ sẽ có thể làm cho chiếc tàu dẫn đầu bị dừng lại trong lạch và địch-quân có thể tấn-công tất cả tàu trong đoàn từ hai bên bờ. Giang-Lực cố-gắng chống lại chiến-thuật này bằng các dụng-cụ rà-ḿn rất thô-sơ nhưng cũng hữu-hiệu, gồm có các móc được kéo hai bên các LCVP hoặc dây cáp được căng giữa hai LCVP để cắt đứt dây điều-khiển ḿn.
Sơ-đồ cách-thức gài ḿn trên sông.
Tuy-nhiên, không có sự pḥng-ngừa về ḿn vào ngày 25 tháng 11 năm 1960, khi một chiếc LCM bị nổ ḿn gần làng Hậu-Mỹ trong tỉnh Định-Tường. Cuộc hành-quân này bắt-đầu khi vị Tư-Lệnh Bộ-Binh Vùng, không hỏi ư-kiến của Hải-Quân đă ra lệnh cho Giang-Lực chuyên-chở một Tiểu-Đoàn Bộ-Binh từ Tây-Ninh đến một vị-trí ở ven Đồng-Tháp-Mười. Vào lúc 6 giờ chiều, trong khi ba chiếc LCM chở mỗi chiếc 150 người, đến Hậu-Mỹ trên kinh Ba-Mươi-Tám, một tiếng nổ kinh-thiên động-địa phát ra. Sức mạnh của nó nhấc-bổng chiếc LCM đi đầu lên khỏi mặt nước, phá thủng vách sắt gần cửa mũi, và làm lơm nóc mui bên trên boong chở chiến-xa. Binh-sĩ ngồi trên boong chở chiến-xa bị hất lên đụng đầu vào mái, mũi súng của họ chọc thủng lớp ván gỗ bên trên. Khi đạn từ hai bên bờ kinh bao-phủ lực-lượng, những LCM báo-cáo với đại-bác 20 ly và đại-liên. Các Chiến-đĩnh sau đó ủi băi bên bờ trái và đổ-bộ-binh-sĩ. Một lực-lượng hùng-hậu địch tiếp-tục tấn-công từ một địa-điểm cách bờ kinh 100 thước. Sau mười phút giao-tranh, địch rút-lui và lực-lượng ta kiểm-điểm tổn-thất. 8 Binh-sĩ tử-trận và 23 Binh-sĩ bị thương nặng, đa-số v́ bị ḿn của địch. Vào tháng 7 năm 1961, Giang-Lực đóng một vai-tṛ hữu-hiệu hơn trong cuộc hành-quân lớn và có kết-quả nhất kể từ năm 1954. Chiến-dịch mệnh-danh Đồng-Tiến được tổ-chức tại tỉnh Kiến-Phong trong vùng đồng-lầy của quận Mỹ-An. Khu-vực tiếp-xúc ở phía Bắc với kinh Đồng-Tiến, phía Nam với kinh Tháp-Mười, phía Đông với kinh Tư-Mới, và về phía Đông sông Cửu-Long. Khu-vực này từ lâu đă được biết là một cứ-điểm quan-trọng của Cộng-sản. Buổi sáng ngày 14 tháng 7 năm 1961, Tiểu-Đĩnh và các đơn-vị Pháo-Binh Lục-Quân chiếm-giữ các yếu-điểm dọc theo các kinh Tháp-Mười, kinh Tư-Mới và bắt-đầu tấn-công doanh-trại của địch. Trong đêm đó, các lực-lượng khác của Giang-Lực đổ-bộ một Tiểu-Đoàn Nhảy-Dù dọc theo kinh Đồng-Tiến, và từ tờ-mờ sáng, Binh-sĩ bắt-đầu tiến về phía Nam tới làng Mỹ-Quí. Khi quân Cộng-Sản bị bao-vây và muốn trốn chạy về phía Bắc, chúng bị Tiểu-Đoàn Nhảy-Dù ngăn-chặn. Lực-Lượng địch cuối-cùng bị đánh tan sau 6 giờ giao-tranh vào buổi sáng ngày 16 tháng 7 năm 1961. Tiểu-Đoàn 52 Cộng-Sản và một Đại-Đội của Tiểu-Đoàn 504 Cộng-Sản bị loại ra khỏi ṿng-chiến 167 người, 11 bị bắt làm tù-binh, tịch-thu 85 vũ-khí vừa cộng-đồng và cá-nhân. Sau cuộc hành-quân, các đơn-vị tham-dự trở về Sài-G̣n được đón-tiếp trọng-thể. Ngoài ra, Giang-Lực c̣n thực-hiện thêm nhiều cuộc hành-quân hỗn-hợp khác nữa với Lục-Quân. Trong năm 1961, đă có 27 cuộc hành-quân hỗn-hợp như vậy238.
Thuỷ-Quân Lục-Chiến lớn mạnh Song-song với đà phát-triển của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà (QLVNCH) từ năm 1956 đến 1960, Tiểu-Đoàn 2 và Tiểu-Đoàn 4 được thành-lập; Thuỷ-Quân Lục-Chiến cải-tiến thành Liên-Đoàn vào năm 1961. Các Sĩ-Quan chỉ-huy TQLC trong thời-gian này là: Thiếu-Tá Lê-Quang-Trọng239 từ 1-10-1954 đến 17-6-1956 Thiếu-Tá Phạm-Văn-Liễu từ 18-1-1956 đến 22-8- 1956 Đại-Úy Bùi-Phó-Chí, XLTV từ 23-8-1956 đến 1-10-1956 Thiếu-Tá Lê-Nhữ-Hùng từ 2-10-1956 đến 23-5-1960 Thiếu-Tá Lê-Nguyên-Khang từ 24-5-1960 đến 15-12-1963.240 Để yểm-trợ đặc-biệt cho những cuộc hành-quân thuỷ-bộ, Đại-Đội Yểm-Trợ Thuỷ-Bộ, Đại-Đội Vận-Tải, Đại-Đội Truyền-Tin, Đại-Đội Quân-Y, v.v... kế-tiếp nhau ra đời. Năm 1962, Tiểu-Đoàn 1 Pháo-Binh thành-h́nh gồm 2 Pháo-Đội 75 ly và 1 Pháo-Đội 105 ly.
Đại-bác Dă-chiến Howitzer 105 ly của TQLC Việt-Nam.
Năm 1962 - Tháng 2, Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-Pḥng được thành-lập và đặt trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Địa-Phương-Quân. Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn là Chỉ-Huy-Trưởng đầu-tiên.241 Lực-Lượng Hải-Thuyền dự-trù bành-trướng tới 61 ghe chủ-lực, hơn 200 ghe di-cư, 320 ghe buồm và 23 ghe chủ-lực đang đóng. Các Ghe Chủ-lực trang-bị máy Gray Marine 225 mă-lực, chạy bằng dầu cặn. Căn-cứ của 28 Duyên-Đoàn được xây-cất hầu-hết nơi các cửa sông, tiện-lợi cho cả hai việc hoạt-động và pḥng-thủ.
H́nh-ảnh những chiến-thuyền đầu-tiên của Lực-Lượng Hải-Thuyền ở Đà-Nẵng
Ghe Chủ-Lực có thể chạy tới 12 gút.
Từ khi thành-lập, Thuỷ-Quân Lục-Chiến chỉ chuyên phối-hợp với Hải-Quân trong những cuộc hành-quân thuỷ-bộ, chuyên-chở bằng chiến-đĩnh. Năm 1961, Thuỷ-Quân Lục-Chiến được huấn-luyện Trực-thăng-vận để có thể hành-quân không-vận một cách thần-tốc hơn. Khả-năng mới này được thử-nghiệm thực-tế ngoài chiến-trường.
H́nh-ảnh TQLC trong cuộc hành-quân Trực-thăng-vận đầu-tiên ngày 22-4-1962 tại Sóc-Trăng
- Tháng 6, Lực-Lượng Giang-Pḥng nhận 145 LCVP để lập thành 24 Đại-đội Tuần-Giang. - Tháng 8, Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang tuyển-chọn 100 SVSQ cho khoá 12, tức gấp đôi số sinh-viên khoá 10 và đông hơn khoá 11 tới 20%; Thời-gian thụ-huấn được rút ngắn c̣n 18 tháng, thay v́ hai năm như các khoá trước. Giữa năm 1962 Sinh-Viên khoá 10 SQHQ đi thực-tập hải-nghiệp trên các chiến-hạm Trục-Lôi MSC một tháng, đường Nha-Trang qua Subic-Bay, Phi-Luật-Tân và trở về lại Cầu-Đá Nha-Trang. Khoá này là khoá đầu-tiên theo ảnh-hưởng phương-pháp huấn-luyện phối-hợp Chỉ-huy và Cơ-khí (Line Officer). Qua nhiều kỳ thi sát-hạch khả-năng, chỉ có 37 Sĩ-Quan trong số 53 khoá-sinh được mang cấp Hải-Quân Thiếu-Úy.242 Họ ra trường ngày 14 tháng 07 năm 1962. - Tháng 10, sáu mươi hai Người-Nhái tốt-nghiệp khoá Hải-Kích, do sự huấn-luyện của SEAL Hoa-Kỳ. Danh-từ SEAL là chữ viết tắt từ ba chữ: Sea, Air, Land.243 Cũng thời-gian này, Hải-Đoàn 22 Xung-phong244 được thành-lập với 19 Chiến-đĩnh và hơn 200 Đoàn-Viên.
Một toán Hải-Kích và xuồng xung-kích. Hải-Lực tiếp-nhận: - 2 PCE (Patrol Craft Escort) Hộ-Tống-Hạm Chi-Lăng II HQ-08, Kỳ-Hoà HQ-09. - 1 LSM (Landing Ship Medium) Hải-Vận-Hạm Tiền-Giang HQ-405. - 2 LST (Landing Ship, Tank) Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh HQ-500245 và Dương-Vận-Hạm Đà-Nẵng HQ-501.246
Hộ-Tống-Hạm Chi-Lăng II, HQ-08.
HQ-500 Cam-Ranh là chiếc Dương-Vận-Hạm đầu-tiên của HQVNCH, được trang-bị 4 tiểu-vận-đĩnh LCVP.
Khu-Trục-Hạm Mahan (DLG-11) đến thăm thiện-chí Sài-G̣n nhân dịp Quốc-Khánh VNCH 1962.
Năm 1963 Hành-Quân Sóng T́nh Thương khai-diễn ngày 3 tháng 1 năm 1963 với mục-đích tái-chiếm và b́nh-định khu-vực Năm-Căn. Hải-Quân Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền, TL/HQVN đích-thân làm Chỉ-Huy-Trưởng. - Chỉ-huy Lực-Lượng Đổ-Bộ: Trung-Tá Lê-Nguyên-Khang - Tham-Mưu-Trưởng: HQ Thiếu-Tá Đinh-Mạnh-Hùng Quan-niệm Hành-Quân như sau: (1) Giai-đoạn I: (Khoảng 1 tháng) Lực-Lượng TQLC đổ-bộ từ mỏm Cà-Mau (Xóm Mới), hành-quân truy-lùng và tiêu-diệt địch tại phía Nam sông Cửa-Lớn; sau đó các Chiến-hạm và Hải-Thuyền cùng TQLC vào tái-chiếm Năm-Căn. Một Hải-Đoàn khai-thông thuỷ-lộ từ Đầm-Dơi xuống Năm-Căn. (2) Giai-đoạn II: (Khoảng 1 tháng) HQ Thiếu-Tá Nghiêm-Văn-Phú chỉ-huy. - Xây-dựng căn-cứ Năm-Căn. Tái-lập quận Năm-Căn. - Hành-Quân mở rộng vùng b́nh-định. (3) Giai-đoạn II: - Công-tác b́nh-định do giới-chức lănh-thổ thi-hành Hải-Quân yểm-trợ an-ninh đường thuỷ.
Đại-Tướng Lê-Văn-Tỵ TTMT/QLVNCH (1955-1963).
Đại-Tướng Lê-Văn-Tỵ TTMT/QĐVNCH, đă có nhận-xét về như sau: Miền-Nam Việt-Nam nhiều sông lạch, các cuộc hành-quân Đinh-Tiên-Hoàng, Hoàng-Diệu, và Nguyễn-Huệ đă không thể nào thành-công được nếu không có sự yểm-trợ của Hải-Quân.247
Thuỷ-Quân Lục-Chiến phải lội nước từ Hải-Vân-Hạm lên hành-quân tiễu-trừ Cộng-Sản Vùng Mũi Cà-Mau. (Photo courtesy of Lieutenant Colonel Michael Gott, USMC).
TQLC vào b́nh-định Năm-Căn.
Trong năm này, 5 thuỷ-xưởng được thành-lập tại các Duyên-khu. Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Thuyền tại Phú-Quốc được dời về Cam-Ranh. Hải-Quân có thêm một chiến-hạm và chiến-đĩnh đáng kể như sau: (1)Hải-Lực nhận: - 1 LSM Hải-Vận-Hạm Hậu-Giang, HQ-406. - 1 LST Dương-Vận-Hạm Thị-Nại, HQ-502. - 1 YOG (Yard Oil Gasoline Barge, Self-propelled) Hoả-Vận-Hạm HQ-471. - 2 Hộ-Tống-Hạm (Nguyên-thuỷ là Trục-Lôi-Hạm Hạm-Đội MSF- Minesweeper, Fleet: MSF 300 Serene và MSF 301 Shelter. Hải-Quân Hoa-Kỳ biến-cải thành Hộ-Tống-Hạm, PCE -Patrol Craft Escort). - Hải-Lực cũng bắt đầu tiếp-nhận dần-dần các Tuần-Duyên-Đĩnh248 PGM (Patrol Motor Gunboat). Theo chương-tŕnh MAP, HQVN sẽ được trang-bị 12 PGM. Ngay trong năm 1963, 10 chiếc Tuần-Duyên-Đĩnh được chuyển-giao. - HQ-600 Phú-Dự, HQ-601 Tiên-Mới, HQ-602 Minh-Hoa, HQ-603 Kiến-Vàng, HQ-604 Kèo-Ngựa chuyển-giao vào tháng 2. - HQ-605 Kim-Quy, HQ-606 May-Rút, HQ-607 Nam-Du chuyển-giao tháng 5. HQ-608 Hoa-Lư, HQ-609 Tổ-Yến chuyển-giao tháng 7. (2) Giang-Lực nhận: - 24 monitors, một số LCVP, nâng tổng-số giang-đĩnh lên 208 chiếc. - 12 MLM (Minesweeping Launch) mang số từ HQ-150 đến HQ-161 để trang-bị cho Giang-Đoàn Trục-lôi.
Tuần-Duyên-Đĩnh May-Rút, HQ-606. Thời-gian này Hải-Quân có hơn sáu ngàn quân các cấp. Lực-Lượng Hải-Thuyền có 66 Sĩ-Quan (Sĩ-Quan Hải-Quân), 375 Hạ-Sĩ-Quan và 3,359 Đoàn-Viên. Đầu tháng 4/1963, Khoá 11 Đệ-Nhất Bảo-B́nh là khoá đầu-tiên bị rút ngắn học-tŕnh xuống 20 tháng, vội-vă ra trường. Sau đó có lệnh thuyên-chuyển các tân HQ Thiếu-Úy khoá này tất cả xuống chiến-hạm để đi biển.249 HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền bị hạ-sát vào ngày Ông từ-chối Ông (Thiếu-Tá Trương-Ngọc-) Lực và Ông (Đại-Úy Nguyễn-Kim-Hương) Giang không chịu ủng-hộ quân đảo-chính, đúng vào ngày sinh-nhật của Ông tức ngày Lễ Các Thánh 1/11/1963250. HQ Trung-Tá Chung-Tấn-Cang, lúc đó đang chỉ-huy Giang-Lực, được thăng-cấp Đại-Tá lên nhận quyền Tư-Lệnh Hải-Quân. HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền.
Các tài-liệu c̣n sót lại sau hơn 40 năm cho biết Hải-Quân VNCH luôn-luôn quan-niệm rằng Hạm-đội Sông-Biển là tài-sản của quốc-gia, không thuộc riêng một cá-nhân hay phe-phái nào. Có lẽ v́ vậy, theo tác-giả Ngô-Đ́nh-Châu, số-lượng Sĩ-Quan Hải-Quân hoạt-động (chính-trị) trong phe đảo-chánh lật đổ Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm không có nhiều.251
Khoá 13 SVSQ/HQ và các Sĩ-Quan Sinh-Viên Hiện-dịch Kể từ khi thành-lập, Trường Hải-Quân Việt-Nam chỉ đào-tạo các Sĩ-Quan Trừ-bị. Năm 1963, Bộ Quốc-Pḥng bắt đầu có ư-định tăng-cường cho Hải-Quân các Sĩ-Quan Hiện-dịch. Đầu tháng 4 năm 1963 Khoá 13 Đệ-Nhị Dương-Cưu nhập quân-trường, tổng-số 80 Sinh-Viên (dự-trù 100 nhưng dành 20 chỗ cho các tân Sĩ-Quan tốt-nghiệp Vơ-Bị Đà-Lạt đến thụ-huấn) học-tŕnh 18 tháng và tất cả thuộc ngành Chỉ-Huy252. Vào tháng 7 năm 1963, khi khoá 13 vừa xong thời-gian huấn-nhục, 15 Thiếu-Úy Hiện-Dịch tốt-nghiệp Khoá 16 trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam (TVBQG/VN)253 tại Đà-Lạt được gửi nhập-học khoá này để chuyển qua Hải-Quân ngành Hiện-Dịch. Tuy-nhiên sau khi thực-tập hải-hành trên chiến-hạm chờ hết thời-gian huấn-nhục của Khoá 13 th́ có 3 Thiếu-Úy xin trở lại Lục-Quân v́ không chịu được sóng và khi bắt đầu khoá học lại có 5 Thiếu-Úy nữa bỏ về Lục-Quân254. Sau cùng chỉ c̣n 7 Sĩ-Quan ở lại học khoá 13 SQHQNT mà thôi. Đó là lần đầu và cũng là lần chót Sĩ-Quan tốt-nghiệp trường Vơ-Bị Đà-Lạt sang học Hải-Quân. Chương-tŕnh này được bộ TTM đề-nghị Bộ Quốc-Pḥng huỷ-bỏ. Ít năm sau thay v́ lấy những Sĩ-Quan tốt-nghiệp, HQVN nhận huấn-luyện hải-nghiệp cho các Sinh-Viên của trường đó. Các SVSQ Hiện-dịch Đà-Lạt được gửi xuống theo học chuyên-nghiệp Hải-Quân trong chương-tŕnh học Quân-Binh-chủng. Những Sinh-Viên này, sau khi tốt-nghiệp tại “trường mẹ” Đà-Lạt sẽ được sang phục-vụ Hải-Quân với cấp-bậc Hải-Quân Thiếu-Úy Hiện-dịch. Tất cả những Sĩ-Quan Hiện-dịch khởi-sự hải-nghiệp trên chiến-hạm255.
Các SVSQ Hiện-dịch Đà-Lạt được gửi xuống theo học chuyên-nghiệp Hải-Quân.
Một toán Danh-Dự Hầu-Kỳ của SVSQ Hiện-dịch Đà-Lạt.
Cam-Ranh, Quân-cảng Việt-Nam. Không những Hạm-đội Sông-Biển là tài-sản chung, mà ngay cả Quân-Cảng cũng là những sở-hữu thiêng-liêng của quốc-gia. Qua các tài-liệu Hải-Sử Việt-Nam, Cam-Ranh luôn-luôn được ghi-nhận là một quân-cảng quan-trọng. Có nhiều bài báo từ Hà-Nội vu-khống cho Việt-Nam Cộng-Hoà đă nhượng Cảng này cho Hoa-Kỳ trong thời chiến-tranh như một món quà dâng đế-quốc. Sau nhiều thập-niên, Lịch-Sử đă trả lời cho sự thật. Trong cuốn sách “Việt-Nam - Cuộc chiến 1858 – 1975”256, các tác-giả Nguyễn-Khắc-Cẩn, Phạm-Viết-Thực biên-soạn tại Hà-Nội; đă đặc-biệt ghi-chú một chi-tiết257 quan-trọng như sau: "Lúc sinh-thời, ông Diệm kiên-quyết phản-đối việc nhường quân-cảng Cam-Ranh cho nước ngoài thuê mướn, phản-đối việc đưa quân nước ngoài vào tham-chiến ở Việt-Nam". Những tác-giả này đă có đầu óc "khách-quan khoa học" ghi-nhận đúng-đắn về một nhân-vật lịch-sử.258
Cam-Ranh, Quân-cảng hàng đầu của Việt-Nam. Thuỷ-Quân Lục-Chiến trở-thành Lực-Lượng Tổng-Trừ-Bị Trong năm 1963, Lực-Lượng Thuỷ-Quân Lục-Chiến trở-thành Lữ-Đoàn, được tách rời khỏi sự yểm-trợ tiếp-vận của Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. Thuỷ-Quân Lục-Chiến trực-thuộc thẳng Bộ Tổng-Tham-Mưu / Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà (BTTM /QLVNCH) về mọi mặt. Tư-Lệnh đầu-tiên của Lữ-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến là Trung-Tá Lê-Nguyên-Khang.259 V́ nhu-cầu chiến-trường, Thuỷ-Quân Lục-Chiến cũng như Nhảy Dù trở-thành lực-lượng Tổng-Trừ-bị. Đôi khi Thuỷ-Quân Lục-Chiến có những dịp hoạt-động song-hành với Hải-Quân nhưng toàn-thể binh-chủng “mũ xanh” này không bao-giờ c̣n trở lại nguyên-vẹn dưới quyền điều-động hành-quân của Hải-Quân như trước nữa. Thuỷ-Quân Lục-Chiến tiếp-tục lớn mạnh, trở-thành Sư-Đoàn năm 1968 và là một trong các Đại-Đơn-vị thiện-chiến nhất của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà đứng đối-đầu hiên-ngang trước địch-quân. Chuyển-biến Thống-thuộc Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam Trong năm 1963, Hải-Quân Việt-Nam mất quyền Chỉ-huy Thuỷ-Quân Lục-Chiến về hành-quân. Khi đó, Lực-Lượng này đă trở-thành Lữ-Đoàn và được đặt trực-thuộc thẳng Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà. V́ nhu-cầu hành-quân và địa-bàn hoạt-động khác nhau, quan-niệm sử-dụng TQLC của người Pháp và của người Mỹ khác nhau rất nhiều. Môi-trường và t́nh-trạng Việt-Nam cũng không giống họ. Các Đô-Đốc và Tướng-Lănh trong thời h́nh-thành TQLC Việt-Nam không ai có thể đoán biết những biến-thể sau này của nó lại đặc-biệt đến như vậy.
TQLC là các chiến-sĩ quốc-gia lư-tưởng, gian-nguy không sờn!
Lực-Lượng TQLC Việt-Nam đă đi từ một tổ-chức phức-tạp gồm cả các đội quân thiện-chiến nhất là Commando đến những toán bán quân-sự là Vệ-binh quốc-gia, đầu-tiên sử-dụng các đội giang-thuyền nhỏ-bé. Lại có lúc nếu theo đề-nghị của Phó-Đô-Đốc Auboyneau vào năm 1953, người ta tưởng như TQLC sẽ nắm hết cả Giang-lực trong tay... Nhưng rồi sau cùng, các đội TQLC chỉ c̣n giữ lại một ít thuỷ-xa, rời bỏ hẳn chiến-đĩnh, lớn dần lên để đảm-nhiệm vai-tṛ Tổng-trừ-bị cho Quân-lực với cấp-số Sư-Đoàn.260 Không có một binh-chủng nào của Quân-lực VNCH lại thoát-xác đổi-h́nh nhiều và nhanh đến như vậy!
Nhận-xét về liên-hệ Thuỷ-Quân Lục-Chiến và Hải-Quân, các sử-gia có thể cho rằng Quân-chủng Hải-Quân Việt-Nam bị suy-yếu khi mất quyền điều-động Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Tuy thế, khi xem-xét lại t́nh-thế đặc-biệt của Việt-Nam Cộng-Hoà năm 1963, người ta thấy Hải-Quân không c̣n có đủ khả-năng để điều-hành được TQLC về phương-diện hành-quân như những năm trước nữa.261 Sau 1963, uy-danh của TQLCVN vang-dội trên khắp chiến-trường như một binh-chủng độc-lập ngoài Hải-Quân. Tuy-nhiên có hai điều xác-quyết mà nhiều quân-nhân đă lăng-quên rằng: - Cho đến 1975, TQLCVN vẫn nguyên-vẹn là một Binh-chủng thuộc Quân-chủng Hải-Quân. Quân-phục, Quân-kỳ, Phù-hiệu cấp-bậc, Huy-hiệu đơn-vị... vẫn mang nét Hải-Quân. - Nhờ không phải bận tâm điều-động TQLC về hành-quân mà tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam trở nên đồng-nhất hơn về chuyên-nghiệp và truyền-thống quân-chủng được nâng-cao.
Sự đồng-nhất Học-vấn trong Hải-Quân Việt-Nam Trong giai-đoạn thành-h́nh khó-khăn, Hải-Quân Việt-Nam được huấn-luyện chu-đáo hơn bất-cứ một quân, binh-chủng nào. Ngoại-trừ các đoàn tuần-giang loại phụ-lực, các đội Commandos như Ouragan, Tempête, Jaubert, Montford... mang tính-cách phức-tạp sau này trở-thành Thuỷ-Quân Lục-Chiến, Hải-Quân Việt-Nam ngay từ lúc khởi đầu là một tổ-chức thuần-nhất về bản-chất. Các quân-nhân Hải-Quân không có sự quá cách-biệt về tŕnh-độ học-vấn và kỹ-thuật. Sau khi tham-khảo công-báo Việt-Nam, một Giáo-sư Sử-học đă viết như sau: "Vào thời-gian 1952, ứng-tuyển-viên vào trường Vơ-bị Liên-Quân Đà-Lạt chỉ cần nạp chứng-chỉ học-tŕnh lớp Đệ-Nhị... Riêng ngành Hải-Quân, căn-cứ theo sự tham-khảo của chúng tôi từ Công-Báo, khi vào trường Sĩ-Quan tối-thiểu phải có Tú-tài 1 trở lên hoặc là sinh-viên tốt-nghiệp trường Cao-đẳng Hàng-hải thuộc hệ-thống Đại-học Sài-G̣n. Thành-phần Hạ-Sĩ-Quan và kể cả Thuỷ-binh cũng đ̣i-hỏi có một tŕnh-độ học-vấn bậc Trung-học... Bằng-cấp lúc ấy rất hiếm và rất quư, có bằng Tú-tài lúc ấy là một điều quan-trọng, rất dễ-dàng tiến thân."262 Có nhiều chuyên-nghiệp Hải-Quân đ̣i-hỏi ứng-viên phải có kiến-thức đại-số, lượng-giác, thiên-văn, vật-lư, hoá-học, sinh-ngữ... nào đó mới đủ căn-bản thụ-huấn tại quân-trường Việt-Nam. Sau đó, hầu-hết quân-nhân đều sẽ có dịp tu-nghiệp tại ngoại-quốc. Các Thuỷ-thủ Điện-tử, Giám-lộ, Hải-pháo, Điện-pháo, Cơ-khí, Thám-xuất Radar, Sonar... tốt-nghiệp là những chuyên-gia cao-kỹ.263
Kiến-thức về thiên-văn, đại-số, lượng-giác… cần-thiết cho Hải-nghiệp.
Việc Sử-dụng Chiến-hạm vào việc Tuần-dương Kiểm điểm lực-lượng của Hải-Lực vào năm 1961, Hải-Quân Việt-Nam chỉ có tất cả 6 Hộ-Tống-Hạm (1 PCE, 5 PC), 5 Trợ-Chiến-Hạm LSSL, 5 Giang-Pháo-Hạm LSIL, 2 Tuần-Duyên-Hạm CC, 5 Hải-Vận-Hạm LSM, 3 Trục-Lôi-Hạm MSC, 1 Lương-Vận-Hạm AKL, 2 Hoả-Vận-Hạm YOG. Trong khi đó, nhu-cầu tuần-dương chống Cộng-Sản xâm-nhập gia-tăng một cách khẩn-cấp. Trừ hai tàu dầu, tất cả các chiến-hạm trên đây đều được sử-dụng vào việc tuần-dương, khoảng từ 25 cho đến 26 chiếc. Đến năm 1962, con số này tăng thêm ba chiếc nữa. Năm 1963, với 10 chiếc PGM, 1 LST, và 1 LSM được chuyển-giao; con số chiến-hạm và chiến-đĩnh có thể sử-dụng vào việc tuần-dương được tăng lên tất cả là 38 chiếc. Tuy-nhiên, ngoại-trừ việc sử-dụng hai Hải-Vận-Hạm vào việc tuần-dương lúc ban đầu, sau này các Hải-Vận-Hạm và Dương-Vận-Hạm không phải lănh trách-nhiệm tuần-tiễu nữa. Số tàu được dùng vào việc tuần-tiễu cũng không bao-giờ quá 30 chiếc. Ngoài ra, các chiến-hạm phải được vào đại-kỳ và tu-bổ theo định-kỳ, số chiến-hạm khiển-dụng chỉ c̣n khoảng hai phần ba tức là dưới hai mươi chiếc.
Năm 1964 - Lực-Lượng Hải-tuần được thành-lập, trực-thuộc Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải. Một Hải-Quân Trung-Úy và hầu-hết nhân-viên thuộc đội Biệt-hải được biệt-phái Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải.
Ngư-Lôi-Đĩnh PT (Motor Torpedo Boat) hành-quân đêm.
- Tháng 1, Hải-Quân có 6,467 Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. - Tháng 2 ngày 22, hai PT (Motor Torpedo Boat) đầu-tiên đến Đà-Nẵng, đặt dưới sự sử-dụng của Lực-Lượng Hải-tuần, thuộc Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải. - Tháng 3, Khoá 12 Đệ-Nhất Song-Ngư ra trường.
Cảm nghĩ qua nét vẽ của SV Khoá 12 về việc Huấn-Luyện Sĩ-Quan Hải-Quân. - Tháng 4, Khoá 14 Đệ-Nhị Kim-Ngưu nhập-trường SVSQ/HQ Nha-Trang. Tồng số 100 Sinh-Viên gồm 80 ngành Chỉ-Huy và 20 ngành Cơ-Khí. Thời-gian thụ-huấn 18 tháng.264 - Tháng 6, t́nh-nguyện Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Giang-pḥng được đổi thành Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang và được đặt trực-thuộc Bộ Tư-lệnh Hải-Quân. - Tháng 11, Hải-Quân tăng quân-số lên 8,162 Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Trung-tâm Huấn-luyện Kỹ-thuật Hải-Quân (Engineering School) từ Sài-G̣n được dời ra Cam-Ranh.265 Lúc đó, Thuỷ-Quân Lục-Chiến có cơ-sở mới nên tuần-tự chuyển-nhượng căn-cứ Cam-Ranh lại cho Hải-Quân. - 2 PGM cuối-cùng trong số 12 PGM được tiếp-nhận, Tuần-Duyên-Hạm Diên-hải HQ-610 và Tuần-Duyên-Hạm Trường-Sa HQ-611. Tổng-số chiến-hạm là 44 chiếc. - 2 PCE Hộ-Tống-Hạm Nhựt-Tảo HQ-10 và Chí-Linh HQ-11. Ghe buồm của Lực-Lượng Hải-Thuyền được từ-từ thay-thế bằng ghe xi-măng Yabuta (c̣n được người Việt gọi là ghe Ferro-cement lưới gà, dịch ra tiếng Anh là Concrete Boats, đóng tại Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n266.) Thời-điểm này Giang-Lực lớn mạnh với 7 Hải-Đoàn. Mỗi Hải-Đoàn có 19 giang-đĩnh. Cũng trong năm này, các căn-cứ lớn được thành-lập hay cải-biến cho lớn hơn tại các hải-cảng quan-trọng như Cam-Ranh, Đà-Nẵng, Phú-Quốc v.v...
Chiến-thuyền Yabuta.
Yabuta công-tác lúc trời hừng sáng.
Cộng-Sản Hà-Nội gửi tàu xâm-nhập bằng đường biển, thường gọi là “Đường Hồ-Chí-Minh trên Biển”.
Hành-Quân vượt Vĩ-Tuyến 17 Đặc-biệt trong năm 1964, HQVNCH đă tổ-chức những cuộc hành-quân ra ngoài Bắc Vĩ-Tuyến 17. Các cảm-tử-quân Biệt-Hải lập được nhiều chiến-tích qua một số cuộc đột-kích xâm-nhập vào khu-vực duyên-hải Miền-Bắc có căn-cứ quân-sự của CSBV, trong đó có cuộc tấn-kích diễn ra vào cuối tháng 7/1964. Dựa trên các không-ảnh t́nh-báo chụp các vị-trí của quân CSBV ở phía Bắc vĩ-tuyến 17 (từ Đồng-Hới đến Thanh-Hoá), Bộ Chỉ-Huy Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải đă khởi-động một cuộc tấn-kích với nỗ-lực chính các toán Biệt-Hải. Ngày 31 tháng 7/1964, cảm-tử-quân Biệt-kích với lối đánh tốc-chiến đă đổ quân tấn-công các vị-trí của CSBV đặt tại đảo Ḥn-Mê và đảo Ḥn-Ngự. Tại đảo Ḥn-Mê, cảm-tử-quân Biệt-Hải phá-huỷ được một đài radar của Bắc-Việt. Cùng thời-gian này, tại đảo Ḥn-Ngự, một toán Biệt-Hải khác đă tấn-kích đài tiếp-vận truyền-tin của CQ, vị-trí thứ hai này nằm gần Vinh, thị-xă tỉnh-lỵ tỉnh Nghệ-An, cách Bến-Hải hơn 185 km.
Giống như Hải-Kích, Biệt-Hải được tập-luyện rất công-phu. Một đội Biệt-Hải tập dùng xuồng cao-su Zodiac tại Đà-Nẵng. Vào ngày 3 tháng 8/1964, một toán đặc-nhiệm Biệt-hải nữa đă tấn-công bằng pháo vào đài radar chính của CQ tại mũi Vinh-Sơn, phía Nam thị-xă Vinh và trạm an-ninh của CQ ở gần Mũi-Rọn thuộc vùng nói trên.267
PTF với Thuỷ-Thủ-Đoàn HQVN hành-quân vùng Biển-Bắc.
Những Tiếp-xúc Trực-tiếp đầu-tiên với Hải-Quân Hoa-Kỳ Như đă tŕnh-bày trong các đoạn trên, sự liên-hệ giữa Hải-Quân Việt-Mỹ về các vấn-đề huấn-luyện hay tiếp-vận đă khởi-sự từ trước: tuy vậy những tiếp-xúc ảnh-hưởng trực-tiếp đến các đơn-vị chiến-đấu của HQVNCH chỉ khởi-sự vào năm 1964. Nhà quân-sử Marolda viết về biến-cố đó như sau: Việt-Nam Cộng-Hoà càng ngày càng bị đe-doạ nhiều hơn bởi cuộc chiến khuynh-đảo do khối Cộng-Sản điều-động, làm xáo-trộn các hạ-tầng cơ-sở chính-trị, kinh-tế, xă-hội, quân-sự. Trong khi gặp nguy-khốn v́ du-kích địch tấn-công nhiều nơi, th́ chính-trị cũng bị phân-hoá; chính-quyền Việt-Nam Cộng-Hoà đành phải trông-mong vào sự trợ-giúp của Hoa-Kỳ... Song-song với đà gia-tăng quân-viện, số nhân-viên Hải-Quân trong phái-bộ MAAG (U.S. Military Assistance Advisory Group) cũng tăng từ 79 người lên đến 154 người vào đầu năm 1964. Hải-Quân Hoa-Kỳ bắt đầu gửi nhân-viên đến cố-vấn cho các Chiến-Hạm, Giang-Đoàn và các đơn-vị chiến-đấu khác của HQVNCH.268 Những Sĩ-Quan Hoa-Kỳ trong khi đi theo với Giang-lực Việt-Nam, đă cho hay là thuỷ-thủ Việt-Nam tận-tyu5y và can-đảm, nhiều đơn-vị trong sông-ng̣i Việt-Nam có nhiều kinh-nghiệm tác-chiến. Tuy vậy các bản báo-cáo này không được ai chú-ư tới... Khi gửi quân can-thiệp vào năm 1965, Hải-Quân Hoa-Kỳ vẫn chưa chuẩn-bị đầy-đủ cho các chiến-trận trong kinh-rạch và dọc vùng duyên-hải... Vào thời-điểm trực-tiếp tham-chiến rồi mà HQHK vẫn c̣n đánh giá quá thấp tầm quan-trọng huyết-mạch của các công-tác ǵn-giữ an-ninh thuỷ-lộ.269
Giang-Đoàn Xung-Phong Hành-Quân. Năm 1965 - Sau khi thất-bại trong ư-đồ xúi-dục nhân-dân Miền-Nam vào cuộc chiến-tranh khuynh-đảo, Cộng-Sản Bắc-Việt trực-tiếp dồn nỗ-lực trực-tiếp xâm-lăng Việt-Nam Cộng-Hoà. Chúng lén-lút gửi nhân-viên và chiến-cụ xâm-nhập Miền-Nam bằng đường biển. HQVNCH nỗ-lực ngăn-chặn chúng lại. Vào ngày 19-2-1965, Lực-Lượng ta và quân bạn đă đánh ch́m một tàu Bắc-Việt tại Vũng-Rô, tịch-thu nhiều chiến-lợi-phẩm. - Qua nhiều biến-động chính-trị, t́nh-h́nh quốc-gia nguy-ngập; Quân-đội phải đứng ra lănh-đạo quốc-gia vào hôm 19-6-1965. Ngày đó được gọi là Ngày Quân-lực. Quân-Lực từ đây được quy-định rơ-ràng 3 quân-chủng: Hải, Lục, Không-Quân. Chức Phụ-Tá Hải-Quân (cũng như Phụ-Tá Không-Quân) cạnh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QL/VNCH bị huỷ-bỏ. Vị Sĩ-Quan chỉ-huy quân-chủng Hải-Quân chính-thức là Tư-Lệnh Hải-Quân270. - Tháng 7, Lực-Lượng Hải-Thuyền được cải-tuyển thành chủ-lực-quân. Các đội Hải-Thuyền được cải-danh thành các Duyên-Đoàn thống-thuộc các Vùng Duyên-Hải (VDH hay VZH). Số-lượng ghe Hải-Thuyền từ con số 80 chiếc khởi-đầu tăng lên đến 644 chiếc. Có 4 kiểu chiến-thuyền chính: - ghe chỉ-huy (hay ghe chủ-lực271) chạy bằng máy GM-671 và bằng buồm - ghe trợ-lực, nhỏ hơn ghe chủ-lực - ghe máy (chỉ có máy) - ghe buồm (chỉ có buồm)272.
Hải-Thuyền Kiên-Giang này có gắn loa phóng-thanh. 6 Sự phối-trí Lực-lượng Hải-Thuyền dọc duyên-hải VNCH và Vị-trí các Duyên-Đoàn (ZĐ) vào năm 1965.
Lúc này Hải-Lực có hai ngàn quân, kể cả Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Các LSIL và LSSL lưu-động tuần-tiễu trên sông Mekong. Một trong các Giang-Pháo-Hạm và Trợ-Chiến-Hạm này được biệt-phái cho Đặc-khu Rừng-Sát273. Ba LST và các LSM được sử-dụng để chuyên-chở quân-dụng. Một LSM được chỉnh-trang thành Bệnh-viện-Hạm với đầy-đủ y-dụng. Hải-Lực tiếp-nhận thêm bốn Trợ-Chiến-Hạm (LSSL): Đoàn-Ngọc-Tảng HQ-228, Lưu-Phú-Thọ HQ-229, Nguyễn-Ngọc-Long HQ-230, Nguyễn-Đức-Bổng HQ-231.
Trợ-Chiến-Hạm Nguyễn-Ngọc-Long HQ-230.
Lúc bấy giờ quân-số Hải-Quân tổng-cộng là 13 ngàn, kể cả Sĩ-quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Bảy Sĩ-Quan được gởi sang Hoa-Kỳ tu-nghiệp tại Naval Postgraduate School, ở Monterey, California. Cũng trong năm này, danh-từ Hải-Đoàn Xung-Phong (Dinassaut) được thay bằng Giang-Đoàn Xung-Phong (GĐXP- River Assault Group). Sáu trong bảy Giang-Đoàn này được trang-bị: 1 Soái-Đĩnh Commandement, 1 Tiền-Phong-Đĩnh Monitor, 5 Quân-Vận-Đĩnh LCM, 6 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP và 6 Tiểu-Giáp-Đĩnh FOM. Riêng Giang-Đoàn 27XP có 1 Soái-Đĩnh Commandement274, 1 Tiền-Phong-Đĩnh Monitor, 6 Quân-Vận-Đĩnh LCM-8 và 10 Tuần-Giang-Đĩnh (RPC - River Patrol Craft). Mỗi Giang-Đoàn có 150 người, gồm Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên. Giang-Đoàn 27XP có quân-số đông hơn, tới 200 người. Giang-Đoàn này có vận-tốc di-chuyển cao275, có khả-năng đổ-bộ 12 chiến-xa Ontos hay 12 Thiết-Vận-Xa M113, thường được gửi đi tăng-cường cho các cuộc hành-quân lớn.
Giang-Đoàn 27XP được trang-bị phương-tiện và dụng-cụ tối-tân. Soái-Đĩnh của GĐ là một trong những giang-đĩnh XP đầu-tiên có gắn radar.
Hải-Quân đang tác-xa dọn băi để các LCM-8 đổ-bộ những chiến-xa Ontos.
LCM 8 có thể chuyên-chở 2 chiến-xa loại Ontos. Chiến-xa này thường được trang-bị tới 6 đại-bác 106 ly không giật.
Công-tŕnh đáng nhớ: Kiến-trúc chiến-thuyền. Những công-tŕnh nghiên-cứu hàng-hải cho biết rằng tiền-nhân chúng ta có tài trong việc kiến-trúc thuyền-bè. Trống đồng Đông-Sơn gần 4,000 năm trước ghi-khắc thuyền-bè dân ta có trang-bị bánh-lái và cây xiếm. Những trang-cụ này chỉ bắt-đầu xuất-hiện bên Âu-Châu vào thế-kỷ thứ 12. Nhiều tàu-thuyền Âu-Châu trong các thế-kỷ trước đă chép rằng khi ngang qua bờ-biển nước ta không may bị đắm, họ được dân ta cứu-vớt, sửa-chữa vỏ thuyền, dựng lại cột buồm… Họ không những chỉ thán-phục ḷng hảo-tâm của dân ta276 mà c̣n rất ngạc-nhiên về khả-năng vượt-bực của người Việt-Nam trong việc kiến-trúc thuyền-bè, dù là tân-tạo những kiểu tàu-thuyền Tây-phương xa-lạ277… Hải-Quân VNCH và thường-dân Việt có dịp chứng-minh điều đó trong khi bành-trướng Lực-lượng Hải-thuyền. Như đă kể ở đoạn trên, từ con số 80 chiếc hải-thuyền vào đầu năm 1962, HQVN cần gia-tăng lực-lượng lên đến 644 chiếc. Khi nghiên-cứu các tài-liệu hồi đó, người ta thấy có những sự khác-biệt về đường-lối điều-hành Việt-Mỹ. Nhiều chuyện phức-tạp về nhân-sự, ngân-quỹ, kỹ-thuật v.v… đă xảy ra. Thế mà HQVN với sự cộng-tác của các hăng đóng tàu ghe địa-phương đă hoàn-thành việc kiến-tạo: - 440 chiếc hải-thuyền tại Phan-Thiết và Sài-G̣n. - 61 chiếc chủ-lực tại các Thuỷ-Xưởng Hải-Quân. - 40 ghe Kiên-Giang tại Rạch-Giá. - c̣n lại 23 chiếc chủ-lực sau cùng được HQCX hoàn-tất. Nh́n chung, t́nh-trạng kỹ-thuật không được đồng-đều. Các ghe chủ-lực tương-đối khá, các ghe Kiên-Giang được ghi-nhận chịu-đựng biển và nhảy-sóng tốt. Tuy-nhiên, các ghe phụ-lực khác bị ghi “không đạt tiêu-chuẩn”, có chiếc th́ gỗ đóng vỏ ghe bị ngót gây ra những kẽ nứt tới một hai centimètres. Sau vài tháng tuần biển, một số ghe phải tái-tạo (on recall) hoàn-toàn. Người ta hiểu rằng công-tŕnh kiến-tạo một “hạm-đội” 644 chiến-thuyền không phải là một công-chuyện nhỏ-bé. Trong t́nh-trạng thiếu-thốn chuyên-viên và khó-khăn phương-tiện thời ấy, nhiều nhà nghiên-cứu đă ngạc-nhiên là kế-hoạch hoàn-tất đúng hạn-kỳ. Đó là do nỗ-lực của nhiều người trong và ngoài Hải-Quân mà cũng là nhờ vào truyền-thống ghe-thuyền của dân Việt-Nam vậy. Vài điều ngạc-nhiên xin dành cho thế-hệ hậu-sinh đọc và biết rằng: - Chương-tŕnh kiến-tạo khởi-sự cuối tháng 6-1962, mà phí-khoản ước-tính không nhất-định. Đến tháng 8-1962 ngân-sách mới được thông qua. - Quỹ chỉ cấp ra có 850,000 Mỹ-kim cho việc sản-xuất 501 chiến-thuyền, mà trong đó đă chiếm tới 61 chiếc Chủ-lực.278 - Dù gặp khó-khăn nhưng khối nhân-lực vẫn tiến-hành công-việc không chậm-trễ. Chỉ mấy tháng sau đó, loạt chiến-thuyền đầu-tiên ra khơi vào tháng 1-1963 và chiếc cuối-cùng hoàn-tất vào tháng 5 cùng năm đó 279.
Như tiền-nhân Việt-tộc, HQVN sử-dụng những Thuyền Buồm có trang-bị Cây Xiếm truyền-thống từ thời Hùng-Vương/Đông-Sơn/Hoà-B́nh (4,000 năm trước).
Chính-quy-hoá Giết chết nguồn T́nh-báo Địa-phương Ngay khi mới thành-lập, Quân-Đội QGVN đă từng ư-thức rằng t́nh-báo nhân-dân tại địa-phương là yếu-tố sinh-tử. Hải-Quân Việt-Nam tổ-chức Lực-Lượng Hải-Thuyền cũng với quan-niệm lănh-thổ. Đoàn-viên hải-thuyền kề-cận với chiến-tranh chống du-kích. Đa-số họ là ngư-dân địa-phương. Họ thù-ghét Cộng-Sản và trực-tiếp cầm súng bảo-vệ thôn-làng, biển-dă. Thu-phục nhân-tâm là chính, áp-dụng kỷ-luật là thứ-yếu. Đó là cẩm-nang thành-công của cấp chỉ-huy lực-lượng bán-quân-sự. Thoạt đầu, Lực-Lượng Hải-Thuyền mang tính-cách địa-phương-quân và t́nh-báo nhân-dân. Chủ-trương chính-quy-hoá đă giết chết tinh-thần địa-phương và khả-năng thu-thập t́nh-báo. Nhiều đoàn-viên hải-thuyền đă đào-ngũ khi bị thuyên-chuyển khỏi địa-phương. Họ bị bứt ra khỏi xóm-làng, môi-trường sinh-sống quen-thuộc nghịch với chiến-thuật chống-du-kích. Thời-gian phục-vụ hải-thuyền rèn-luyện cho các Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVN những khả-năng hải-hành truyền-thống dựa theo hướng gió, cơn sóng, đối-vật thiên-nhiên thay v́ bằng các phương-tiện hàng-hải hiện-đại.280 Biến-Cố Vũng-Rô. Cộng-Sản Bắc-Việt tăng-gia sự xâm-nhập nhân-viên và chiến-cụ bằng đường biển. HQVNCH và quân bạn đă dồn được một tàu Bắc-Việt xâm-nhập trong vùng biển Varella281. Sau đó tàu này bị phi-cơ Skyraider của Không-Quân Việt-Nam tấn-công 3 lượt trong vịnh Vũng-Rô. Vào ngày 19 tháng 02 năm 1965, một Hải-Đoàn gồm có 2 Hộ-Tống-Hạm (HQ-08 Chi-Lăng II và HQ-04 Tụy-Đông) và một Hải-Vận-Hạm (HQ-405 Tiền-Giang) đă thành-công trong việc đổ-bộ Biệt-kích lên gần chỗ chiếc tàu xâm-nhập bị mắc-cạn trên băi cát.282 Công cuộc lục-soát tiếp-tục đến ngày 24 tháng 2. Tổng-số vũ-khí và đồ tiếp-liệu quân ta tịch-thu được tới trên 100 tấn, chia ra như sau: - 3,600 súng trường và tiểu-liên - hơn 1 triệu viên đạn - hơn 1,000 trái lựu-đạn - 250 kg thuốc nổ TNT với ng̣i-nổ - 2,000 viên đạn súng cối 82 ly - 500 trái lựu-đạn chống chiến-xa - 250 kg tiếp-liệu y-dược.283 Tài-liệu hải-hành tịch-thâu được cho biết những chiếc tàu này khởi-hành từ Hải-Pḥng, từng xâm-nhập Miền-Nam tiếp-tế vũ-khí cho Việt-Cộng nhiều chuyến.284 Để ghi-nhận chiến-công tiêu-diệt tàu xâm-nhập này, nhiều huy-chương đă được tưởng-thưởng cho các chiến-sĩ hữu-công. Riêng Thuỷ-Thủ-Đoàn Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04 được tuyên-công đơn-vị đồng-minh US Navy Unit Commendation.285 Ngay sau đó, Thuỷ-Thủ-Đoàn Hải-Vận-Hạm Tiền-Giang (HQ-405) cũng được tuyên-công đơn-vị trước Quân-Đoàn. Biến-cố Vũng-Rô đă xác-quyết sự xâm-nhập vũ-khí và đồ tiếp-liệu của Cộng-Sản từ Miền-Bắc vào Miền-Nam.
Huy-chương US Navy Unit Commendation.
Ảnh-Hưởng Biến-cố Vũng-Rô Biến-cố Vũng-Rô gây những ảnh-hưởng lớn-lao làm thay-đổi kế-hoạch quốc-pḥng và ngoại-giao của VNCH. Ngay sau biến-cố đó, giới hữu-trách Việt-Nam Cộng-Hoà đă công-bố rộng-răi các tài-liệu, tố-cáo sự vi-phạm Hiệp-định Genève của Hà-Nội, đồng-thời kêu-gọi thế-giới tự-do trợ-giúp phương-tiện để pḥng-thủ lănh-thổ. Ngày 27-2-1965, Chính-phủ Hoa-Kỳ cũng ban-hành một tờ Bạch-Thư tuyên-cáo cùng quốc-tế về dă-tâm của chính-quyền Cộng-Sản trong âm-mưu xâm-lăng Việt-Nam Cộng-Hoà. Các chiến-lược-gia ư-thức rằng nếu Miền-Nam bị Hà-Nội thôn-tính th́ Cộng-Sản sẽ theo vết dầu-loang, nhuộm đỏ hết khu-vực Đông-Nam-Á.286 Những quốc-gia yêu-chuộng tự-do như Phi-Luật-Tân, Thái-Lan, Đại-Hàn, Gia-Nă-Đại, Úc-Đại-Lợi, Hoa-Kỳ... ào-ạt gửi nhân-viên và vật-dụng qua trợ-lực Việt-Nam Cộng-Hoà.
H́nh-ảnh các Chiến-Hạm và Phi-Cơ của Hải-Quân Hoàng-Gia Úc-Đại-Lợi đến trợ-lực Việt-Nam Cộng-Hoà…
Quyền-hạn của Cố-Vấn Hoa-Kỳ Đặc-biệt, vụ Vũng-Rô cũng đưa ra một chi-tiết tuy nhỏ nhưng rất quan-hệ đến tư-thế các Đơn-Vị-Trưởng Hải-Quân. Cũng theo đó, người ta thấy quyền-hành rất giới-hạn của Cố-Vấn Hoa-Kỳ: Cựu Phó-Đề-Đốc Hồ-Văn-Kỳ-Thoại, trong cuộc phỏng-vấn ngày 20 tháng 9 năm 1975, đă thuật lại những điều ông nhớ lại được về trận Vũng-Rô. Khi đó Ông là Chỉ-Huy-Trưởng hành-quân, cấp-bậc HQ Thiếu-Tá. Ông kể như sau: "Các Sĩ-Quan Hoa-Kỳ chẳng có cố-vấn ǵ cho tôi cả. Chúng tôi đổ-bộ và tịch-thu được hơn 10 tấn vũ-khí đem lên chiến-hạm. Trong ngày cuối của cuộc hành-quân, có một cuộc tranh-căi xảy ra giữa tôi và Thiếu-Tá Rodgers, vị Cố-Vấn-Trưởng này mới bay từ Nha-Trang tới... Ông ta hỏi tôi, tại sao Ông không làm thế này, tại sao lại làm khác, vv... và vv... Bởi vậy, tôi mới nói: ''Nếu các anh c̣n chỗ ngồi trên trực-thăng, cảm-phiền làm ơn đem ông Cố-vấn này về nhà giùm."287
H́nh Ông Hồ-Văn-Kỳ-Thoại, khi mang cấp-bậc Phó-Đề-Đốc (chụp khoảng 1974).
Theo truyền-thống Hải-Quân, dù Việt-Nam hay Hoa-Kỳ, quân-nhân cũng đều tôn-trọng quyền Hạm-Trưởng. Khi có sự bất-đồng ư-kiến giữa Hạm-Trưởng và Cố-Vấn, Hạm-Trưởng là người giữ trọng-trách nên nắm quyền quyết-định. Trong những vụ tranh-chấp, luôn-luôn ư-kiến-hạm-Trưởng được lắng nghe. Có khi Cố-Vấn báo-cáo xấu Hạm-Trưởng, nhưng chưa bao-giờ chỉ v́ chuyện xích-mích này mà Hạm-Trưởng mất quyền chỉ-huy. Liên-hệ buồn vui giữa Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam và các Cố-Vấn đối-tác (Counterparts) như vậy cùng với quyền-uy của các Hạm-Trưởng Việt-Nam đă được viết thành sách288. Nói chung th́ trong Hải-Quân Việt hay Mỹ, tinh-thần “Sĩ-Quan Hải-Quân quư-phái, Officers and Gentlemen”, cũng như căn-bản kiến-thức cao đă làm mọi chuyện khó-khăn thành êm-dịu.289 Đặc-biệt do ư-thức và quan-niệm về danh-dự khác nhau giữa hai nền văn-hoá290, đôi khi xung-đột nổ lớn. Trường-hợp trên Tuần-Duyên-Đĩnh Thị-Tứ HQ-613, lấy lư-do v́ danh-dự của một Sĩ-Quan thuộc-cấp291, Hạm-Trưởng ép Cố-Vấn phải lập-tức rời tàu. Sau khi điều-tra xét-xử, Hạm-Trưởng thắng. Để cho t́nh-trạng bớt căng-thẳng, chiến-hạm đă không có Cố-Vấn trong suốt nhiệm-kỳ chỉ-huy của Hạm-Trưởng. Tại các đơn-vị nhỏ, chỉ có một Sĩ-Quan Hải-Quân Hoa-Kỳ. Ở các đơn-vị lớn, nhóm Cố-Vấn có thể thêm một vài Hạ-Sĩ-Quan hay Đoàn-Viên Hoa-Kỳ. Họ sinh-hoạt trong khu-vực Hạ-Sĩ-Quan hay Đoàn-viên Việt-Nam. Họ ăn ngủ như Việt-Nam, không có ưu-đăi hay thực-phẩm ǵ khác-biệt. Một chi-tiết rất tế-nhị mà Đại-Tướng Westmoreland đă nói đến trong tư-cách Cố-Vấn: “Người Hoa-Kỳ luôn-luôn dành phía danh-dự bên-phải cho Đơn-Vị-Trưởng Việt-Nam”292.
H́nh b́a cuốn sách “Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War” của HQ Đại-Tá Đỗ-Kiểm và Julie Kane, Nhà Xuất-bản Naval Institute Press, Annapolis, Maryland, năm 1998.
Chỗ ngồi trên chiến-hạm Tướng Westmoreland khi viết sách chắc Ông không nghĩ (hay ít lưu-tâm) đến trường-hợp của Cố-Vấn trên chiến-hạm. Hải-Quân VNCH “hơn ai hết” tôn-trọng quyền chỉ-huy hơn là cấp-bậc quân-đội. Trên các chiến-hạm, Hạm-Phó (hay Chỉ-Huy-Phó) là cánh tay phải của Hạm-Trưởng293 (hay Chỉ-Huy-Trưởng). Cố-vấn HQHK là “khách”294, ngồi ghế bên trái trong giờ hội-họp hay giờ ăn. Điều này không có ngoại-lệ, cho dù cấp-bậc Cố-Vấn có cao mấy cũng vậy thôi! Trường-hợp khi giữ nhiệm-vụ liên-lạc trên chiến-hạm Mỹ, Sĩ-Quan HQVN cũng được HQHK coi như khách. Tuy vậy v́ tục-lệ Hoa-Kỳ có khác-biệt, Sĩ-Quan Việt-Nam thường được mời ngồi vào ghế bên phải của Hạm-Trưởng trong khi Hạm-phó vui-vẻ với ghế bên trái của Ông.
Chỉ-Huy-Phó là cánh tay phải của Chỉ-Huy-Trưởng. Cố-vấn HQHK là “khách”, ngồi ghế bên trái.295
Ngoài ra trên Chiến-Hạm Việt-Nam đặc-biệt có nhiều nghi-thức chào-kính hay tục-lệ Việt-Nam luôn-luôn được Sĩ-Quan HQHK tôn-trọng thi-hành. Ở Miền-Bắc, Cố-vấn Nga Tàu theo quy-chế riêng. Các Cố-Vấn Trung-Cộng rất quan-liêu, hưởng rất nhiều ưu-đăi về phương-diện cư-trú, phục-dịch, hưởng đặc-táo...296 Khi nghe tin này, người lính thuỷ HQVNCH không làm sao tưởng-tượng nổi t́nh-trạng chính-quyền Cộng-Sản Miền-Bắc đă để mất danh-dự dân-tộc Việt-Nam như vậy lại xảy ra. Trong cuốn Mặt Thật, Bùi-Tín, một cựu Đại-tá Phó Tổng-biên-tập báo Nhân-Dân đă ly-khai với đảng Cộng-sản, viết về quan-hệ giữa các cấp lănh-đạo đảng Cộng-Sản và các cố-vấn Trung-Quốc sang Việt-Nam hướng-dẫn họ làm cải-cách điền-địa năm 1955 như sau: “Mỗi lần các vị học-tṛ này gặp đoàn phái-viên quư-báu của Mao chủ-tịch, về Thủ-ti-cải-cờ (Thổ-địa cải-cách, theo tiếng Bắc-Kinh), họ chỉ có thái-độ tiếp-nhận ư-kiến của chuyên-gia, không dám hỏi lại, cũng không dám căi lại. Anh bạn của tôi làm ở văn-pḥng ban Chỉ-đạo hồi ấy (năm 1954, 1956) kể lại: Triết cố-vấn, Triệu cố-vấn và Vương cố-vấn chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, có lúc gác đại cả hai chân lên bàn, tay cầm ly rượu mao-đài, nhổ nước bọt ồn-ào xuống đất, để phán-bảo cho những người nắm vận-mệnh của đất-nước Việt-Nam. Thật thê-thảm cho đất-nước này...”297
Năm 1966 Ngày 1-1-1966, Bộ-Chỉ-Huy Hải-Lực được cải-danh thành Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Hạm-đội được chia ra làm hai Hải-Đội: - Hải-Đội 1 Tuần-Dương, - Hải-Đội 2 Chuyển-Vận. Hải-Lực tiếp-nhận một số chiến-hạm: Một Hộ-Tống-Hạm PCER298: HQ-12 Ngọc-Hồi, và bốn Tuần-Duyên-Hạm PGM: HQ-612 Thái-B́nh, HQ-613 Thị-Tứ, HQ-614 Song-Tử chuyển-giao vào tháng 1 năm 1966, và HQ-615 Tây-Sa vào tháng 11.
Hộ-Tống-Hạm PCER: HQ-12 Ngọc-Hồi.
- Ngày16 tháng 6 năm 1966, trong một chuyến công-tác xét ghe ban đêm ngoài khơi vùng Nghệ Tĩnh, chiến-đĩnh của HQ Đại-Úy Lưu-Chuyên (B-2), Phân-Đội-Trưởng, bị chiến-đĩnh bạn (B-1) bắn nhầm, thiệt-hại nặng phải phá-huỷ. Trong tai-nạn này. HQ Đại-Úy Lưu-Chuyên và người bạn cùng Khoá 8 SQHQ/Nha-Trang là HQ Đại-Úy Liên-Phong thực-tập trên chiến-đĩnh của Đại-Úy Chuyên bị thiệt-mạng."
Chiếc Tàu bằng Sắt thứ hai, thứ ba và thứ tư của CSBV Xâm-nhập Sau vụ Vũng-Rô, chiếc tàu CSBV thứ hai xâm-nhập bị đánh ch́m tại gần cửa Bồ-Đề vào ngày 10 tháng 05 năm 1966. Tuần-Duyên-Đĩnh Point Grey trong khi tuần-tiễu phía Nam cửa Bồ Đề, đă phát-hiện hai đám lửa lớn trên bờ làm báo-hiệu. Đồng-thời khi thấy trên màn Radar một chiếc tàu sắt, Point Grey vừa hỏi quang-hiệu vừa tăng máy chặn-bắt. Chiếc tàu lạ chạy trốn, bị ép phải mắc-cạn. Trong bờ địch bắn ra tới-tấp, chiến-đĩnh tác-xạ trả lại ngay vào bờ và vào tàu địch. Tàu địch bị nổ tung làm hai phần. 15 tấn vũ-khi đạn-dược bị tịch-thu từ con tàu bằng sắt dài 125ft ấy.
Một ghe Chủ-lực của Duyên-Đoàn dí mũi sát vào chiếc SL xâm-nhập, khi đó đă nổ tung, đứt làm hai đoạn.
H́nh của LL Tuần-Duyên Hoa-Kỳ cho thấy Tuần-duyên-Đĩnh Point League canh-chừng chiếc SL đang cháy (trái) và cảnh Hải-Quân Việt-Mỹ đang săn-nhặt chiến-lợi-phẩm.299 Chiếc tàu sắt thứ ba của địch bị đánh ch́m tại gần cửa Ba-Động ngày 20 tháng 06 năm 1966. Tới 250 tấn vũ-khí đạn-dược bị tịch-thu. Sau đó, CSBV lại nỗ-lực xâm-nhập trở lại vùng Cà-Mau một lần nữa. Chiếc tàu sắt thứ tư xâm-nhập vào cuối tháng 12 năm 1966, bị đánh ch́m tại cửa Bồ-Đề ngày 01 tháng 01 năm 1967.
Sơ-đồ chặn-bắt và đánh-ch́m tàu xâm-nhập SL 3 gần cửa Ba-Động.
Việc Khủng-hoảng trong Chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân Năm 1966 HQVN xảy ra khủng-hoảng trong Chức-vụ chỉ-huy, kéo theo những mất mát nhân-sự. Diễn-tiến vụ này như sau: Khi HQ Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền nắm quyền Tư-Lệnh HQVN, yếu-tố chính-trị lần đầu ảnh-hưởng mạnh đến Hải-Quân300. Đại-Tá Quyền chết v́ trung-thành với Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm, không ủng-hộ phe đảo-chính. Ông đă bị hai thuộc-cấp hạ-sát.301
Đại-tướng Cao-Văn-Viên, TTMT/ QLVNCH (1965-1975).
Thay-thế Đại-Tá Quyền nắm quyền Tư-Lệnh HQVN, HQ Trung-Tá Chung-Tấn-Cang thăng-cấp Đại-tá, rồi Phó-Đề-Đốc302, rồi Đề-Đốc rất nhanh (vào năm 1965). Ngày 8 tháng 4 năm 1965, 3 vị Chỉ-huy Lực-Lượng và nhiều Đơn-Vị-Trưởng bất-măn, họp nhau phản-đối việc điều-hành đoàn thương-thuyền một cách không minh-bạch. V́ việc điều-hành này do một số Sĩ-Quan tham-mưu do Tư-Lệnh Cang chỉ-định, nên tất cả hai phe đều bị Bộ Tong-Tham-Mưu ngưng-chức để điều-tra. Tướng Lê-Nguyên-Khang, TL/TQLC được tạm-thời Xử-Lư Thường-vụ Chức-Vụ TL/Hải-Quân. Rồi HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn, vị Tham-Mưu-Trưởng của Đề-Đốc Cang lên Quyền Tư-Lệnh. Đại-Tá Phấn cũng không ở lâu. Các Sĩ-Quan liên-hệ tới cuộc lật-đổ Đề-Đốc Cang đều trở lại chức-vụ, trừ vị Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực.
HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn.
Trong giai-đoạn này, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QLVNCH chỉ-định HQ Trung-Tá Nguyễn-Đức-Vân làm Tư-lệnh. Tuy Ông Vân-bất-tuân thượng-lệnh không nhậm-chức nhưng v́ lầm-lẫn sao đó, các ấn-bản của Jane's Fighting Ships 1967, 1968, 1969 đều ghi tên Ông Nguyễn-Nức-Vân (đánh máy sai tên Nguyễn-Đức-Vân) là Tổng-Tư-Lệnh (Commander-in-Chief). Cũng trong trang đó, Jane's Fighting Ships lại ghi tên các Ông Trần-Văn-Phấn và Trần-Văn-Chơn là Tư-Lệnh Hải-Quân CNO (Chief of Naval Operations).303 Sự khủng-hoảng Chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân kéo theo nhiều mất mát quan-trọng khác về nhân-sự. Nhiều Sĩ-Quan thâm-niên có khả-năng phải biệt-phái các cơ-quan ngoài Hải-Quân.304 Ngày 8-9-1966, Đại-Tướng Cao-Văn-Viên, đương-kim Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QLVNCH, kiêm-nhiệm luôn chức-vụ TL/ Hải-Quân. Hải-Quân vốn từ khi thành-lập, không phải là một thành-viên cao-cấp trong Hội-đồng Quân-Lực, nay tuy không có Đô-Đốc Tư-Lệnh nhưng lần này, ít nhất Hải-Quân có chút tiếng nói của ḿnh tại Hội-đồng đó. Đại-tướng Viên t́m người thay-thế và HQ Trung-Tá Trần-văn-Chơn được đề-bạt vào chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân. Đại-tướng Cao-Văn-Viên chỉ tạm-thời kiêm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam trong hai tháng 8 và 9 năm 1966. Rồi Hải-Quân Trung-Tá Trần-Văn-Chơn đang làm Chỉ-Huy-Trưởng Tuần-Giang lại được đưa về Hải-Quân.305 Ông thăng-cấp Đại-Tá và nắm quyền Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam306 kể từ ngày 31 tháng 10 năm 1966. - Sau một giai-đoạn khủng-hoảng chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân từ cuối thời Đề-Đốc Cang, qua Tướng Khang, qua Đại-Tá Phấn, qua Đại-Tướng Viên, nay Hải-Quân mới có thời-gian ổn-định dưới quyền Tư-Lệnh Trần-Văn-Chơn để bành-trướng mạnh.
Trung-Tướng Lê-Nguyên-Khang, vị Tư-Lệnh TQLC chỉ-huy lâu nhất. Ông cũng đă XLTV Chức-Vụ TL/HQVNCH trong khoảng 2 tuần-lễ (1965).
Hải-Quân Hoa-Kỳ Trực-tiếp Tham-chiến tại Việt-Nam (1966-1969) Tuy chính-sách chính-phủ Hoa-Kỳ bất-nhất như vậy, nhưng từ năm 1966 đến năm 1969, cả Lục-Quân, Không-Quân lẫn Hải-Quân Hoa-Kỳ đều trực-tiếp đổ quân vào tham-chiến tại Việt-Nam. Ngày 1 tháng 4 năm 1966, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam - COMNAVFORV tức Commander U.S. Naval Forces, Vietnam - được thành-lập tại Sài-G̣n để chỉ-huy các đơn-vị Hải-Quân Hoa-Kỳ hoạt-động tại Việt-Nam.307
Huy-Hiệu Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam.
Lịch-sử Hải-Quân Hoa-Kỳ ghi chép kinh-nghiệm tác-chiến Sông-ng̣i trong cuộc Chiến-Tranh Nam-Bắc. Bức h́nh màu trên vẽ năm 1863 Đại-Tướng Grant và Đô-Đốc Porter với hậu-cảnh là đoàn Giang-hạm của Bắc-Quân.
Các Lực-Lượng chính gồm có: - Lực-Lượng Tuần-Duyên: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 115 (Coast surveillance force: Task Force 115), - Lực-Lượng Tuần-giang: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 116 (River patrol force: Task Force 116), - Giang-lực Thuỷ-Bộ: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 117 (River assault force: Task Force 117 hay Mobile Riverine Force).
Quan-niệm Hành-Quân của Mobile Riverine Force – Sơ-đồ mẫu.
Các lực-lượng này phối-hợp với các thành-phần Lục-Quân hay Thuỷ-Quân Lục-Chiến Đồng-minh để hành-quân trong sông-ng̣i... Tư-Lệnh Lực-Lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam cũng chỉ-huy các cơ-sở yểm-trợ gồm: - Cơ-sở Tiếp-Vận Hải-Quân (Naval Support Activity, NSA), - Cơ-quan Cố-Vấn Hải-Quân, - Đoàn Ong-Biển (Seebees308) thuộc Liên-Đoàn 3 Công-Binh Xây-Cất Hải-Quân. (3rd Naval Construction Brigade), - Pḥng Chuyển-Vận Bằng Đường-Biển của Quân-Đội Hoa-Kỳ tại Việt-Nam MSTS (Military Sea Transportation Office Việt-Nam), - Phi-Đoàn Trực-Thăng Vơ-trang và Phóng-Pháo (gồm 35 chiếc Trực-thăng vơ-trang Seawolf và 15 Phóng-pháo-cơ Bronco OV10), - Liên-Đoàn Người-Nhái (SEAL).
Logo một Đoàn Ong-Biển (Seebees) Công-Binh HQHK.
Trực-thăng vơ-trang Seawolf.
Với những phương-tiện thật dồi-dào, Hải-Quân Hoa-Kỳ thành-lập ngay Phi-Đoàn 3 Trực-Thăng vơ-trang (Helicopter Attack Light Squadron 3) tại Vũng-Tàu để yểm-trợ cho Lực-Lượng 116 về phi-pháo, quan-sát và tản-thương. Cho đến tháng 9 năm 1968, Phi-Đoàn này tăng-phái thường-xuyên một Phi-Đội (2 Trực-thăng) cho các nơi như: Nhà-Bè, B́nh-Thuỷ, Đồng-Tâm, Rạch-Giá, Vĩnh-Long và trên 3 Dương-Vận-Hạm thả neo trên sống Cửu-Long. Các Trực-thăng Vơ-trang được trang-bị các dàn phóng hoả-tiễn 2.75 inches, đại-liên 50, và trung-liên M60 v.v...là một loại phi-cơ yểm-trợ rất hữu-hiệu cho loại hành-quân này. Về sau, Phi-Đoàn được tăng-cường thêm 15 Phóng-pháo-cơ Bronco OV10. Phi-cơ này được trang-bị từ 8 đến 15 hoả-tiễn 5 inches, và 19 hoả-tiễn 2.75 inches, 4 đại-liên 60 và 1 đại-bác 20 ly.309
Phóng-pháo-cơ Bronco OV10.
Thành-quả của Công-tác Tuần-duyên Có những con số ước-lượng khác nhau về mức-độ xâm-nhập bằng đường biển của Cộng-Sản Bắc-Việt. Tỷ-lệ cao nhất đă ước-lượng có tới trên 80 phần trăm số quân-dụng của Cộng-Sản Miền-Nam được chuyển bằng đường biển trong những năm đầu của cuộc chiến. Đại-tướng William C. Westmoreland cho biết số-lượng trung-b́nh lớn-lao là 80% trước 1965 đă được hạ xuống một con số nhỏ-bé 10% vào cuối năm 1965 nhờ vào kế-hoạch tuần-dương hỗn-hợp.310
Đại-Tướng Westmoreland, từng làm Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Việt-Nam.
Theo báo-cáo của Hải-Quân Hoa-Kỳ, Trục-Lôi-Hạm MSO và Khu-Trục-Hạm DER311 là hai loại chiến-hạm được dùng đầu-tiên để tuần-tiễu viễn-duyên ở Việt-Nam. Sau năm đầu sử-dụng, họ rút đi Trục-Lôi-Hạm MSO v́ khả-năng không thích-hợp và v́ thiếu hẳn hải-pháo yểm-trợ quân bạn trên bờ. Riêng Khu-Trục-Hạm DER hiện-diện liên-tục từ 1963 đến những ngày chót của HQHK tại Việt-Nam. Hai chiếc loại này đă được chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam để trở-thành HQ-1 và HQ-4.
H́nh-ảnh Trục-Lôi-Hạm MSO của HQHK.
Theo W. J. Moredock312 và Harold W. Seagal313, DER chính là xương sống của Lực-Lượng Task Force 115. Trung-Tâm Chiến-Báo (TTCB - CIC: Combat Information Center) của chiến-hạm được trang-bị tối-tân không thua ǵ CIC của Tuần-Dương-Hạm Cruiser, loại chiến-hạm hùng-hậu nhất của Market Time. Đă có đề-nghị xin biến-cải DER thành Khu-Trục-Hạm Tuần-thám Cấp-cứu (DESR - Destroyer Escort Surveillance Rescue). DERS sẽ được trang-bị thêm một Trực-thăng hoạt-động mọi thời-tiết Kaman UH-2A Seasprite. Băi đáp và nhà chứa phi-cơ thiết-trí phía sau lái. Sau này khi có chiến-hạm WHEC của Lực-lượng Tuần-Duyên Hoa-Kỳ tham-chiến. lại có báo-cáo khác như sau: loại DER nhanh hơn, dễ vận-chuyển hơn chiếc WHEC chậm-chạp và nặng-nề314. Nhờ sân tàu đằng lái thấp, nhân-viên DER dễ-dàng khám-xét ghe-thuyền.
DER là xương sống của Lực-Lượng Task Force 115 tuần-tiễu Biển-Đông.
Khu-Trục-Hạm DER cải-biến từ DE, một loại chiến-hạm rất dễ vận-chuyển, có ṿng-quay tức “đường-kính vận-chuyển chiến-thuật” rất nhỏ. H́nh của USS Slater - DE 766 chụp năm 1944.315
Phụ-Bản của Chương 3 Bàn về Tinh-thần người Mỹ và Đường-lối Chính-phủ của họ Liên-hệ đến Việt-Nam Cộng-Hoà
Sai-lầm lớn của Chính-phủ Mỹ Hoa-Kỳ lập-quốc nhờ đánh bại chính-quyền thuộc-địa của người Anh tại Bắc-Mỹ. Hoa-Kỳ cũng từng là một nước thực-dân, theo chân Anh, Đức, Pháp, Ư, Tây-Ban-Nha… một thời-gian nhưng từ-bỏ chính-sách thuộc-địa rất sớm. Người Hoa-Kỳ có lư-tưởng cao-quư là luôn-luôn tranh-đấu cho Tự-Do Nhân-Quyền, giúp-đỡ các dân-tộc khác chặn-đứng độc-tài Cộng-Sản. Tuy vậy tại Việt-Nam, Chính-quyền Mỹ đă sai-lầm trong chính-sách316. Thay v́ trợ-giúp phương-tiện chống Cộng, họ đă nhúng ta can-thiệp trực-tiếp khiến t́nh-thế Việt-Nam Cộng-Hoà thêm suy-đồi. Các chính-phủ liên-tiếp nhau từ thời John F. Kennedy không nghe theo những khuyến-cáo của giới thức-giả. Những tiết-lộ sau cuộc chiến cho biết có rất nhiều đề-nghị quan-trọng của cơ-quan T́nh-Báo Trung-Ương Hoa-Kỳ CIA317 cũng bị bỏ qua. Cuối-cùng khi biết ḿnh đă thất-bại không thắng được, họ rút chân ra làm sụp-đổ tất cả những ǵ mà người Việt Quốc-gia đă xây-dựng được từ trước. Hoa-Kỳ nói họ luôn-luôn tranh-đấu cho Tự-Do Nhân-Quyền. Các giới-chức Việt-Mỹ trong chính-phủ, dân-sự cũng như quân-sự đă từng lên tiếng chỉ-trích318 và đề-nghị biện-pháp thay-đổi chính-sách, chiến-lược, chiến-thuật ngay từ những năm đầu của thập-niên 1960. Khi làm việc tại Việt-Nam, Tướng Taylor đă phản-đối quyết-liệt dự-tính đổ-bộ quân Mỹ vào Việt-Nam ngay từ đầu thập-niên 1960. Vào năm 1965, Tướng Taylor nói như sau:
Tướng Maxwell Taylor.
"Quân-nhân da (mặt) trắng được trang-bị và huấn-luyện theo phương-cách không thích-hợp (chút nào) cho cuộc chiến-tranh chống du-kích tại các vùng rừng núi Á-Châu. Người Pháp đă từng nỗ-lực thích-nghi lực-lượng của họ trong nhiệm-vụ đó và đă thất-bại. Tôi rất nghi-ngờ rằng Quân-lực Hoa-Kỳ có thể làm tốt hơn họ nhiều được... Sau hết, một câu hỏi đă có từ lâu (mà vẫn không có câu trả lời) là làm thế nào một người lính ngoại-quốc lại có thể phân-biệt được một tên Việt-Cộng với một người nông-dân Việt-Nam (lương-thiện) cùng phía với chúng ta. Khi nh́n ra hàng loạt những khó-khăn (tương-tự như vậy), tôi tin rằng chúng ta phải thay-đổi chính-sách và giữ cho những lực-lượng bộ-chiến của Hoa-Kỳ không trực-tiếp tham-chiến trong cuộc chiến chống nổi-dậy.” 319
Chuyện Đáng Nhớ: 12 Đô-Đốc và 1 Tướng làm việc chung Ai cũng biết ḍng-dơi danh-tướng của Đô-Đốc Ulysses S. Grant Sharp, Tư-lệnh các Hạm-Đội HQHK tại Thái-B́nh-Dương (1963 - 1964) và Tổng-Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Thái-B́nh-Dương (1964 - 1968). Ông là con cháu của Tổng-Thống Ulysses Grant, vị Đại-tướng góp công lớn chiến-thắng cuộc chiến-tranh Nam-Bắc, thống-nhất quốc-gia Hoa-Kỳ.320 Là Sĩ-Quan HQHK cao-cấp, Đô-Đốc Sharp có trách-nhiệm liên-hệ lâu-dài nhất đến chiến-tranh Việt-Nam. Ngay từ đầu khi nhậm-chức, Đô-Đốc Sharp thấy rằng phải-hành-động quyết-liệt ngay. Ông muốn lập-tức phong-toả Bắc-Việt đồng-thời dốc toàn-lực tiêu-diệt Cộng-Quân ở Miền-Nam. Đề-nghị không được chấp-thuận, Đô-Đốc Sharp rất bất-b́nh với kế-hoạch "leo thang chiến-tranh, tră đũa thụ-động có tính-toán" của chính-phủ Hoa-Kỳ. Ông viết ra nguyên một cuốn sách rất nổi-tiếng, cuốn sách "Strategy for Defeat". Nhan-đề cuốn sách tuy ngắn-gọn nhưng đă nói lên tất cả nội-dung của nó: Chiến-lược (như thế này sẽ chỉ đưa đến) bại-trận (mà thôi!)321. Làm thế nào mà thắng-trận được nếu như quân-đội đồng-minh không chủ-động tấn-công và luôn-luôn thụ-động, chỉ được gia-tăng áp-lực khi địch đánh-phá ḿnh?! Đô-Đốc Ulysses S. Grant Sharp. Trong cuốn sách "In Retrospect. The Tragedy and Lessons of Vietnam", Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng Hoa-kỳ Robert S. McNamara hồi-tưởng rằng sau nhiều biến-chuyển (xấu) xảy ra ít lâu, Ông suy-nghĩ rất nhiều, có lúc đă nghĩ rằng Ông đáng lẽ phải bị cách-chức (get fired). Cuối-cùng McNamara phải quyết-định nạp đơn từ-nhiệm322 McNamara thấy hối-hận v́ đă chỉ-đạo sai-lầm cuộc chiến, bỏ ngoài tai những khuyến-cáo của chính những người phụ-tá và lời đề-nghị của một số thức-giả thời đó.
McNamara trong pḥng họp Nội-các, 1967.
Khi tham-khảo chiến-sử Hoa-Kỳ, nhiều người thông-cảm cho nỗi thất-vọng của Đô-Đốc Sharp. Một số khác đă bỏ quên một biến-cố mà khi các quân-nhân Hải-Quân đọc tới th́ khó mà quên được. Chính Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng McNamara cũng có biết rơ câu chuyện này. Đó là Bản Tường-tŕnh của “Ủy-Ban Đánh-Giá T́nh-H́nh Việt-Nam” của Hải-Quân HQHK có tên là “Navy Vietnam Appraisal Group” năm 1967. Những Sĩ-Quan HQHK liên-hệ tới gồm có Cựu Đề-Đốc Eugene J. Carroll, Đề-Đốc Gene R. LaRocque cùng 10 vị Đô-Đốc Hải-Quân và 1 Tướng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Hoa-kỳ. Ủy-Ban thành-lập theo chỉ-thị của Bộ-Trưởng Hải-Quân Paul Nitze với một thành-phần quy-tụ đông-đảo các ngôi sao uy-tín đang lên (carreer on fast track) như chưa từng có trong cuộc chiến. "Quần-tinh" này đích-thân thu-thập mọi yếu-tố, duyệt-xét các kế-hoạch, gặp-gỡ, hỏi-han tận nơi những người lính và nhân-viên thấp nhất; phỏng-vấn chức-quyền trách-nhiệm tham-mưu và chiến-trường, khảo-sát tận chỗ-trong đất liền và ngoài biển-cả, ở Hoa-Kỳ cũng như tại Việt-Nam. Ủy-ban (cộng lại là 25 ngôi sao) làm việc liên-tục suốt 6 tháng trời ḍng-dă. Kết-luận của Bản Tường-tŕnh “25 ngôi sao” là một thứ chuông cấp-báo sự lâm-nguy: Những biện-pháp đang thi-hành không thể tạo nên chiến-thắng.323 Người ta biết rằng tiếp-theo cuộc khảo-sát này ít tháng, Hà-Nội mở cuộc Tổng-Tấn-Công Tết Mậu-Thân vào đầu năm 1968. Như vậy, cho dù Bản Tường-tŕnh của "Vietnam Appraisal Group” này có làm cho những nhân-vật điều-hành chiến-tranh tỉnh-ngộ, nó cũng đă ra đời hơi trễ: v́ áp-lực phản-chiến, Hoa-kỳ rút quân ra vào cuối năm 1968.
Tại sao và Năm Người Im-Lặng Không phải chỉ đến lúc sau này, người ta mới biết những sai-lầm của kế-sách Mỹ trong chiến-tranh Việt-Nam. Nhiều người đă biết rơ hậu-quả thất-bại khi lực-lượng can-thiệp Hoa-Kỳ chưa đến Việt-Nam nhiều, đặc-biệt khoảng từ 1963 đến giữa năm 1965. Những câu hỏi tại sao đă được đặt ra nhiều lần: “Đă biết là sai-lầm mà c̣n làm, Tại sao?” Tại-sao Tổng-Thống Johnson lại chỉ-đạo một chiến-lược nửa chừng? Leo thang theo áp-lực th́ đâu có chiến-lược ǵ! Hoa-kỳ là một nước dân-chủ tiền-tiến với tổ-chức ba ngành lập-pháp, tư-pháp, hành-pháp hoạt-động hữu-hiệu; tất cả mọi giới-chức đều có trách-nhiệm rơ-ràng. Cho đến khi Quân-lực nhận trách-nhiệm thi-hành kế-hoạch ngoài chiến-trường, các giới-chức Chỉ-huy Quân-lực có phải đă bị mù hay bị quáng thế nào? H. R. McMaster khi nghiên-cứu việc này, nhận thấy tinh-thần trách-nhiệm là vấn-đề chính. Tác-giả tŕnh-bày quan-điểm của Ông qua một cuốn sách nhan-dề rất dài "Trốn-trách Nghĩa-vụ: Lyndon Johnson, Robert McNamara, Bộ Tham-mưu Liên-quân, và Dối-Trá đưa đến kết-quả (thất-trận tại) Việt-Nam". Là một quân-nhân, tác-giả McMaster đặc-biệt nhấn-mạnh là nên bỏ mấy chính-trị-gia ra ngoài hậu-xét, mà phải ghi-nhận trách-nhiệm nặng-nề nhất thuộc về "5 Người Im-lặng."324 Đó là Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân và 4 Vị Tư-Lệnh Quân-chủng đă lặng-thinh. Họ để mặc cho các bạn đồng-đội của ḿnh hy-sinh một cách vô-ích như vậy sao?325
H́nh b́a cuốn sách của H.R. McMaster. "Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, The Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam". USA. 1997.
Phụ-Bản
Nguyên-Văn Bạch-Thư của Chính-phủ Hoa-Kỳ công-bố ngày 27-2-1965, sau Biến-cố Vũng-Rô.
Lời tác-giả LSHQVNCH: Bản White Paper này rất quan-trong, đă làm thay-đổi đường lối chiến-lược chiến-thuật của Hoa-kỳ liên-hệ đến VNCH, được đăng lại nguyên-văn nơi đây để làm tài-liệu tham-khảo. Chúng tôi cố truy-t́m nguyên-văn bản-dịch Việt-ngữ nhưng không thành-công. V́ dịch-thuật đôi khi làm sai ư-nghĩa nguyên-bản, cá-nhân chúng tôi không dám nhận trách-nhiệm chuyển-ngữ này. Xin chân-thành cáo lỗi.
"AGGRESSION FROM THE NORTH": STATE DEPARTMENT WHITE PAPER ON VIETNAM February 27, 1965 (Department of State Bulletin, March 22, 1965)
South Vietnam is fighting for its life against a brutal campaign of terror and armed attack inspired, directed, supplied, and controlled by the Communist regime in Hanoi. This flagrant aggression has been going on for years, but recently the pace has quickened and the threat has now become acute.
The war in Vietnam is a new kind of war, a fact as yet poorly understood in most parts of the world. Much of the confusion that prevails in the thinking of many people, and even governments, stems from this basic misunderstanding. For in Vietnam a totally new brand of aggression has been loosed against an independent people who want to make their way in peace and freedom.
Vietnam is not another Greece, where indigenous guerrilla forces used friendly neighboring territory as a sanctuary.
Vietnam is not another Malaya, where Communist guerrillas were, for the most part, physically distinguishable from the peaceful majority they sought to control.
Vietnam is not another Philippines, where Communist guerrillas were physically separated from the source of their moral and physical support.
Above all, the war in Vietnam is not a spontaneous and local rebellion against the established government.
There are elements in the Communist program of conquest directed against South Vietnam common to each of the previous areas of aggression and subversion. But there is one fundamental difference. In Vietnam a Communist government has set out deliberately to conquer a sovereign people in a neighboring state. And to achieve its end, it has used every resource of its own government to carry out its carefully planned program of concealed aggression. North Vietnam's commitment to seize control of the South is no less total than was the commitment of the regime in North Korea in 1950. But knowing the consequences of the latter's undisguised attack, the planners in Hanoi have tried desperately to conceal their hand. They have failed and their aggression is as real as that of an invading army.
This report is a summary of the massive evidence of North Vietnamese aggression obtained by the Government of South Vietnam. This evidence has been jointly analyzed by South Vietnamese and American experts.
The evidence shows that the hard core of the Communist forces attacking South Vietnam were trained in the North and ordered into the South by Hanoi. It shows that the key leadership of the Vietcong (VC), the officers and much of the cadre, many of the technicians, political organizers, and propagandists have come from the North and operate under Hanoi's direction. It shows that the training of essential military personnel and their infiltration into the South is directed by the Military High Command in Hanoi. In recent months new types of weapons have been introduced in the VC army, for which all ammunition must come from outside sources. Communist China and other Communist states have been the prime suppliers of these weapons and ammunition, and they have been channeled primarily through North Vietnam.
The directing force behind the effort to conqueror South Vietnam is the Communist Party in the North, the Lao Dong (Workers) Party. As in every Communist state. the party is an integral part of the regime itself. North Vietnamese officials have expressed their firm determination to absorb South Vietnam into the Communist world.
Through its Central Committee, which controls the Government of the North, the Lao Dong Party directs the total political and military effort of the Vietcong. The Military High Command in the North trains the military men and sends them into South Vietnam. The Central Research Agency, North Vietnam's central intelligence organization, directs the elaborate espionage and subversion effort...
Under Hanoi's overall direction the Communists have established an extensive machine for carrying on the war within South Vietnam. The focal point is the Central Office for South Vietnam with its political and military subsections and other specialized agencies. A subordinate part of this Central Office is the liberation Front for South Vietnam. The front was formed at Hanoi's order in 1960. Its principle function is to influence opinion abroad and to create the false impression that the aggression in South Vietnam is an indigenous rebellion against the established Government.
For more than 10 years the people and the Government of South Vietnam, exercising the inherent right of self-defense, have fought back against these efforts to extend Communist power south across the 17th parallel. The United States has responded to the appeals of the Government of the Republic of Vietnam for help in this defense of the freedom and independence of its land and its people.
In 1961 the Department of State issued a report called A Threat to the Peace. It described North Vietnam's program to seize South Vietnam. The evidence in that report had been presented by the Government of the Republic of Vietnam to the International Control Commission (ICC). A special report by the ICC in June 1962 upheld the validity of that evidence. The Commission held that there was "sufficient evidence to show beyond reasonable doubt" that North Vietnam had sent arms and men into South Vietnam to carry out subversion with the aim of overthrowing the legal Government there. The ICC found the authorities in Hanoi in specific violation of four provisions of the Geneva Accords of 1954.
Since then, new and even more impressive evidence of Hanoi's aggression has accumulated. The Government of the United States believes that evidence should be presented to its own citizens and to the world. It is important for free men to know what has been happening in Vietnam, and how, and why. That is the purpose of this report...
The record is conclusive. It establishes beyond question that North Vietnam is carrying out a carefully conceived plan of aggression against the South. It shows that North Vietnam has intensified its efforts in the years since it was condemned by the International Control Commission. It proves that Hanoi continues to press its systematic program of armed aggression into South Vietnam. This aggression violates the United Nations Charter. It is directly contrary to the Geneva Accords of 1954 and of 1962 to which North Vietnam is a party. It is a fundamental threat to the freedom and security of South Vietnam.
The people of South Vietnam have chosen to resist this threat. At their request, the United States has taken its place beside them in their defensive struggle.
The United States seeks no territory, no military bases, no favored position. But we have learned the meaning of aggression elsewhere in the post-war world, and we have met it.
If peace can be restored in South Vietnam, the United States will be ready at once to reduce its military involvement. But it will not abandon friends who want to remain free. It will do what must be done to help them. The choice now between peace and continued and increasingly destructive conflict is one for the authorities in Hanoi to make.
Phụ-bản CTCT
Chiến-Sĩ Hải-Quân Trần-Hồng-Vân Truyện ngắn bằng tranh (sau khi phổ-biến rộng-răi, đă được dịch sang Anh-Ngữ như bản dưới đây).
HQVN noi gương Thánh-Tổ Trần-Hưng-Đạo cứu nước
Chương 4
Giai-Đoạn Bành-Trướng (1967-1972)
Năm 1967 Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà đi vào giai-đoạn bành-trướng v́ nhu-cầu tác-chiến gia-tăng trong khi quân-đội Hoa-kỳ và đồng-minh t́m cách rút chân ra khỏi Việt-Nam. - Tháng 5 năm 1967, lần đầu-tiên Giang-Lực được gửi đi hoạt-động ngoài khu-vực châu-thổ Nam-phần. Giang-Đoàn 32 Xung-Phong được mang ra Thuận-An, Thừa-Thiên để hoạt-động trong vùng hạ-lưu sông Hương và cũng để yểm-trợ cho Sư-Đoàn 1 Bộ-Binh.326 - Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà - với quân-số đang trên đà gia-tăng lên 36 ngàn Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-viên - là một lực-lượng Hải-Quân lớn vào hàng thứ 14 trên toàn thế-giới.
Hải-lộ của tàu xâm-nhập số 459. Sau 2 ngày bị theo-dơi, nếu Thuỷ-thủ CSBV có ư-thức trở về Bắc th́ đă thoát chết, khỏi hy-sinh vô-ích. Có lẽ v́ không biết lưới HQ Việt-Mỹ được bủa ra, tàu xâm-nhập trở vào Sa-Kỳ ngày thứ ba và bị tiêu-diệt. Hải-Lực nhận thêm 4 PGM: Hoàng-Sa HQ-616, Phú-Quí HQ-617, Ḥn-Tróc HQ-618, và Thổ-Châu HQ-619.327
Tuần-Duyên-Đĩnh Thổ-Châu HQ-619.
- Ngày 15 tháng 7 năm 1967, tàu số 459 của Cộng-Sản Bắc-Việt bị đánh đắm tại Cửa Sa-Kỳ. Trong khi bị theo-dơi ngoài khơi Mũi Ba-Làng-An, Quảng-Ngăi; chiếc tàu đă xoá số-hiệu thật của nó, thay bằng số 411 trong đêm 13 tháng 7. Khi bị chặn lại tra-xét, tàu xâm-nhập bắn trả chiến-hạm tuần-tiễu nên lập-tức bị hải-pháo Việt-Mỹ bắn cháy và nổ-tung. Tuy bị nổ-tung, nhưng trong số khoảng 90 tấn vũ-khí trên tàu, lực-lượng trục-vớt vẫn c̣n lấy được tới 1200 súng đủ loại và rất nhiều đạn-dược.328 - Một chiến-công nữa đáng đề-cập đến trong năm 1967 là trận đột-kích của Người-Nhái HQVNCH phối-hợp với HQHK vào mật-khu Ḥn-Hèo ngày 2 tháng 7 năm 1967. Chỉ có hai nhóm Người-Nhái dùng xuồng cao-su đổ-bộ từ ngoài khơi vào một vị-trí ở phía Tây của Núi Binh-Nhơn trên đảo Ḥn-Hèo, quân ta nhờ bất-ngờ đă bắn hạ được 2 Cán-bộ Cộng-Sản cấp Huyện-Ủy và bắt-sống hai tên khác. Nhờ tài-liệu tịch-thu được tại mật-khu này, Cơ-quan An-ninh đă phá tan được một loạt các cơ-sở nằm vùng của chúng tại Nha-Trang và Khánh-Hoà. Hoạt-động đặc-công Việt-Cộng suy-giảm hẳn trong vùng này. - Tại Vùng 1 Duyên-Hải (V1ZH), hoạt-động phối-hợp của HQVN và đồng-minh gây nhiều thất-bại cho địch. Quân Cộng-Sản cố-gắng phản-công. Một trong những khu-vực chúng cần kiểm-soát hoàn-toàn, đồng-thời cũng để lấy lại uy-thế với dân là vùng cửa sông Quảng-Ngăi. Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 8 năm 1967, hai Tiểu-Đoàn Việt-Cộng đồng-loạt tấn-công Duyên-Đoàn 16. Mục-đích của chúng là tiêu-diệt cứ-điểm quan-trọng này, nhưng chúng đă không thành-công hoàn-toàn. Tuy Duyên-Đoàn-Trưởng là HQ Trung-Úy Nguyễn-Ngọc-Thông bị tử-trận và căn-cứ bị địch tràn-ngập; chiến-hạm, chiến-đĩnh của ta cùng các đơn-vị bạn đă phản-công mau-chóng. Địch phải rút-lui sau ít giờ giao-tranh và quân ta tái-chiếm lại căn-cứ.329
Duyên-Đoàn 16 nằm về phía Nam của cửa Sông Trà-Khúc (Quảng-Ngăi).
Nới rộng Vùng Tuần-Dương Theo Đạo Dụ thành-lập Hải-Quân năm 1952 và các văn-kiện liên-hệ quy-định, nhiệm-vụ HQVN bao-gồm những công-tác canh-pḥng và kiểm-soát miền duyên-hải, hải-đảo cùng các thuỷ-lộ nội-địa. Với phương-tiện cơ-hữu nghèo-nàn, lại phải kiểm-soát an-ninh vùng duyên-hải dài hơn 1,200 cây-số, Hải-Quân Việt-Nam đă cố-gắng nhưng rơ-ràng là không có đủ khả-năng. Trong nỗ-lực trợ-giúp HQVN đủ khả-năng kiểm-soát duyên-hải, năm 1965, HQHK thành-lập Lực-Lượng Duyên-Pḥng mang số 115 -TASK FORCE 115. Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng - CTF-115 (Commander Task Force) này đồn-trú tại Cam-Ranh. Cuộc hành-quân tuần-tiễu Biển-Đông của Hải-Quân Mỹ và Hải-Quân VN phối-hợp được đặt tên là: Market Time. Lúc đầu, Hải-Quân VN đảm-trách tuần-tiễu cận-duyên (Inner Barriers). Hải-Quân Mỹ đảm-trách 8 vùng tuần-tiễu viễn-duyên (Outer Barriers). Các Chỉ-huy-Trưởng Vùng Duyên-Hải kiêm-nhiệm chức-vụ CHT Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm đảm-trách tuần-tiễu cận-duyên. Duyên-hải VNCH được chia thành 51 khu cận-duyên. Sau khi Cộng-Sản lợi-dụng khu-vực cảng Sihanoukville làm đầu-cầu xâm-nhập đường biển, Hải-Quân Việt-Mỹ quyết-định thiết-lập thêm 1 vùng viễn-duyên thứ 9 tại khu-vực phía Tây V4DH vào đầu năm 1970. Có thêm 3 khu cận-duyên bên trong vùng viễn-duyên này được thành-lập thêm cho phù-hợp. Việc phân-chia 9 vùng viễn-duyên và 54 khu cận-duyên tiếp-tục từ 1970 đến 1975.
Ông Hoàng Sihanouk và Hoàng-Hậu cùng tướng-lănh Cộng-Sản Việt-Nam đi thăm “đường ṃn Hồ-Chí-Minh” khi hai bên thoả-thuận việc sử-dụng Sihanoukville làm đầu-cầu xâm-nhập đường biển vào VNCH.
Huy-hiệu Hành-quân Tuần-tiễu Biển-Đông Market Time.
Mạng-lưới Kiểm-soát Duyên-Hải VNCH với 9 Vùng Viễn-Duyên và các Vùng Cận-Duyên phụ-thuộc.
Khu-vực Cảng Sihanoukville với một số chi-tiết hải-hành vào cảng như độ sâu đáy biển.
Cao-điểm của các Giang-Đoàn Xung-Phong Khởi đi từ mấy chiếc tiểu-đĩnh nhỏ-bé cũ-kỹ vào tháng 4 năm 1953, các Giang-Đoàn Xung-Phong lớn mạnh đến mức tối-đa sau 15 năm hoạt-động. Vào đầu năm 1968, tổng-số lên tới 13 Giang-Đoàn. Ngoài 12 Giang-Đoàn hoạt-động tại Nam-phần, một Giang-Đoàn ở Trung-phần. Đó là Giang-Đoàn 32 XP, lúc thành-lập dự-trù đi cặp với GĐ 26XP tại Long-Xuyên, v́ nhu-cầu hành-quân nên hoạt-động biệt-lập với các Giang-Đoàn Xung-phong bạn khác. Tuy các Giang-Đoàn cũng hay di-chuyển nhiều nơi, nhưng những căn-cứ chính đóng tại các địa-điểm sau: GĐ21XP đồn-trú tại Mỹ-Tho GĐ22XP đồn-trú tại Nhà-Bè, gần Sài-G̣n GĐ23XP đồn-trú tại Vĩnh-Long GĐ24XP đồn-trú tại Tân-An GĐ25XP đồn-trú tại Cần-Thơ GĐ26XP đồn-trú tại Long-Xuyên GĐ27XP đồn-trú tại Sài-G̣n, Mỹ-Tho và Lưu-động GĐ28XP đồn-trú tại Sài-G̣n GĐ29XP đồn-trú tại Cần-Thơ GĐ30XP đồn-trú tại Sài-G̣n GĐ31XP đồn-trú tại Vĩnh-Long GĐ32XP đồn-trú tại Thừa-Thiên GĐ33XP đồn-trú tại Mỹ-Tho. Vai-tṛ "độc-diễn" của Giang-Đoàn Xung-phong mờ-nhạt một phần khi các Lực-Lượng mới với những Giang-đĩnh tối-tân hơn xuất-hiện và tham-chiến. Các Tiểu-Giáp-Đĩnh TCAN/FOM của GĐXP danh-tiếng thời xưa đă quá già-nua. Thay-thế cho nó là loại Tuần-Giang-Đĩnh RPC, tuy chạy nhanh hơn nhưng không thích-hợp khi tác-chiến trong các kinh-rạch nhỏ-bé khắp nơi.
Tuần-Giang-Đĩnh RPC trang-bị 2 máy chánh, tuy chạy nhanh nhưng vỏ quá mỏng. Kiến-trúc không thích-hợp khi hoạt-động trong các kinh-rạch nhỏ.
Nhu-cầu mới: Giang-Đĩnh có Vận-tốc cao Nhu-cầu chiến-trường đ̣i-hỏi những giang-đĩnh có vận-tốc cao mà các giang-đĩnh Việt-Nam lúc đó, theo các cơ-quan T́nh-báo Mỹ th́ di-chuyển quá chậm-chạp.330
Giang-Tốc-Đĩnh PBR (Patrol Boat River) được xem là loại chiến-đĩnh rất hữu-hiệu trong việc tuần-giang. (Tranh vẽ của Hoạ-Sĩ Vũ-Khai-Cơ - Úc-Châu).
Miền Nam Việt-Nam (Vùng 3 và 4 Sông-Ng̣i) có hệ-thống kinh-rạch dài 5,555Km (khoảng 3,000 hải-lư - Nautical Miles) chằng-chịt như mạng nhện, nên việc tổ-chức các cuộc tuần-tiễu ngăn-chặn, phục-kích hay hành-quân truy-lùng tiêu-diệt địch hết sức phức-tạp. Hoạt-động mang tính-chất đặc-thù của một Hải-Quân Nước Nâu (Brown-Water-Navy). Chính Đại-Tá Burton B. Witham, Tư-Lệnh Lực-Lượng Đặc-nhiệm 116 Hải-Quân Hoa-Kỳ cũng đă thừa-nhận những khó-khăn trở-ngại mà họ đă vấp phải khi thi-hành nhiệm-vụ trên "địa-h́nh bát-quái" (Eight sign terrain) này. Theo Witham, giang-đĩnh thích-nghi phải là loại có tốc-độ cao, vận-chuyển xoay đầu 180 độ dễ-dàng trong kinh-rạch chật-hẹp, và hoả-lực thực hùng-hậu trấn-áp được đối-phương để vượt qua thuỷ-tŕnh quá nhỏ mỗi khi bị phục-kích. Riêng tại vùng biên-giới Việt-Miên tỉnh Châu-Đốc, Giang-Tốc-Đĩnh PBR (Patrol Boat River) được xem là thích-ứng nhất cho việc tuần-tiễu.331
Cuộc hành-quân đổ-bộ Deck House V/Sóng Thần Vào tháng 1/67, Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam có dịp hoạt-động phối-hợp với Hải-Quân Hoa-Kỳ trong cuộc hành-quân Deckhouse V/Sóng-Thần tại Mật-khu Thạnh-Phong, Cù-lao Thạnh-Phú thuộc tỉnh Kiến-Hoà. Tổ-chức Lực-Lượng của Chiến-Đoàn B Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam gồm có: * Bộ Chỉ-Huy Chiến-Đoàn: Chiến-Đoàn-Trưởng, Trung-Tá Tôn-Thất-Soạn. * 3 Tiểu-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến gồm: - Tiểu-Đoàn 3 Thuỷ-Quân Lục-Chiến: Tiểu-Đoàn-Trưởng, Thiếu-Tá Nguyễn-Thế-Lương - Tiểu-Đoàn 4 Thuỷ-Quân Lục-Chiến: Tiểu-Đoàn-Trưởng, Thiếu-Tá Nguyễn-Thành-Trí - Tiểu-Đoàn 6 Thuỷ-Quân Lục-Chiến: Tiểu-Đoàn-Trưởng, Thiếu-Tá Phạm-Văn-Chung. * Một pháo-đội 105 ly.332 Lực-Lượng Đặc-nhiệm Thuỷ-Bộ của Hải-Quân Hoa-Kỳ đă cung-cấp tàu để chuyển quân, từ vùng tập-trung Vũng-Tàu đến vùng đổ-bộ Kiến-Hoà. Đơn-vị Thuỷ-xa của Thuỷ-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ chở các Đại-đội Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam tiến-chiếm các băi đổ-bộ làm đầu-cầu. Trực-thăng của Thuỷ-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ trực-thăng-vận đến các mục-tiêu vào sâu trong đất liền. Hải-pháo và phi-pháo yểm-trợ khi cần.
H́nh-ảnh quen-thuộc của một cuộc đổ-bộ Thuỷ-Xa TQLC
Vùng hành-quân của Chiến-Đoàn B Thuỷ-Quân Lục-Chiến: Mật-khu Thạnh-Phong, Cù-lao Thạnh-Phú thuộc tỉnh Kiến-Hoà nằm trong lănh-thổ Quân-Đoàn 4, Quân-Khu 4. Đây là một vùng śnh-lầy ngập-nước, sông-rạch chằng-chịt, dân-cư thưa-thớt. Lợi-dụng địa-thế hiểm-trở, Việt-cộng đă lập các Công-binh-xưởng, căn-cứ hậu-cần, và địa-điểm trú quân cho các đơn-vị của chúng. V́ địa-thế hiểm-trở và không đủ phương-tiện yểm-trợ nên Vùng 4 ít khi tổ-chức hành-quân vào mật-khu Thạnh-Phong này. Tuy cuộc hành-quân không mang lại chiến-thắng lớn hoặc thành-quả quân-sự nào đáng kể v́ không đụng lực-lượng Cộng-Quân, nhưng nó đă nổi-bật với những yếu-tố sau đây: 1. Trong cuộc chiến-tranh Việt-Nam, đây là một cuộc hành-quân đổ-bộ duy-nhất của một Chiến-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam với đầy-đủ tầm-vóc, chuyên-môn, hiện-đại của một binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến. 2. Các cấp chỉ-huy hành-quân và tham-mưu có dịp phối-hợp hành-quân soạn-thảo kế-hoạch đổ-bộ thật-sự và có tầm-vóc quốc-tế. 3. Các quân-nhân của những Tiểu-Đoàn tác-chiến có cơ-hội học-hỏi được nhiều điều bổ-ích về sinh-hoạt cũng như về chuyên-môn của Binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến như leo lưới, đổ-bộ trên các loại tàu tối-tân. Sĩ-Quan các cấp có được khái-niệm về hành-quân Thuỷ-bộ thật sự. 4. Chứng tỏ cho địch biết rằng, không có địa-thế nào là "bất-khả xâm-phạm" đối với đoàn quân lưỡng-thế và tinh-nhuệ như chúng ta - Binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam.333
Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam cũng đă có dịp hoạt-động phối-hợp với Tiềm-Thuỷ-Đĩnh Hoa-Kỳ trong một cuộc hành-quân năm 1966.334
Thanh-Thư Tàu-thuyền Cận-Duyên Một số công-tác điều-nghiên trước hết dùng cho quân-sự, nhưng lại rất hữu-ích cho những nhà khảo-cứu về khảo-cổ, văn-hoá, hàng-hải sau này. Nhờ ngân-khoản và phương-tiện dồi-dào của quân-đội Việt-Mỹ nói chung, Hải-Quân nói riêng, các quân-nhân Hải-Quân phối-hợp với Pḥng Thí-Nghiệm Columbus và Trung-Tâm Phát-Triển Khả-Năng Tác-Chiến đă thống-kê được nhiều dữ-kiện về các tàu-thuyền cận-duyên của Miền-Nam Việt-Nam. Công-tác liên-hệ đến hàng trăm người kể cả quân-nhân lẫn dân-sự mang lại kết-quả là sự ra đời của hai cuốn sách có uy-tín và quen thuộc với Hải-Quân và các giới hàng-hải VNCH vào hai thập-niên 1960 & 1970: - Hải-Thuyền Thanh-Thư (Junk Blue Book: A Handdbook of Junks of South Vietnam). Cuốn sách này phát-hành năm 1963, nhỏ hơn cuốn thứ hai (phát-hành năm 1967), nghiêng nhiều về khía-cạnh khảo-cổ hàng-hải khi bàn đến những đặc-điểm văn-hoá như truyền-thống, nguồn-gốc và sự tiến-hoá của ghe-thuyền Việt-Nam.335 Các soạn-thảo-viên của "Advanced Research Project Agency" đặc-biệt lưu-ư đến sự phát-sinh loại thuyền nhiều thân Outrigger. Theo đó, Outrigger là những thân phụ nằm bên ngoài phần thân thuyền chính-yếu. Chúng tác-dụng như những phao nổi làm tăng thêm sự bền-vững cho thuyền, tránh cho thuyền khỏi lật úp. Ngày nay ta không thấy loại ghe-thuyền hai, ba thân ở Việt-Nam; nhưng những nhà nghiên-cứu này cho biết là dân Việt-Nam ta ngày xưa đă có sử-dụng (báo-cáo của Advanced Research Project Agency, 1962, trang A - 1-5.) Theo đó mà suy-diễn, kỹ-thuật hàng-hải Việt-Nam thời-cổ đă có ảnh-hưởng lan-tràn qua cả Đại-Dương-Châu, vượt qua hai đại-dương Thái-B́nh sang Mỹ-Châu và Ấn-Độ sang vùng Cận Đông. - Thanh-Thư về Tàu-thuyền Cận-Duyên Miền-Nam Việt-Nam, Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam (Remote Area Conflict Information Center, Columbus, Ohio, 1967.) Cuốn sách khổ lớn này là tài-liệu chính-yếu để Hải-Quân Việt-Nam nhận dạng ghe-thuyền địa-phương hay xâm-nhập. Một số tài-liệu quư-giá về thuyền-bè trong thập-niên 1960 được ghi chép lại như sau: - Tài-liệu kỹ-thuật, vật-liệu, thời-gian và phí-tổn đóng thuyền. - Cách-thức bảo-tŕ thuyền-bè và dụng-cụ hàng-hải, ngư-nghiệp. - Các loại cá và ngư-trường.
Một trang quan-trọng của cuốn sách “Hải-Thuyền Thanh-Thư” (Junk Blue Book: A Handbook of Junks of South Vietnam).
Neo Tuổi Vàng, Thi-phẩm của tuổi Trưởng-thành. Trong giai-đoạn này, ngoài việc nghiên-cứu, cũng nên nói về hoạt-động văn-hoá. Hải-Quân VNCH có nhiều văn, thi, nhạc-sĩ sáng-tác đủ mọi cấp-bậc, từ cấp Thuỷ-thủ như Anh-Thi, cho đến cấp Tư-Lệnh Vùng Duyên-Hải. Người trẻ-tuổi ca-tụng t́nh-yêu say-đắm, người trưởng-thành trân-quư đoạn đời vàng-ngọc, thông-hiểu thêm nhiều điều lư-tưởng cao-quư hơn trong lẽ sống hải-hồ. Tập thơ "Neo Tuổi Vàng"336 ra đời, đánh dấu đỉnh cao thi-tài của thi-sĩ Hữu-Phương, tức HQ Trung-Tá Nguyễn-Hữu-Chí337. Ông làm thơ từ lúc c̣n là sinh-viên và đây là tác-phẩm được xuất-bản khi Ông đang nắm quyền chỉ-huy Hải-Quân cả một vùng biển rộng-lớn trong Vịnh Thái-Lan. Trước đây, những người yêu thơ Ông cũng đă t́m thấy nỗi-niềm tâm-sự của một người Lính Biển qua các tập thơ Tâm-Sự Người Đi-Biển, Luống-Biển.
Nguyễn-Hữu-Chí tức Hữu-Phương không những làm thơ, c̣n làm nhạc. Ông chính là tác-giả của “Hải-quân Hành-Khúc” rất quen-thuộc của HQVNCH338. H́nh vẽ chân-dung của Ông trong quân-phục Phó-Đề-Đốc (1973).
Năm 1968 Vào đầu năm 1968, Cộng-Sản Việt-Nam339 mở cuộc Tổng-Công-Kích - Tổng-Khởi-Nghĩa trên khắp lănh-thổ của Việt-Nam Cộng-Hoà trong ngày Tết Nguyên-đán năm Mậu-Thân 1968.340 Như nhiều nhà nghiên-cứu khách-quan, James Wirtz thấy rằng quân-đội Hoa-Kỳ hoàn-toàn bị bất-ngờ và ngành T́nh-Báo của họ thất-bại lớn.341 Trong khi đó, theo các tài-liệu của Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH và của Sử-gia Phạm-Văn-Sơn th́ một số đơn-vị Quân-lực VNCH tại địa-phương đă nhận ra sự điều-động của quân Cộng-Sản, nên có đề-pḥng. Nhờ những biện-pháp đề-pḥng tại chỗ như vậy mà địch-quân không hoàn-toàn thi-hành được việc tổng-tấn-công, nhiều ít góp công giữ vững Miền-Nam Tự-Do. Hải-Quân bảo-toàn lực-lượng, không bị thiệt-hại ǵ đáng kể, lại c̣n yểm-trợ đắc-lực quân bạn tái-chiếm nhiều vị-trí quan-trọng... Đại-Tướng Westmoreland, Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Việt-Nam đă nói một câu có ư-nghĩa: “Hải-Quân đă cứu-nguy toàn vùng Châu-thổ Cửu-Long-Giang.” Các Giang-Đoàn 21XP, 23XP trở-thành những đơn-vị giang-lực đầu-tiên của HQVNCH được tuyên-công đơn-vị đồng-minh US Navy Unit Commendation của Hoa-Kỳ342.
Giữa những ngày Tết Mậu-Thân1968, Miền-Nam VN ch́m trong biển lửa, nhà cháy, cầu găy, người chết ?! Thử hỏi có con “Chim Hoà-B́nh” Cộng-Sản (xâm-lăng) nào trong chiếc tem Tổng-Tiến-Công Tết Mậu-Thân 1968 hay không?
Trận chiến Mậu-Thân ác-liệt nhất diễn ra tại Huế. Cộng-Sản Việt-Nam chiếm một phần thành-phố Huế, tàn-sát dă-man hơn 5,000 đồng-bào trong những ngày Xuân 1968. Nạn-nhân bị đập bể sọ, bị chôn sống tập-thể. Thân-nhân của họ không nhận-dạng được thi-hài nên đành mai-táng chung cùng lúc.
Các dăy quan-tài của những nạn-nhân bị quân Cộng-sản thảm sát trong cuộc tiến-công Tết Mậu-Thân (1968) vào cố-đô Huế.
Kể từ tháng 2 năm 1968, công-tác huấn-luyện chính của HQVNCH được phối-trí lại, giao-phó cho 3 trung-tâm: - Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang chuyên đào-tạo Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan. - Trung-Tâm Huấn-Luyện Cam-Ranh huấn-luyện căn-bản quân-sự và đào-tạo Thuỷ-thủ. - Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc Sài-G̣n có trường Huấn-luyện Ngoài Khơi và các lớp trau-dồi thêm về kỹ-thuật cũng như kiến-thức chuyên-môn. Qua năm sau, Trung-Tâm này đổi tên thành Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Sài-G̣n gồm thêm các khoá Chỉ-Huy Tham-Mưu Trung-Cấp, Sĩ-Quan Đoàn-Viên, Hạ-Sĩ I Chuyên-Nghiệp, Trường Huấn-Luyện Ngoài-Khơi, các khoá Sĩ-quan OCS343 (phần huấn-luyện căn-bản ở Việt-Nam), vv...”
Các tân khoá-sinh tŕnh-diện tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Cam-Ranh để được đào-tạo thành Thuỷ-thủ.
Tháng 3, để tăng-cường cho Hải-Quân Việt-Nam, Đồng-minh Hoa-kỳ gửi 10 Quân-Vận-Đĩnh ATC, 3 Tiền-Phong-Đĩnh Monitor và 1 Soái-Đĩnh Thuỷ-bộ đến hoạt-động tại Vùng 1 Duyên-Hải. Tháng 6, Giang-Lực nhận nhiều Giang-Tốc-Đĩnh PBR (River Boat, Patrol) theo tinh-thần viện-trợ của chương-tŕnh MAP (Military Assistance Program).
PBR MK I
PBR MK II
Vào Tết Mậu-Thân, bất-kể thoả-ước ngưng bắn, Cộng-Sản đồng-loạt tấn-công khắp nơi.
Đầu năm 1968, các Trung-tâm Kiểm-Soát Duyên-Hải theo-dơi 5 chiếc tàu xâm-nhập loại SL của CSBV. Đây là không-ảnh chụp một trong những chiếc tàu này. Sau đó, HQVN và Đồng-minh đánh ch́m tàu đó tại Ḥn-Hèo Nha-Trang.
Tướng 3 sao đầu-tiên của HQHK tại Việt-Nam Ngày 30 tháng 9 năm 1968, Phó-Đô-Đốc Elmo R. Zumwalt, Jr. nhận quyền Tư-Lệnh Lực-Lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam344(COMNAFORV). Chỉ một tháng sau đó vào ngày 2 tháng 11, Zumwalt đại-diện HQHK cùng với đại-diện Không-Quân Hoa-Kỳ (KQHK) tại Việt-Nam hội-họp với Đại-Tướng Creighton Abrams, Tư-Lệnh Lực-Lượng Hoa-Kỳ tại Việt-Nam (U.S. Military Assistance Command, Vietnam - USMACV) về chương-tŕnh "Việt-Nam-hoá chiến-tranh" (Accelerated Turnover to the Vietnamese - ACTOV)345. Theo lịch-tŕnh, Hải-Quân Hoa-kỳ sẽ từ-từ rút quân ra, chuyển-nhượng lại cho Hải-Quân Việt-Nam 500 chiến-hạm và chiến-đĩnh đủ loại. Song-song với việc bàn-giao chiến-hạm, chiến-đĩnh, tất cả các Căn-cứ Hành-quân và Tiền-Doanh Yểm-Trợ của Hải-Quân Hoa-Kỳ cũng được bàn-giao cho Hải-Quân Việt-Nam theo tinh-thần chương-tŕnh ACTOVLOG346 (Accelerated Turnover of Logistics to Vietnam: Chuyển-Giao Cấp-Tốc về Tiếp-Vận cho Việt-Nam). Theo Thomas J. Cutler, buổi họp USMACV ngày 2-11-1968 bắt đầu căng-thẳng khi Không-quân Mỹ thuyết-tŕnh việc chuyển-giao. Một Đại-Tá KQHK đưa ra các biểu-đồ, thống-kê, và kết-luận là chương-tŕnh của Không-quân sẽ hoàn-tất vào năm… 1976. Trong khi nghe như vậy, Zumwalt cùng người phụ-tá vội-vă sửa-chữa lại bản báo-cáo, gạc-bỏ hết mấy chữ có vẻ "vơ-đoán" như dự-trù, có thể... Khi được mời lên thuyết-tŕnh, Phó-Đô-Đốc Zumwalt c̣n hứa gia-tốc kế-hoạch bàn-giao và ước-định luôn cả hạn-kỳ hoàn-tất là ngày 30 tháng 6 năm 1970. Các điều Zumwalt đưa ra không những đúng với những ước-muốn của Tướng Abrams347, mà c̣n thực-sự ăn-khớp với kế-hoạch chung của Chính-quyền Mỹ. Khi đó v́ áp-lực của phe phản-chiến, chính-phủ Mỹ phải tính-toán để làm sao rút chân ra khỏi Việt-Nam càng sớm càng tốt.
H́nh Elmo R. Zumwalt, Jr. khi mang cấp-bậc Đô-Đốc và làm TL/HQHK.
Chiến-dịch SEALORDS và First Sealord Khi Zumwalt qua Việt-Nam th́ t́nh-trạng của Việt-Cộng đă suy-yếu sau Tết Mậu-Thân 1968. Thảm-bại nặng-nề nhất là tất cả cơ-sở hạ-tầng của Cộng-Sản, v́ kế-hoạch Tổng-tấn-công sai-lầm mà bị lộ-diện và bị Việt-Nam Cộng-hoà tiêu-diệt hết.348 C̣n về Hải-Quân Mỹ, quân-số vừa lên đến mức tối-đa. Các lực-lượng của họ đă gặt-hái được nhiều kinh-nghiệm chiến-trường nên đang hoạt-động một cách đều-đặn và hữu-hiệu. Lúc đó Hải-Quân Hoa-Kỳ có 38,386 quân-nhân tại Việt-Nam. Ngoài Zumwalt c̣n có 3 vị Đề-Đốc 2 sao là Tư-Lệnh-Phó NAVFORV, Chỉ-Huy-Trưởng Tiếp-Vận Đà-Nẵng HQHK và Chỉ-Huy-Trưởng Lực-Lượng Công-binh Kiến-tạo Hải-Quân HK. Elmo R. Zumwalt từng được nổi tiếng là một Phó-Đô-Đốc trẻ có nhiều ư-kiến rất tiến-bộ. Khi Zumwalt nhận quyền chỉ-huy th́ gặp một Tư-Lệnh Lực-Lượng dưới quyền Ông là Đại-Tá Robert S. Salzer sắp đáo-hạn hồi-hương. Salzer là một Sĩ-Quan ưu-tú có kinh-nghiệm chiến-trường Việt-Nam, sau khi thuyết-tŕnh cho Zumwalt biết t́nh-h́nh đă đưa ra một chiến-thuật mới. Salzer cho rằng thật là vô-ích và phí-phạm tiềm-năng tác-chiến nếu HQHK cứ tiếp-tục chiến-thuật “Truy-lùng và Tiêu-diệt” địch-quân (Search and Destroy). Trong những điều-kiện thuận-lợi đang có sẵn trong tay, tại sao Hải-Quân lại không tạo áp-lực buộc Việt-Cộng phải bỏ mật-khu mà lộ-diện để bị tiêu-diệt. Zumwalt thắc-mắc hỏi tại-sao địch-quân lại chạy ra trước (mũi súng của) ta. Câu trả lời của Salzer rất khẳng-định là “Cộng-Sản chỉ sống nhờ nguồn tiếp-vận từ ngoại-biên đem vào. Thay v́ dùng Lực-Lượng mạnh Hành-Quân lớn từng giai-đoạn một, nay Hải-Quân nên dùng những đơn-vị nhỏ chặn-đứng ngay yết-hầu của địch, nơi có những tuyến đường tiếp-tế quân-dụng từ Kampuchea đưa sang.349 Khi ngộp thở v́ thiếu-thốn tiếp-liệu, tất chúng sẽ phải tập-trung lực-lượng lại để phản-ứng. Đây là lúc Hải-Quân ra tay, nắm thế chủ-động. Lực-Lượng cơ-hữu của ta sẵn-sàng, sẽ tiêu-diệt chúng dễ-dàng mà khỏi mất công đi t́m-kiếm hay truy-lùng địch.” Zumwalt và Bộ Tham-Mưu nghiên-cứu kế-hoạch đó trong vài ngày và danh-từ SEALORDS (Southeast Asia, Lake, Ocean, River, Delta Strategy) ra đời. Zumwalt lại yêu-cầu Salzer cho thêm chi-tiết và kế-hoạch này mau-chóng được chấp-thuận. Salzer nhận cái vinh-dự được bổ-nhiệm làm First Sea Lord350. Lúc đó, Hải-Quân Hoa-Kỳ đang có 3 Lực-lượng Đặc-Nhiệm (Task Force - TF) là: - TF 115 Market Time gồm có 26 Tuần-duyên-đĩnh WPB và 81 Duyên-tốc-đĩnh PCF. - TF 116 Game Warden gồm có 197 Giang-tốc-đĩnh PBR. - TF 117 Mobile Riverine Assault Force gồm có 161 chiến-đĩnh có giáp sắt (armored river crafts – c̣n gọi là giang-đĩnh thuỷ-bộ).
\ Zumwalt và Salzer đàm-đạo trên phi-cơ năm 1971.
Một bích-chương nói về hoạt-động của Lực-Lượng Thuỷ-bộ HQHK hay c̣n gọi là Lực-Lượng Lưu-Động Sông-Ng̣i MRF (Mobile Riverine Force).
Để thi-hành kế-hoạch, Salzer được phép điều-động một số phương-tiện do các Lực-Lượng biệt-phái để hành-quân dọc biên-giới Việt-Miên. Tại đây, hàng tháng có khoảng 175 đến 200 tấn quân-dụng được Việt-Cộng chuyển-vận từ Kampuchea sang cho quân-đội của chúng đang hoạt-động tại các vùng Quân-Đoàn 3 và Quân-Đoàn 4.
Sau khi nghiên-cứu những tuyến đường tiếp-tế quân-dụng của địch (h́nh trái), Salzer đề-nghị dùng những đơn-vị nhỏ tuần-tiễu cắt ngang, chặn-đứng ngay yết-hầu của địch. Chiến-dịch SALORDS là tập-họp những cuộc hành-quân đó (h́nh phải).
Một số LCPL (Landing Craft, Personnel) được gửi tới Nhà-Bè, một số ra V1ZH (H́nh trên là một chiếc LCPL đang giang-tuần trên sông Cửa Việt). Các Chiến-Đĩnh này sau đó đều được thay-thế bằng Giang-Tốc-Đĩnh PBR có vận-tốc cao hơn.
Phối-trí của LLĐN “Tuần-Thám” TF 116 Game Warden trước khi có Chiến-dịch Sealords (Căn-cứ bờ, LST – LCP - PBR – Trực-thăng UH-1…)
Số chiến-đĩnh lấy ra từ các Lực-Lượng để tham-dự Chiến-dịch Sealords không nhiều nên không làm suy-yếu các Lực-Lượng cơ-hữu của Mỹ bao-nhiêu, mà kết-quả Hành-quân thấy rơ-ràng hữu-hiệu. Vào tháng 10 năm 1969, một năm sau khi Sealords khởi-sự, báo-cáo của HQHK cho hay Cộng-quân trong vùng đồng-bằng sông Cửu-Long phải gánh chịu áp-lực nặng-nề. Các thuỷ-lộ vùng biên-giới được Hải-Quân Việt-Mỹ tuần-tra hữu-hiệu, Những kế-hoạch tiếp-tế quân-cụ và di-chuyển nhân-viên của địch từ Cambodia sang Việt-Nam bị ngăn-chặn hay làm chậm-trễ đáng kể. Việt-Cộng cũng bị những cuộc đột-kích bất-ngờ vào tận căn-cứ mà trước đây chúng tưởng là an-toàn. Cộng-quân hiển-nhiên đă rơi vào thế bị-động. Lực-lượng ta tịch-thu hay phá-huỷ 500 tấn vũ-khí, đạn-dược, thực-phẩm, thuốc-men; 3,000 Cộng-quân bị giết, 300 bị bắt sống. Nhờ nắm hoàn-toàn thế chủ-động, lực-lượng Việt-Mỹ chỉ có 186 hy-sinh và 1,451 bị thương.
Chiến-dịch Sealords khởi-sự với mục-đích ngăn-chặn Cộng-quân xâm-nhập từ Cambodge qua biên-giới. Địa-bàn hoạt-động mở rộng ra nhiều cuộc hành-quân khắp vùng đồng-bằng sông Cửu-Long, sông Đồng-Nai và cả ở V1ZH.
Địa-bàn hoạt-động Sealords tại Vùng 1 Duyên-Hải.
Một số dụng-cụ tác-chiến điện-tử
Máy Ngắm ban đêm Starlighter được gắn cả trên súng cá-nhân, giúp xạ-thủ tác-xạ chính-xác giữa đêm tối.
Với trang-cụ đầy-đủ, Giang-Tốc-Đĩnh phục-kích và tuần-tiễu đêm rất hữu-hiệu.
Trong phần Phụ-bản cuối cuốn sách này, chúng tôi cung-cấp những đặc-tính quan-yếu của các chiến-hạm và chiến-đĩnh chính của HQVNCH để làm tài-liệu cho những cuộc nghiên-cứu tương-lai.
Các Chiến-Đĩnh mới có vận-tốc rất cao.
Quân-nhân Giang-Lực rất thích loại giang-đĩnh có vận-tốc cao và đặc-biệt là khả-năng “quay tại chỗ 180 độ” của Giang-tốc-đĩnh PBR.
Kế-hoạch tăng thêm Sĩ-Quan cho Hải-Quân Như đă tŕnh-bày từ những chương trên, Đoàn-Viên Hải-Quân ngay khi được tuyển-lựa đă là những người có tŕnh-độ học-vấn cao. Sinh-hoạt trong một môi-trường học-thức, cầu-tiến, nặng kỹ-thuật; người có Trung-Học cố lấy bằng Tú-tài, người có bằng Tú-tài mong đoạt được Cử-nhân. Một số Đoàn-Viên có đủ điều-kiện đă xin nhập-học các khoá Sĩ-Quan tại Trường Bộ-Binh Thủ-Đức. Sau khi măn-khoá với cấp-bậc Chuẩn-Úy, thông-thường họ sẽ phục-vụ trong Lục-Quân. V́ thấy đây là một thất-thoát nhân-lực đáng kể, BTL/HQ đă tŕnh Bộ Tổng-Tham-Mưu và được chấp-thuận để Hải-Quân tổ-chức các khoá Sĩ-Quan Đoàn-Viên. Mục-đích của các khoá này là huấn-luyện các khoá-sinh có đủ khả-năng căn-bản của một Sĩ-Quan Hải-Quân, kể cả việc đương-phiên hải-hành trên các chiến-hạm. Bốn khoá đă được đào-luyện trong khoảng từ năm 1968 đến 1972, với các chi-tiết sau đây: - Thời-gian huấn-luyện mỗi khoá: 6 tháng, - Địa-điểm huấn-luyện: Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân, Sài-G̣n, - Điều-kiện nhập-học: cấp-bậc từ Trung-Sĩ Nhất trở lên, có bằng Trung-học Đệ-Nhất-cấp, riêng các Thượng-Sĩ Nhất nếu có bằng Cao-đẳng Chuyên-Nghiệp có thể được miễn bằng THĐNC. - Sĩ số mỗi khoá: 60 - Các môn học chính: Lănh-đạo chỉ-huy, Tổ-chức Hải-Quân, Hàng-hải, Vận-chuyển, Truyền-tin, Trọng-pháo, Cơ-khí, Điện-khí, Pḥng-tai. Tính tới tháng 4 - 1975, cấp-bậc cao nhất của các vị SQĐV này là Đại-Úy. Các khoá đào-luyện SQĐV này tỏ ra rất hữu-ích cho Hải-Quân v́ ít nhất đă đáp-ứng được các nhu-cầu quan-trọng sau đây: 1. Bảo-toàn nhân-lực cho Hải-Quân nhờ giữ được các nhân-viên có khả-năng cao, giầu kinh-nghiệm và có hạnh-kiểm tốt. 2. Thoả-măn được nhu-cầu tiến thân của các nhân-viên tốt, nhờ đó nâng cao tinh-thần của toàn-thể nhân-viên.351 Bản Nhạc Hoa Biển Một hiện-tượng văn-hoá rất đáng nói trong năm 1968 là tác-phẩm “Hoa Biển” của Nhạc-Sĩ Anh-Thy352. Bản nhạc là bức thư t́nh của người lính thuỷ ngoài biển-khơi gửi về người yêu chờ-đợi, nhắn nàng đừng buồn khi xa-cách. Mối t́nh của họ dạt-dào tựa trùng-dương nổi-sóng, trắng-xoá như hoa đại-dương.
Bản nhạc Hoa Biển phát-hành đầu năm 1968
Thông thường lời ca353 của bản nhạc chỉ là những điệp-khúc ngắn-ngủi khó diễn-tả được t́nh-cảm đầy-đủ như một bài văn hay một cuốn tiểu-thuyết. Tuy thế, lời nhạc của Hoa Biển là những ư-thơ lăng-mạn trữ-t́nh, tuôn-trào theo ngọn nước dâng tràn, dồn-dập như những cơn sóng biển, lớp sau đùa lớp trước. Các điệp-khúc qua tài sáng-tạo của Anh-Thy, đă nói lên được nỗi ḷng của những chàng thuỷ-thủ trẻ tuổi đang lúc săn-đuổi quân thù mà ḷng vẫn nhớ về người t́nh yêu-dấu. Bản nhạc thai-nghén trong những ngày sau Tết Mậu-Thân, đang lúc quê-hương ngập ch́m khói lửa. Khi lưu-trại, súng trên vai pḥng-thủ căn-cứ, người nghệ-sĩ đă suy-tưởng không những đến bạn-bè áo trắng ngoài đại-dương sóng gió, mà cả đến những người yêu nhỏ-bé của họ sinh-sống nơi phố-thị an-toàn. Giặc-thù Miền-Bắc đă gửi toàn-lực tấn-công trên bờ, nay lại mang hàng chục chiếc tàu xâm-nhập để tiếp-tế cho đồng bọn “Giải-Phóng Miền-Nam”. Mối chờ mong người t́nh đang mịt-mù sương-gió ngăn-thù giữ nước ngoài góc-biển chân-trời, sao mà tha-thiết như vậy! Bản nhạc Hoa Biển phát-hành đầu năm 1968, được bán hết rất nhanh. Không những ca-sĩ chuyên-nghiệp tŕnh-diễn mà cả các người lính cũng ngâm-nga. Rồi một lần tái-bản được tung ra ngay trong mùa Hải-Quân mừng chiến-thắng thuỷ-táng 3 tàu địch. Người nhạc-sĩ Hải-Quân vô-danh một sớm một chiều đă nổi tiếng như cồn trên đài danh-vọng.354
Đời sống khó-khăn khi đồng Dollar và người Mỹ vào Việt-Nam Chiến-tranh làm đời sống vật-chất trở nên khó-khăn, đặc-biệt cho những quân-nhân có gia-đ́nh. Trong khi Cộng-quân nỗ-lực phá-hoại kinh-tế làm người dân khốn-khổ, đồng Dollar theo chân người Mỹ vào Việt-Nam lại làm suy-giảm nặng-nề giá-trị của tiền-tệ Việt-Nam. Mặc-dù tiền lương tăng dần-dần tới 30% sau 3 năm, lương của một Đại-Úy Hạm-Trưởng với vợ con chỉ bằng một phần ba tiền chạy xe của một người tài-xế Taxi trên đường phố Sài-G̣n. T́nh-trạng của những gia-đ́nh thuỷ-thủ sinh-hoạt thiếu-thốn đến độ Phó-Đô-Đốc Zumwalt phải nghĩ đến một nhiệm-vụ mới bất-thường ngoài quân-vụ là trợ-giúp các trại gia-binh xây thêm nhà cho lính và cất chuồng chăn-nuôi gà vịt làm thực-phẩm. Sự bất-lực của người lính Hải-Quân khi không cung-ứng nổi nhu-cầu sinh-sống thường ngày cho gia-đ́nh ḿnh có thể làm suy-giảm tinh-thần, gây ra sự mất-mát lớn-lao cho Hải-Quân nhanh hơn Cộng-sản có thể làm được. Về lâu về dài, mức sinh-hoạt thấp (của toàn-dân) theo ư-kiến của Zumwalt đáng ngại hơn là cả Việt-Cộng.355 Một vài khía-cạnh sinh-hoạt của quân-nhân Hải-Quân đă được một Sĩ-Quan Hải-Quân, HQ Trung-Úy Vơ-Văn-Bảy miêu-tả qua cuốn tiểu-thuyết đầu-tiên của Ông xuất-bản hồi đó tại Sài-G̣n356.
Năm 1969 Đầu năm 1969 do việc chuẩn-bị chuyển-giao trách-nhiệm chiến-trường Sông-Biển cho Hải-Quân Việt-Nam, nhu-cầu Sĩ-Quan tăng cao, số-lượng Sinh-Viên Sĩ-Quan mỗi khoá do đó phải tăng lên trên 200. Ba Lực-Lượng tác-chiến sông-ng̣i được thành-lập: Lực-Lượng Tuần-Thám, Lực-Lượng Thuỷ-Bộ, Lực-Lượng Trung-ương.
Tuần-Duyên-Đĩnh WPB là loại chiến-đĩnh nhỏ (82 feet) nhưng có khả-năng chịu-đựng sóng-gió rất cao.
Lực-Lượng Duyên-Pḥng nhận Tuần-Duyên-Đĩnh WPB. Liên-đội Người-Nhái trở-thành Liên-Đoàn Người-Nhái. Hải-Lực được chuyển-nhượng thêm Dương-Vận-Hạm LST Vũng-Tàu, HQ-503. Duyên-Pḥng nhận 8 Tuần-Duyên-Đĩnh WPB357 mang số từ HQ-700 đến HQ-707. Quân-số trực-thuộc những Vùng Duyên-Hải và Sông-Ng̣i trong nhiều năm đă gia-tăng đáng kể. Vào năm 1969, các Bộ Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng được nâng lên thành các Bộ Tư-Lệnh. Cấp-số Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng từ Đại-Tá tăng lên Phó-Đề-Đốc. Kể từ tháng 6/ 1968 đến cuối năm 1969, trong ṿng 17 tháng, HQVNCH nhận-lănh 242 tàu các loại, trị-giá 68,300,000 Mỹ-kim.358
Phân-tích Kết-quả Chiến-dịch Sealords Con số tương-quan tổn-thất tử-vong địch/ta 3,300/186 nói lên chiến-công lớn. Tỷ-số thương/ vong 1,451/186 của riêng phía Hải-Quân Đồng-minh cho ta thấy những nhận-xét sau: Muốn vào sào-huyệt của Cộng-Quân, quân ta phải mạo-hiểm, chịu-đựng những tổn-thất cao để đổi lại một con số tổn-thất gần hai chục lần cao hơn về phía địch. Sự thành-công nhờ vào yếu-tố chủ-động chiến-trường. Các mũi-dùi của ta nhanh-nhẹn chia-cắt địch-quân ngay trên những vùng chúng đă chiếm-đóng lâu-dài.
Nhờ tản-thương lẹ-làng, thương-binh được cứu-cấp kịp-thời. Các h́nh trên có tính-cách lịch-sử: (1) chiếc Quân-Vận-Đĩnh đầu-tiên nhận Trực-thăng Huey đáp xuồng sàn, mùa hè 1967, gần căn-cứ Đồng-Tâm (2) chiếc Trực-thăng tản-thương đầu-tiên đáp xuống Soái-hạm Chiến-dịch Sealords (USS Benewah). Địch cũng thất-bại ngay cả khi chúng tưởng rằng đă nắm được thế chủ-động khi phục-kích giang-đĩnh HQVN. Nhờ vận-tốc cao, các chiến-đĩnh vượt-thoát cơn nguy-hiểm chỉ trong chớp-nhoáng. Khi bị chiến-thương, nhân-viên ta thường rất ít người chết. Số tử-vong giảm v́ giang-đĩnh chạy nhanh, tản-thương lẹ-làng, thương-binh được cứu-cấp kịp-thời. Cũng cần phải ghi-nhận thêm là tỷ-lệ trung-b́nh chết/ thương trong các thế-chiến I và II là 1/3, nay tại Sealords - tỷ-số ấy giảm xuống chỉ c̣n 1 chết trong số 8 người bị thương (tức 1/8) mà thôi. Về phía địch-quân một khi đă bị thương, chúng rất dễ bị chết sau đó. Ngoài khả-năng điều-trị thương-binh yếu-kém, Cộng-Sản lại c̣n bị ta bóp nghẹt luôn các con đường tản-thương và tiếp-tế thuốc-men nữa.
Thánh-Tổ Hải-Quân Ư-tưởng nhận Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo đă manh-nha ngay từ những năm đầu HQVN c̣n sơ-sanh. Danh-hiệu những chiến-hạm đầu-tiên chính là tên các trận thuỷ-chiến đời Trần: Hàm-Tử, Chương-Dương, Bạch-Đằng. Trong các buổi đại-lễ, toán hầu-kỳ Hải-Quân Việt-Nam gồm có: Quân, Quốc và Thánh-kỳ. Vào ngày kỷ-niệm Thánh-tổ, chiến-hạm kéo Đại-kỳ rực-rỡ, có Thánh-kỳ ngũ-sắc phất-phới bay nơi cột cờ mũi. Ngày 20 tháng 8 âm-lịch năm 1969, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà khánh-thành tượng Đức Thánh-Trần tại công-trường Mê-Linh bến Bạch-Đằng.
Thánh-kỳ ngũ-sắc phất-phới bay.
Lễ Khánh-thành tượng Đức Thánh-Trần tại công-trường Mê-Linh bến Bạch-Đằng. Sự hữu-hiệu của Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm. Trong ṿng 25 năm chiến-tranh, loại Trợ-Chiến-Hạm LSSL là loại chiến-hạm có hoả-lực mạnh nhất trong sông-ng̣i Việt-Nam. Kế đó là các Giang-Pháo-Hạm LSIL. Khi hành-quân phối-hợp với lực-lượng bạn, hai loại tàu này thường được dùng như soái-hạm lưu-động cho Chỉ-Huy-Trưởng Hành-Quân. Với hoả-lực hùng-hậu, hai loại chiến-hạm này yểm-trợ hải-pháo rất đắc-lực khi tiến-quân.
Một số Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVN đă làm quen với loại Trợ-Chiến-Hạm LSSL359 từ những năm 1952-1953. Trong h́nh chụp Thuỷ-Thủ-Đoàn chiếc Hallebarde LSSL-3 của Hạm-Trưởng Leroux, có chừng 4, 5 người hơi nhỏ dáng-dấp Việt-Nam.
Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng-bằng sông Cửu-Long, Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm đă được sử-dụng vào các công-tác tuần-tiễu sông-ng̣i. Lâu-lâu, cấp Chỉ-huy c̣n dùng hai loại tàu này thường-trực để yểm-trợ cho lực-lượng diện-địa ven sông. Trong công-tác này, chiến-hạm thường đơn-độc nên dễ-dàng bị địch phục-kích khi giang-hành và cả khi neo lại nghỉ-ngơi. Một cựu Hạm-Trưởng đưa ra 2 nhận-định sau: - Thứ nhất, thời Đệ-Nhị Thế-chiến, Giang-Pháo-Hạm và Trợ-Chiến-Hạm là những pháo-đài đáng sợ cho địch-quân. Sự ra đời của B 40, B 41 tạo lợi-thế cơ-động và cán-cân hoả-lực nghiêng về lực-lượng phục-kích. Rất nhiều chiến-hạm bị phục-kích với nhiều thiệt-hại trong các năm 1966, 1967, 1968. - Thứ hai, Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm chỉ có thể phát-huy tác-dụng trong cuộc Hành-Quân Thuỷ-Bộ. Nó đ̣i-hỏi sự phối-hợp nhịp-nhàng giữa chiến-hạm, chiến-đĩnh và lực-lượng tùng-tháp (của Thuỷ-Quân Lục-Chiến) lẫn lực-lượng diện-địa.360
Hai Trợ-Chiến-Hạm trong đội-h́nh mũi tên.361 Nhiệm-vụ thường-xuyên và chính-yếu của mọi loại chiến-hạm, chiến-đĩnh trong thời chiến-tranh là tuần-tiễu sông-ng̣i hay biển-cả. Chỉ có điều chiến-hạm không nên tạo thói quen để địch điều-nghiên nắm nhược-điểm khi hoạt-động, cấp chỉ-huy cao-cấp không nên dùng chiến-hạm lớn LSSL/LSIL như một giang-đĩnh nhỏ trong việc tuần-tiễu thường-xuyên th́ tai-hoạ ch́m tàu hay thiệt-mạng nhân-viên362 đỡ xảy ra. Suy cho cùng, có lẽ sự tiến-hoá trong "Luật Chiến-Tranh" đă chứng-minh thời-đại huy-hoàng của "Mighty Midgets" Trợ-Chiến-Hạm và Giang-Pháo-Hạm trong sông-ng̣i đă lặng-lẽ trôi qua. Thời-đại huy-hoàng của "Mighty Midgets" trong hai thập-niên 1940 và 1950.
Diễn-tiến ACTOV và chương-tŕnh SCATTOR. Chương-tŕnh ACTOV mới khởi-sự vài tháng là đă có ngay gia-tốc (Accelerated). Những chiến-đĩnh đầu-tiên của chương-tŕnh được bàn-giao vào tháng 2 năm 1969. Căn-cứ Mỹ-Tho trong ACTOVLOG qua tay Việt-Nam vào tháng 11 năm 1969.
Chiếc Tuần-Duyên-Đĩnh WPB đầu-tiên HQ-700 mang tên Lê-Phước-Đức, một Hạ-Sĩ-Quan đă anh-dũng hy-sinh tại Rạch Bà-Rai ngày 29/9/1965. Lực-Lượng Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ363 từ trước đă gửi nhân-viên và tàu-thuyền tác-chiến cạnh Hải-Quân Hoa-kỳ, nay cũng có chương-tŕnh chuyển-giao riêng của họ, mệnh-danh là SCATTOR (Small Craft Assets, Training, and Turnover of Resources). Công-tác huấn-luyện Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Việt-Nam trên những chiến-đĩnh duyên-pḥng khởi-sự vào tháng 2 năm 1969. Chỉ hơn 3 tháng sau, hai chiếc WPB 82310 Point Garnett và WPB 82304 Point League được chuyển-giao tại Cát-Lở để trở-thành Tuần-Duyên-Đĩnh HQ-700 Lê-Phước-Đức và HQ-701 Lê-Văn-Ngà.
HQHK cũng đụng-độ với VC tại Rạch Bà-Rai mà họ gọi là Snoopy’s Nose.
Tại quân-trường Nha-Trang kể từ khoá 19 đến khoá 23, thời-gian huấn-luyện chỉ c̣n 1 năm, Sinh-Viên ra trường với cấp-bậc Chuẩn-Úy Tạm-thời. Sau một năm thực-tập ngoài đơn-vị, các Chuẩn-Úy này được mang cấp-bậc Thiếu-Úy Trừ-bị Thực-Thụ. Khoá 19, Đệ-Nhị Thiên-Xứng có 268 Sinh-Viên gồm 189 ngành Chỉ-Huy và 79 ngành Cơ-Khí. Thời-gian thụ-huấn 1 năm, Sinh-Viên nhập-trường ngày 19 tháng 02 năm 1969. Đây là khoá đầu-tiên trong chương-tŕnh ACTOV. Đồng-thời các khoá Trần-Hưng-Đạo OCS (Officer Candidate School) tại Hoa-Kỳ cũng bắt đầu khai-giảng. Khoá 19 măn-khoá vào ngày 21 tháng 02 năm 1970.
Vai-tṛ của Lực-Lượng Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ. Đứng cạnh cái bóng to-lớn của Hải-Quân Hoa-Kỳ, Lực-Lượng Tuần-Duyên hay Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ (LLTD/HK - U.S. Coast Guard) của họ có vẻ như đóng vai-tṛ mờ-nhạt. Sự thật Lực-lượng (có vẻ như) nửa công-chức nửa quân-sự364 này đă đóng-góp khá nhiều cho cuộc chiến Việt-Nam. Chỉ nguyên công-tác yểm-trợ hải-pháo tiếp-cận với 77,000 trái đạn. hầu-hết để tiếp-cứu quân bạn Việt-Nam và Đồng-Minh cũng đă đáng kể. Ngoài ra những việc ǵn-giữ an-ninh thuỷ-lộ, các vùng cận-duyên..., đặc-biệt an-ninh các bến cảng được tốt-đẹp khi Lực-Lượng Duyên-Pḥng HK nhập-cuộc. Cựu chiến-binh LLTD/HK đă ngạc-nhiên khi đọc thấy trong cuốn sách "The Coast Guard at War, Vietnam 1965-1975"365 rằng mọi người, kể cả giới-chức quân-sự Hoa-Kỳ, lại quên-lăng vai-tṛ quan-trọng của U.S. Coast Guard đến như vậy. Khi mới trực-tiếp tham-chiến, Hải-Quân Hoa-Kỳ cần 17 tiểu-đĩnh pḥng-duyên của U.S. Coast Guard cho chiến-trường Việt-Nam. Lực-Lượng này đề-nghị HQHK đệ-tŕnh Tổng-Tư-Lệnh tức Tổng-Thống Hoa-Kỳ cho nhân-viên của họ được sang phục-vụ tại Việt-Nam.
Một số Tuần-Duyên-Đĩnh được trục lên tàu lớn chở thẳng qua Việt-Nam. Một số khác hải-hành từ Phi-Luật-Tân sang, trên hải-tŕnh được các Khu-Trục-Hạm DER tiếp-tế nhiên-liệu.
Lực-Lượng Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ chỉ tham-chiến có vài ngàn người, nhưng thực-sự là những chuyên-viên về tiểu-đĩnh, hoạt-động hữu-hiệu hơn HQHK trong công-tác tuần-duyên. Việc sử-dụng súng cối 81 ly trực-xạ trên có gắn đại-liên 50 (the piggy-back mortar) là sáng-kiến riêng của họ. Hai khẩu pháo đi cặp với nhau, không những đă không chiếm chỗ lại rất hữu-hiệu để gia-tăng hoả-lực tác-chiến.366 Trong khi bàn về nhiều chuyện “xấu-bẩn nhỏ-nhặt” về chiến-tranh Việt-Nam, hai tác-giả James F. Dunnigan and Albert A. Nofi đă đặc-biệt phải khen-ngợi LLTD/HK như sau: “Trong hai năm đầu của Hành-Quân Market Time, hầu-hết công-tác là do Lực-Lượng Duyên-Pḥng chu-toàn. Trong suốt cuộc chiến, nhân-viên Duyên-Pḥng đă khám xét 250,000 ghe-thuyền, yểm-trợ Hải-pháo 6,000 lần. Lực-Lượng này đă cung-cấp nhân-viên và phương-tiện pḥng-thủ hải-cảng, ngoài ra c̣n phụ-giúp HQHK huấn-luyện HQVN.”367
Trong giai-đoạn đầu, Lực-Lượng Duyên-Pḥng HK chia ra 3 Liên-đoàn CG-Div.11 hoạt-động tại Vùng Phú-Quốc tới cửa Sông Hậu-Giang, CG-Div.12 từ Giới-Tuyến đến Quy-Nhơn, CG-Div.13 phần duyên-hải c̣n lại.
Nhóm Sĩ-Quan và Đoàn-Viên đầu-tiên thuộc Lực-Lượng Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ hữu-công trong việc ngăn-chặn tàu CSBV xâm-nhập.
Súng cối 81 ly trực-xạ trên có gắn Đại-liên 50.
Khi chấm-dứt chương-tŕnh SCATTOR vào 15 tháng 8 năm 1970, ảnh-hưởng LLTD/HK trong những phương-thức hoạt-động của HQVNCH khá nhiều. Các chiến-hạm từ chiếc lớn nhất là Tuần-Dương-Hạm qua các Tuần-Duyên-Đĩnh, cho tới những Tiểu-đĩnh tuần-cảng nhỏ-bé đều xuất-xứ từ Lực-Lượng Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ.368
Đài Loran Côn-Sơn là một trong những công-tŕnh xây-dựng của Lực-Lượng Duyên-Pḥng Hoa-Kỳ giúp cho việc hải-hành trong vùng Biển-Đông rất nhiều.
Những Tuần-Dương-Hạm đầu-tiên của HQVNCH Cho đến cuối thập-niên 1960, HQVNCH sử-dụng Hộ-Tống-Hạm PCE loại 680 tấn, hải-pháo lớn nhất là 76.2 ly như những nỗ-lực chính của công-tác tuần-dương và yểm-trợ hải-pháo. Chương-tŕnh trang-bị Tuần-Dương-Hạm WHEC làm cả HQVN hết sức hứng khởi. Tuy vậy việc huấn-luyện Sĩ-Quan và Đoàn-Viên để nâng cao khả-năng chuyên-nghiệp hầu điều-hành một chiến-hạm lớn hơn 3 lần PCE không phải là chuyện dễ-dàng. Trong các chiến-hạm chủ-lực, Tuần-Dương-Hạm sẽ là loại tàu không những có bài-thuỷ-lượng lớn nhất mà c̣n là chiến-hạm có hoả-lực mạnh nhất với dàn hải-pháo 5 inches, tức 127 ly.
Tuần-Dương-Hạm WHEC không những có bài-thuỷ-lượng lớn mà c̣n là chiến-hạm có hoả-lực mạnh nhất với dàn hải-pháo 127 ly.
Tổ-Chức Điều-Hành ACTOV Khi ACTOV khởi-sự, Văn-pḥng Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân đầy nghẹt văn-thư giấy-tờ liên-hệ đến công-việc chuyển-giao. Để tiếp-nhận thêm chiến-hạm, chiến-đĩnh, căn-cứ; Hải-Quân Việt-Nam phải nghiên-cứu ngay kế-hoạch tuyển-mộ nhân-viên, huấn-luyện, thực-tập và thi-hành làm sao cho Sĩ-Quan và Đoàn-Viên có đầy-đủ khả-năng tiếp-nhận và sử-dụng những phương-tiện mới. Là cơ-quan đảm-trách về Tổ-Chức, Pḥng 3 đă trở-thành trung-tâm điều-hành chương-tŕnh. Trưởng-Pḥng 3 lúc này rất bận-rộn. Ngoài công-việc thường-nhật về nghiên-cứu và cải-thiện kế-hoạch hoạt-động của Hải-Quân, tổ-chức, điều-hành nghi-lễ, phân-nhiệm trực-nhật, pḥng-thủ khu-vực... nay lại phải họp-hành liên-miên tại BTTTM/QLVNCH, tại MACV, tại NAFORV... rồi lại gánh thêm nhiều nhiệm-vụ mới như điều-nghiên, phối-hợp các pḥng-sở và đơn-vị trong mục-đích tái-tổ-chức những đơn-vị cũ, thành-lập các đơn-vị mới... Cuối năm 1969, Chức-vụ Giám-Đốc Điều-Hành ACTOV được giao cho Phó-Trưởng-Pḥng 3 đảm-nhiệm. Tuy có chức Giám-Đốc nhưng v́ cấp-bực thấp369 nên mọi văn-kiện quan-trọng, Phó-Trưởng-Pḥng 3 đều phải đệ-tŕnh Trưởng Pḥng 3, TMT/HQ hay TL/HQ duyệt-kư. V́ chương-tŕnh ACTOV mang tính-cách đoản-kỳ nên Sĩ-Quan điều-hành thực-sự không có cấp-số và không có nhân-viên thường-trực phụ-giúp. Nhờ sự hợp-tác chặt-chẽ giữa các pḥng-sở trung-ương và đơn-vị địa-phương cùng sự góp công-sức của nhiều Sĩ-Quan và Đoàn-Viên các cấp Hải-Quân mà chương-tŕnh được tiến-hành và hoàn-tất.
Quốc-kỳ Việt-Nam được kéo lên, Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân nghiêm-chỉnh chào kính.
Sau khi Quốc-kỳ Việt-Nam được kéo lên, Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân Hoa-kỳ rời chiến-đĩnh và chuẩn-bị hồi-hương. ACTOV và ACTOV-X Vào đầu năm 1970, kế-hoạch ACTOV chuyển qua ACTOV-X. Hải-Quân Hoa-Kỳ muốn việc chuyển-giao chiến-cụ được hoàn-tất cho sớm hơn nữa, cho vượt luôn cả đà rút quân chung của Lục-Quân và Không-Quân Hoa-Kỳ ra khỏi Việt-Nam. Lúc trước, HQVNCH chỉ có mười ngàn người. Theo chương-tŕnh ACTOV, quân-số tăng lên 40,000 người, tức là Hải-Quân bành-trướng lên 4 lần trong ṿng 2 năm. Như vậy, Hải-Quân Việt-Nam phải hoàn-thành một mục-tiêu vĩ-đại trong một thời-hạn quá ngắn. V́ kế-hoạch này không khác ǵ thổi cho “Ễnh-Ương lớn thành Ḅ”, hầu-hết các Sĩ-Quan Việt-Nam đều có ư-kiến phản-đối. Trong buổi họp tại BTL/HQVNCH, vị chủ-toạ là Tham-Mưu-Trưởng chuyển cho các vị Tham-mưu-phó và Sĩ-Quan Điều-hành ACTOV mỗi người một tập hồ-sơ bằng tiếng Anh mang tên ACTOV-X. Hồ-sơ đến từ NAFORV, muốn nghiên-cứu cũng phải hết cả tuần, nay Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam phải đưa ra quyết-định thi-hành phần ḿnh trong ṿng 24 giờ. Rơ-ràng Hoa-Kỳ rất nhanh-nhẹn t́m mọi cách chuyển gánh nặng của ḿnh và rút sang vai người khác để một ḿnh thoát-chạy ra khỏi Việt-Nam cho sớm. Hơn 18 năm sau khi được hỏi về ACTOV-X, Cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh đă nói những câu có ư-nghĩa như sau: “Nhiều người nói Hải-Quân Việt-Nam rất thông-minh và sắc-bén, họ lại nhanh-nhẹn chạy đến đích trước cả Lục-Quân VN và Không-Quân VN. Nhiều người cũng đă nói là Đô-Đốc Zumwalt rất... thông-minh và sắc-bén. Như vậy HQVNCH đă cùng đóng chung vai với Zumwalt trong kết-quả là Ông trở-thành Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-kỳ.370”
Elmo R. Zumwalt, Jr. trở-thành Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-kỳ (1-7-1970 - 30-6-1974). Trong Bộ Tham-Mưu Liên-Quân lúc đó, HQHK chiếm tới 2/5 ghế vớí Đô-Đốc Admiral Thomas H. Moorer giữ ghế Chủ-tịch (1-8-1967 - 30-6-1970).
Đường Hồ-Chí-Minh trên Biển nối-dài Thời-gian này Cộng-sản thay-đổi kế-hoạch xâm-nhập mới. Chúng kéo dài con đường Hồ-Chí-Minh trên Biển với điểm đến cuối-cùng nằm trong vùng cảng Sihanoukville của Cambodge. Vị Phụ-tá TL/ HQ Hành-Quân Sông báo-cáo biến-chuyển mới này như sau: Hành-Quân Market Time đă gây khó-khăn cho công-tác tiếp-vận bằng đường biển từ Bắc vào Nam Việt-Nam của Cộng-Sản Bắc Việt. Mặt khác Hà-Nội đă hoàn-tất đường ṃn Hồ-Chí-Minh để tiếp-vận cho các đơn-vị của chúng tại Vùng I và Vùng II Chiến-Thuật. Tại Miền-Nam, Hà-Nội đă dàn-xếp để có thể sử-dụng hải-cảng Sihanoukville và tiếp-tế cho các đơn-vị của chúng qua hệ-thống sông-rạch tại Miền-Nam Việt-Nam371.
Sự liên-kết giữa “Đường ṃn Hồ-Chí-Minh trên Biển” với “Đường ṃn Sihanouk” và “Đường ṃn Hồ-Chí-Minh” dọc biên-giới Việt-Lào.
Tàu VC xâm-nhập bị bắn cháy và bị tịch-thu.
Chính-phủ VNCH đă phản-đối mạnh-mẽ với chính-phủ Cambodge việc làm phi-pháp này của Hà-Nội, nhưng không có hiệu-quả372. Hải-Quân Việt-Nam sau đó đă quyết-định thiết-lập thêm 1 vùng viễn-duyên thứ 9 và 3 khu cận-duyên ngoài khơi của Sihanoukville với nỗ-lực tuần-phỏng chặn-đứng kế-hoạch xâm-nhập mới này của Cộng-Sản.
Năm 1970 - Ngày 28 tháng 2, khoá 19 SVSQ tốt-nghiệp với 268 Sĩ-Quan hai ngành Chỉ-huy và Cơ-khí. Đây là khoá-học đông nhất trong lịch-sử HQVNCH.373 - Vào đầu tháng 5 năm 1970, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân thiết-kế cuộc Hành-Quân Ngoại-biên quy-mô đầu-tiên374. Hồi 07:30 giờ sáng ngày 9 tháng 5 năm 1970, HQVNCH ồ-ạt vượt biên-giới Việt-Nam / Cambodge. Ngược ḍng Cửu-Long, mũi dùi Hải-Quân với 140 chiến-hạm chiến-đĩnh tiến qua Neak-Luong đến Thủ-đô Cambodge an-toàn, kiểm-soát thuỷ-lộ Tân-Châu / Nam-Vang375. Ngày hôm sau, theo lời yêu-cầu của chính-phủ Cambodge, một đoàn giang-đĩnh được biệt-phái mở đường thuỷ Mekong thông suốt lên tận Kompong Cham. Lực-Lượng mạnh, hành-quân thần-tốc là yếu-tố thành-công của HQVNCH. Quân Cộng-Sản bị bất-ngờ, không kịp trở tay. Áp-lực của Cộng-Sản đè nặng lên Thủ-đô Nam-Vang suy-giảm rơ-rệt.
Dương-Vận-Hạm Quy-Nhơn, HQ-504. - Trong năm 1970, các chiến-hạm, chiến-đĩnh quan-trọng sau đây được trao cho Hải-Quân Việt-Nam: * 1 Hộ-Tống-Hạm (MSF) Hà-Hồi, HQ-13. * 2 Hoả-Vận-Hạm (YOG) HQ-472 và HQ-473. * 3 Dương-Vận-Hạm (LST) Quy-Nhơn, HQ-504, Nha-Trang HQ-505, Mỹ-Tho HQ-800. * 18 Tuần-Duyên-Đĩnh WPB, mang số từ HQ-708 đến HQ-725. * 1 Hộ-Tống-Hạm PCER Vạn-Kiếp HQ-14.
Trong ngày lễ Đỡ-Đầu và Gia-Nhập HQVN của 2 Dương-Vận-Hạm HQ-504 và HQ-505, Tuyên-Úy làm lễ cầu-an cho Thuỷ-Thủ-Đoàn.
Hộ-Tống-Hạm PCER Vạn-Kiếp II HQ-14. Ngày 1-6-1970, Tư-Lệnh-Phó NAVFORV cũng là First Sealord, Đề-Đốc H. S. Matthews được chỉ-định làm Tư-Lệnh-Phó Hành-Quân cho Phó-Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn. Ngay sau đó, Tư-Lệnh HQVN Trần-Văn-Chơn được thăng-cấp Đề-Đốc vào ngày 19-6-1970.376 Tháng 7 năm 1970, Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân Sông được thành-lập tại B́nh-Thuỷ, gần Cần-Thơ để chỉ-huy các lực-lượng của HQVN trong sông, ngoại-trừ các Giang-Đoàn biệt-phái cho Vùng I Duyên-Hải và Vùng V Duyên-Hải đặt dưới quyền của Tư-Lệnh của các Vùng Duyên-Hải đó. Trong chiến-dịch ngoại-biên, ngoài việc tác-chiến, Hải-Quân Việt-Nam c̣n hoàn-tất việc di-chuyển 82,000 Việt-Kiều hồi-hương an-toàn khỏi những vùng bất-ổn bên Cambodge.
Thuỷ-thủ-đoàn Việt-Nam chuẩn-bi nhận-lănh chiếc Tuần-Duyên-Đĩnh WPB cuối-cùng, HQ-725, tại Vũng-Tàu.
Theo chương-tŕnh gia-tăng, quân-số Hải-Quân Việt-Nam tăng lên 33,121 quân-nhân t́nh-nguyện. Trong số đó, có 5,000 Sĩ-Quan. Với quân-số này HQVNCH được sắp hàng 14 trong số các Hải-Quân lớn nhất thế-giới.377
Tư-Lệnh HQVN 2 nhiệm-kỳ, Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn.
Sự Hữu-hiệu của Không-tuần Quan-niệm không-thám ở xứ ta đă có từ lâu đời378 dù chưa thực-dụng. Khi người Pháp bắt-đầu dính-líu vào Việt-Nam, hàng-không đă có ngay vai-tṛ của nó. Các chí-nguyện-quân người Pháp phục-vụ Nguyễn-Ánh như Cha Bá-Đa-Lộc đă nghĩ tới việc sử-dụng kỹ-thuật hàng-không. Tết năm 1791, một khinh-khí-cầu được thả lên ở Sài-G̣n, tạo ra ấn-tượng mạnh-mẽ cho dân-chúng.379 Từ năm 1961, công-tác không-tuần Biển-Đông được các Thuỷ-phi-cơ Martin P-5 thực-hiện. V́ căn-cứ ở Đài-Loan quá xa, tầm hoạt-động của phi-cơ này bị rút ngắn. HQHK cho tăng-cường loại Phi-cơ P-2 Neptune khởi-hành từ phi-trường Tân-Sơn-Nhất. Khu-trục-cơ A-1 Skyraider bay tuần-thám một giai-đoạn ngắn. Quan-sát-cơ L-19 của KQVN cũng bay quan-sát duyên-hải khi có nhu-cầu.
Pháp dùng Khinh-Khí-Cầu380 khi đánh đồn Hưng-Hoá năm 1887. Trong trận chiến Quốc-Cộng tại Việt-Nam, HQ Pháp sử-dụng thuỷ-phi-cơ và máy-bay Cricquet381. HQVN dùng A-1 Skyraider (KQVN) bay tuần-thám một giai-đoạn ngắn. Sau đó, những loại máy-bay lớn của Hoa-Kỳ có tầm-bay xa tuần-tiễu khắp Biển-Đông.
Kể từ tháng 5 năm 1965 đến tháng 4 năm 1967, các Chiến-Hạm Yểm-trợ Thuỷ-Phi-Cơ Seaplane Tenders như Currituck (AV 7) và Salisbury Sound (AV 13) được dùng làm mẫu-hạm cho các Thuỷ-phi-cơ Martin P5. Hai chiếc tàu thả neo trong những vùng Côn-Sơn, Cù-lao Chàm và Cam-Ranh để làm căn-cứ xuất-phát tại chỗ. Thỉnh-thoảng loại phi-cơ Bird Dog của Lục-Quân Hoa-kỳ và phi-cơ Douglas C-47 của Không-Quân Việt-Nam cũng bay tuần biển.
Chiến-hạm Currituck (AV 7) là mẫu-hạm cho các Thuỷ-phi-cơ Martin P5.
Từ đầu năm 1967, Hoa-kỳ cho đồn-trú một Phân-Đoàn 12 chiếc P2 Neptune tại Cam-Ranh. Sau hết, Phi-cơ P3 Orion là loại Không-thám-cơ tối-tân nhất của HQHK, cất-cánh từ Sangley Point Philippines, Utapao Thái-Lan dần-dần thay-thế những phi-cơ cũ, đảm-nhiệm hầu-hết công-tác tuần-thám.382 Đến tháng 1-1968, Không-Đoàn Tuần-Thám 40 Patrol Squadron Forty căn-cứ tại NAS Iwakuni Nhật-Bản gửi phi-cơ P3 đến Cam-Ranh như một trạm tiền-phương383 để có thể tuần-thám được khắp Biển-Đông.
P3 Orion là loại Phi-cơ Không-thám tối-tân Từ khi có sự phối-hợp với Không-tuần Mỹ, một số Sĩ-Quan thuộc BTL/HQ/Pḥng 3 và Trung-Tâm Hành-Quân được huấn-luyện tại chỗ để làm Quan-sát-viên phụ-giúp HQHK trong trách-nhiệm nhận-diện tàu-thuyền Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-nhập.
Một Sĩ-Quan HQVN chuẩn-bị bay Không-Tuần.
Trong suốt cuộc chiến, số-lượng chiến-cụ của địch-quân di-chuyển sát bờ-biển không có bao-nhiêu so-sánh với số-lượng do tàu của chúng xâm-nhập từ Bắc-Việt vượt-biển mang vào. Hầu-hết những khám-phá về tàu xâm-nhập của Cộng-Sản Bắc-Việt đều do các phi-cơ thực-hiện. Các thuyền lớn bằng gỗ và tất cả tàu chuyển-vận bằng sắt trọng-tải 100 tấn trở lên thuộc Lữ-Đoàn 125 của HQ Bắc-Việt hơn quá nửa đều bị t́m thấy trước từ những vùng viễn-duyên.
Những SL may-mắn Khi cuộc chiến chống Cộng khốc-liệt tốn-hao xương máu quân-dân Miền-Nam quá nhiều, người ta vẫn ghi-nhận những chuyến tàu công-tác của HQ Cộng-Sản không bị tiêu-diệt. Nhiều chiếc SL384 (với kư-số Suspect trawler thường do BTL/LLZP và các Trung-Tâm Kiểm-Soát Duyên-Hải – TTKS/DH385 chỉ-định) đă được tự-do trở lại Bắc-Việt. Những con tàu tốt-số này thoát chết chỉ v́ HQVN và HQHK tôn-trọng một luật-lệ do chính VNCH đặt ra: không bao-giờ tấn-công một "trawler" xâm-nhập nếu chúng không đi vào lănh-hải 3 hải-lư (Sắc-lệnh quy-định hải-phận số 081NG ngày 27-04-1965)386. Chỉ có một trường-hợp hăn-hữu, khi chiếc tàu số 645 của chúng đă xâm-nhập vịnh Phú-Quốc rồi chạy trở ra khơi, bị Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4 bắn ch́m387 tại hai chục hải-lư cách bờ. Quyết-định sở-dĩ được đưa ra v́ lư-do tàu 645 này đă lỳ-lợm cố-gắng thử xâm-nhập mấy lần trước đó. Có cả những con tàu sắt đă vào vùng lănh-hải VNCH rồi lại quay ra ngoài, hay bỏ nửa chừng chuyến công-tác quay về bến xuất-phát đều không bị tấn-công. Những hải-tŕnh của chúng tuy vậy đều được không-tuần ghi-nhận, giữ làm tài-liệu. Hiển-nhiên cho sự “nhân-đạo” này là chưa bao-giờ Phi-cơ và Chiến-Hạm Việt-Nam và Đồng-minh tấn-công các tàu SL khi chúng c̣n ở ngoài khơi. Bỏ qua những bản-tin t́nh-báo không kiểm-chứng, những con tàu xâm-nhập sau đây được coi như nhận-lănh "ân-xá". Tài-liệu c̣n ghi lại trong các sách sử-liệu Hoa-Kỳ và Việt-Nam như sau: Ngày 31-12-1965, Khu-Trục-Hạm Hissem (DER 400) khám-phá một tàu ngoài khơi Cà-Mau. Khi biết bại-lộ, tàu này quay trở ra khơi t́m đường về Bắc. Sau nhiều ngày bị theo-dơi tại ngoài hải-phận B́nh-Định trong tháng 12-1966, một chiếc tàu Bắc-Việt bỏ đi, không bị Hải-Quân Việt-Nam và Hoa-Kỳ tấn-công. Từ tháng 7 đến cuối năm 1967, t́nh-h́nh xâm-nhập tạm yên được mấy tháng. Sau Tết Mậu-Thân, v́ vấn-đề sống-c̣n của quân Bắc-Việt đang chiến-đấu tại Miền-Nam, Hà-Nội khẩn-cấp gửi tới 5 chiếc tàu xâm-nhập ra đi trong một tháng (tháng 2-1968) hy-vọng đưa quân-dụng tiếp-cứu đồng bọn. Cả 5 năm chiếc bị theo-dơi, tuy vậy chỉ có 3 tàu bị tiêu-diệt khi chúng tiến vào sát bờ, cố-ư đổ-bộ quân-dụng. Các bản tường-tŕnh của HQVNCH cũng như HQHK hồi đó cho thấy rằng các tàu xâm-nhập SL thường mang số giả388, không treo quốc-kỳ hay treo cờ giả Trung-Cộng. Tàu luôn-luôn dùng những đống lưới đánh cá trên sàn tàu để ngụy-trang. Hy-vọng trà-trộn vào những tàu-thuyền đánh-cá của họ thật mỏng-manh v́ họ không dám mang quốc-kỳ (chỉ khi thấy nguy-cấp mới kéo cờ giả Trung-Cộng). Vả lại v́ có rất ít loại tàu sắt vào cỡ đó đánh cá trên Biển-Đông nên khi thám-thính thấy là HQ đồng-minh nhận ra không lẫn-lộn. Các SL của CSBV trang-bị yếu-kém, vận-tốc chậm (thường là khoảng 7 - 10 gút), không có hải-pháo, radar, dụng-cụ thiên-văn… hải-hành thường là phỏng-định389. Tàu không có cả la-bàn điện và hải-đồ chi-tiết390. Phi-cơ không-tuần hay chiến-hạm tuần-dương nhận-diện các tàu này rất dễ-dàng khi so-sánh với h́nh-ảnh t́nh-báo cung-cấp. Ngay cả các ấn-bản thường-niên Jane’s Fighting Ships cũng in h́nh-ảnh của đủ loại SL. Thuỷ-thủ-đoàn CSBV ra đi xâm-nhập một cách liều-mạng. V́ phương-tiện quan-sát độc-nhất là với thị-giác (bằng mắt thường), nhiều tàu không biết là bị phát-giác và đă bị theo-dơi nhiều ngày. Nếu hăn-hữu công-tác có thành-công trong giai-đoạn th́ cũng hoàn-toàn chỉ nhờ vào may-mắn. Những Khu-Trục-Hạm Việt-Nam và Đồng-Minh theo-dơi tàu địch bằng radar, thường giữ vị-trí nằm dưới đường chân-trời thị-giác391. Nhờ vận-tốc săn-đuổi thường cao hơn tàu xâm-nhập đến 2, 3 lần; mỗi khi nghi-ngờ có tàu Nga do-thám trong vùng, chiến-hạm ta và Đồng-minh có thể ngưng phát sóng radar trong chu-kỳ ½ tiếng, rồi chạy lại vài ba phút vừa đủ th́-giờ để xác-định vị-trí và kiểm-chứng mục-tiêu. Tàu địch chỉ di-chuyển được 4 - 5 hải-lư tối-đa trong ṿng 30 phút nên nhờ giải toán vận-chuyển392, tàu ta thi-hành chiến-thuật “mèo vờn chuột” này rất dễ-dàng. V́ chiến-hạm ta luôn-luôn nằm “dưới chân trời” và thời-gian Radar “tắt nhiều, mở ít” như vậy, không những tàu VC xâm-nhập không biết mà nếu tàu Nga có cố-công truy-ḍ điện-tử cũng thường-thường bị bó-tay. Thuỷ-thủ-đoàn CSBV cứ lầm-lũi đi phỏng-định, mù-tịt về các hoạt-động của ta nên rơi vào bẫy lúc nào không hay biết.
Hệ-thống Radar Kiểm-báo tiêu-chuẩn thiết-trí trên các Khu-Trục-Hạm loại DER.
ACTOVRAD và các Đài Kiểm-Báo Chương-tŕnh ACTOV của HQHK và SCATTOR của LLTD/HK đă giúp Hải-Quân Việt-Nam đủ phương-tiện để kiểm-soát vùng cận-duyên. Khi Hoa-Kỳ rút-lui, họ cũng rút đi hết các phi-cơ không-thám. Chương-tŕnh ACTOVRAD (Accelerated Turnover of Radars to Vietnam) nhằm xây-dựng hệ-thống Đài Kiểm-Báo dọc duyên-hải để thay-thế không-tuần, phát-hiện các tàu địch xâm-nhập từ ngoài khơi. Theo Edward Marolda, hai chương-tŕnh ACTOVRAD và ACTOVLOG trách-nhiệm việc xây-cất, tân-trang cơ-sở, doanh-trại và cả cư-xá cho quân-nhân các Đài Kiểm-Báo. Vào cuối năm 1970, 3 trong số 15 đài Kiểm-Báo được chuyển-giao. Các đài Kiểm-Báo trên núi được trang-bị 2 bộ Radar AN/TPS-62393 để bảo-đảm sự hoạt-động liên-tục 24 giờ một ngày. Loại máy này nguyên của Thuỷ-Quân Lục-Chiến Mỹ dùng cho không-kiểm, tuy vậy cũng sử-dụng được cho hải-thám. Tầm hoạt-động radar ảnh-hưởng bởi khoảng xa của "đường chân trời radar". Các đài Kiểm-Báo do đó, cần phải đặt trên những núi cao. Theo báo-cáo, các thương-thuyền lớn như SeaLand cho hồi-ba trong khoảng cách 80 hải-lư. Các SL xâm-nhập của Bắc-Việt bị khám-phá một cách chắc-chắn trong tầm 40 hải-lư (73 Km). Những chiến-hạm chiến-đĩnh Việt-Nam đi tuần-tiễu cũng được các Đài Kiểm-Báo hướng-dẫn hải-hành đến chặn-bắt mục-tiêu. Kiểm-Báo-Hạm dùng radar của Hải-Quân, SPS-53J. Theo lư-thuyết radar có tầm hoạt-động 32 hải-lư, Trong những điều-kiện thuận-hảo, có lúc tầm xa tới ngoài 40 Hải-lư. Đối với những đối-vật nhỏ như tàu-thuyền dưới 30 m, tầm radar hữu-hiệu chừng 15-20 hải-lư.394
Chương-tŕnh Huấn-luyện OCS tại Hoa-Kỳ Để cung-ứng đầy-đủ nhân-viên trang-bị cho các tàu-bè mới, Hải-Quân Việt-Nam bắt-đầu gửi Sĩ-Quan, Sinh-Viên Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên du-học tại Hoa-Kỳ. Năm 1969, một Phái-đoàn quan-sát gồm có Trung-Tá Khương-Hữu-Bá, Trung-Tá Bùi-Hữu-Thư, Thiếu-Tá Hà-Ngọc-Lương được gửi đi thăm các quân-trường Hoa-Kỳ, chú-tâm nhất đến trường Officer Candidate School (OCS) tại New Port Rhode Island. Khi về lại Sài-G̣n, phái-đoàn đă soạn-thảo chương-tŕnh huấn-luyện Sĩ-Quan cho Hải-Quân Việt-Nam tại trường OCS này.395
Huy-Hiệu Trường OCS của HQHK.
Các Sinh-Viên được BTL/HQ tuyển-lựa cho theo học các khoá OCS phải có đủ điều-kiện đặt ra và đă trải qua các giai-đoạn như sau: - Có văn-bằng Tú-Tài 2. - Đă hoàn-tất 12 tuần huấn-luyện Căn-Bản Quân-Sự tại TTHL/Quang-Trung hoặc tốt-nghiệp trường Bộ-Binh Thủ-Đức. - Thi trắc-nghiệm Anh-Ngữ, đạt từ 70% trở lên. Trường OCS nằm trên một ḥn đảo lớn của tiểu-bang Rhode Island, gần trường Naval War College và Căn-Cứ Đệ-Lục Hải-Khu Hoa-Kỳ. Trường có diện-tích rộng-lớn hơn TTHL/HQ Nha-Trang, có khả-năng cung-cấp nơi ăn chỗ ở cho trên 1300 khoá-sinh. Chương-tŕnh huấn-luyện các Sĩ-Quan OCS kéo dài 6 tháng, bao-gồm các môn học chú-trọng nhiều về thực-hành như sau: Vận-Chuyển, Hàng-Hải, Pḥng-Tai, Cứu Tàu Lâm-Nạn, Hải-Pháo, Lư-Thuyết Thuyền-Bè, Vận-Chuyển Chiến-Thuật, Căn-Bản Quân-Sự, Lănh-Đạo Chỉ-Huy và Hành-Quân tập-trận đổ-bộ. Sau 26 tuần-lễ thi tốt-nghiệp, khoá-sinh tiếp-tục học về Chiến-Tranh Sông-Ng̣i (Brown Water Navy Operation) tại Treasure Island, San Francisco California. Có khoảng 2 tuần-lễ thực-tập trên những Giang-Đĩnh các loại như: Command Boat, Monitor, ASPB, Tango, LCVP, LCM, PBR, kể cả các Duyên-Tốc-Đĩnh ngoài biển như PCF. Trong thời-gian này có 3 ngày đêm tập-trận hành-quân Thuỷ-Bộ tại Mare Island California. Địa-h́nh và dàn-cảnh nơi đây rất giống chiến-trường VN. Những trận địch-quân phục-kích và Chiến-đĩnh đánh-trả bằng vũ-khí đủ loại diễn-tiến như thật-sự ngoài chiến-trường.396
Chứng-chỉ tốt-nghiệp lớp Huấn-Luyện Giang-đĩnh.
Sau khi hồi-hương, một buổi lễ gắn cấp-bậc Chuẩn-Úy được tổ-chức trọng-thể tại BTL/Hạm-Đội. Một năm sau, các Sĩ-Quan này sẽ có Quyết-Định thăng-cấp Thiếu-Úy Trừ-bị. Số-lượng Sinh-Viên Sĩ-Quan OCS được huấn-luyện mỗi khoá vào khoảng 60 người. Khoá cuối-cùng là OCS 12 gồm có cả các Sĩ-Quan Bộ-Binh từ Thiếu-Úy đến Trung-Úy cũng được tham-dự. Sau khi măn-khoá, họ về phục-vụ tại những đơn-vị Hải-Quân VN đủ loại.
SVSQ/HQ Việt-Nam trong Lễ Măn-khoá vào mùa Đông, tổ-chức trong nhà Gym, Trường Hải-Quân OCS, tiểu-bang Rhode Island. Khoá OCS đầu-tiên khai-giảng vào tháng 02 năm 1970, khoá 2 vào giữa tháng 03, cứ thế mỗi khoá cách nhau 6 tuần-lễ. Khoá OCS 12 hoàn-tất vào tháng 09 năm 1971. Gần xong chương-tŕnh OCS thuần-túy Việt-Nam, Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển qua việc huấn-luyện quy-mô lớn, có tính-cách quốc-tế hơn. Trong chương-tŕnh IOCS (International Officer Candidate School) này, 22 SVHQVN theo khoá đầu-tiên bên cạnh 1 Sĩ-Quan Ba-Tư, 7 Sĩ-Quan Thổ-Nhĩ-Kỳ, 8 Sĩ-Quan Á-Căn-Đ́nh, 2 Sĩ-Quan Campuchia, số c̣n lại là Sinh-Viên và Sĩ-Quan Hoa-Kỳ. Khoá đông-đảo lên tới 197 Sinh-Viên. Tổng-cộng khoảng trên 750 Sinh-Viên và Sĩ-Quan Việt-Nam đă thụ-huấn các khoá Trần-Hưng-Đạo tại Hoa-Kỳ.
Chương-tŕnh Huấn-luyện Đoàn-Viên tại Hải-ngoại Năm 1969 là năm mà nhiều Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-viên được gửi đi thụ-huấn tại các Trung-tâm Huấn-luyện Hoa-Kỳ ở Great Lakes, Michigan, và San Diego, California. Có nhiều lớp căn-bản B1 và B2 về các ngành pḥng-tai, Trọng-Pháo, thám-xuất, giám-lộ, cơ-khí, v..v.. Để nhận-lănh các chiến-hạm mới, lúc đầu các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên được gửi đi học trước khi họ được đưa về San Diego hay Norfolk để lănh tàu. Thời-gian huấn-luyện thay-đổi tùy theo chuyên-nghiệp, từ vài tháng đến một năm. Riêng việc chuẩn-bị lănh tàu có thể chiếm tới 2 năm trời từ khi gửi nhân-viên đi cho đến khi chiến-hạm về cặp bến Sài-G̣n.397 Cũng trong năm 1969, Hải-Quân Mỹ đă giúp huấn-luyện một khoá tân-binh căn-bản duy-nhất. Khi khoá 50 tân-binh Hải-Quân đang học tại TTHL/HQ Cam-Ranh, th́ được Phái-Bộ Viện-Trợ Quân-Sự Hoa-Kỳ tuyển-chọn một nửa khoá đi thụ-huấn căn-bản quân-sự tại Hoa-Kỳ. Đại-Úy CB Bùi-Nhật-Ích hướng-dẫn toán này. Khi trở về các Thuỷ-Thủ này đă tŕnh-diễn lối diễn-hành đặc-biệt của Hải-Quân Hoa-Kỳ rất tân-kỳ và đẹp mắt, nhưng không bao-giờ áp-dụng cho Hải-Quân Việt-Nam.
Loại Tuần-Duyên-Hạm PG này có vận-tốc tối-đa tới 40 gút.
Tiêu-chuẩn Danh-hiệu và Số-hiệu các Chiến-hạm Kể từ khi Sĩ-Quan Việt-Nam nhận quyền Hạm-Trưởng, các chiến-hạm đă được chỉ-định số vỏ tàu và danh-hiệu. Số-lượng chiến-hạm chiến-đĩnh dần-dần gia-tăng, nhiều loại tàu-thuyền mới trang-bị cho HQVN. Danh-hiệu và số-hiệu các chiến-hạm v́ vậy có một vài thay-đổi theo tiêu-chuẩn mới. Khoảng năm 1967, các danh-hiệu Nỏ-Thần (HQ-225) và Linh-Kiếm (HQ-226) của loại Trợ-Chiến-Hạm LSSL được thay-đổi và thay-thế bằng những tên mới. Đó là tên của các Sĩ-Quan Hải-Quân đă anh-dũng hy-sinh trong cuộc chiến bảo-vệ Tự-Do cho Miền-Nam: Nguyễn-Văn-Trụ, Lê-Trọng-Đàm, Lê-Văn-B́nh, Đoàn-Ngọc-Tảng, Lưu-Phú-Thọ, Nguyễn-Ngọc-Long, Nguyễn-Đức-Bổng. Sau đó, Các Tuần-Duyên-Đĩnh được mang tên các Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân anh-hùng đă hy-sinh v́ lư-tưởng Quốc-Gia: Lê-Phước-Đức, Lê-Văn-Ngà, Huỳnh-Văn-Cự, Nguyễn-Đào, Đào-Thục, Lê-Ngọc-Thanh, Nguyễn-Ngọc-Thạch, Đặng-Văn-Hoành, Lê-Đ́nh-Hùng, Trương-Tiến, Phạm-Ngọc-Châu, Đào-Văn-Đáng, Lê-Ngọc-Ẩn, Huỳnh-Văn-Ngàn, Trần-Lô, Bùi-Viết-Thanh, Nguyễn-An, Nguyễn-Ân, Ngô-Văn-Quyền, Văn-Diên, Hồ-Đăng-Là, Đàm-Thoại, Huỳnh-Bộ, Nguyễn-Kim-Hưng, Hồ-Duy, Trương-Ba. Các chiến-hạm chủ-lực Khu-Trục-Hạm và Tuần-Dương-Hạm mang tên các tướng-lănh Hải-Quân Việt-Nam lừng-danh trong lịch-sử: Trần-Hưng-Đạo, Trần-Khánh-Dư; Trần-Quang-Khải, Trần-Nhật-Duật, Trần-B́nh-Trọng, Trần-Quốc-Toản, Phạm-Ngũ-Lăo, Lư-Thường-Kiệt, Ngô-Quyền. Về số-hiệu, các chiến-hạm được mang những chiến-số như sau: Số 1 và 4 Khu-Trục-Hạm, Số 2, 3, 5, 6, 15, 16, 17 Tuần-Dương-Hạm, Số 07, 08, 09, 10, 11, 12, 13, 14 Hộ-Tống-Hạm, Số từ 225 - 231 Trợ-Chiến-Hạm, Số từ 327 - 331 Giang-Pháo-Hạm, Số từ 400 - 401 Bệnh-Viện-Hạm, Số từ 402 - 406 Hải-Vận-Hạm, Số từ 470 - 475 Hoả-Vận-Hạm, Số từ 500 - 505 Dương-Vận-Hạm, Số từ 600 - 619 Tuần-Duyên-Hạm, Số từ 700 - 725 Tuần-Duyên-Đĩnh, Số 800, 801 Dương-Vận-Hạm Cơ-Xưởng và Số 802 Cơ-Xưởng-Hạm398.
Quan-niệm Tổ-Chức Đặc-Nhiệm. Một trong những tiến-bộ đáng kể nhất về tổ-chức HQVN là sự minh-định rất chính-xác giữa các đơn-vị hành-chánh và các đơn-vị đặc-nhiệm. Việc điều-hành các đơn-vị hành-chánh từ lâu đă được quy-định rơ-ràng. Các Đơn-Vị-Trưởng và nhân-viên của Ông đều nắm vững công-vụ phải làm. Theo với thời-gian, nhu-cầu hành-quân gia-tăng vượt qua mức đại-đơn-vị rồi liên đại-đơn-vị. Phương-thức tổ-chức Hải-Quân theo hệ-thống hành-chánh có tính-cách lănh-thổ đă lỗi-thời, không c̣n phù-hợp với t́nh-thế biến-chuyển mới. Trong quan-niệm thành-lập lúc sơ-khởi, các đơn-vị sông-ng̣i làm việc chung với các đơn-vị diện-địa trong Chi-Khu, Tiểu-Khu và Quân-Khu. Quan-niệm lưu-động-tính phát-triển mạnh khi HQVN thành-lập Giang-Đoàn 27 XP. Với danh-nghĩa Giang-Đoàn Tổng-Trừ-Bị, Giang-Đoàn này biệt-phái hoạt-động tại cả Miền Đông lẫn Miền Tây, với cả hai Quân-Đoàn III và IV. Giang-Đoàn 27 XP trang-bị bằng Tuần-Giang-Đĩnh RPC chạy nhanh, và Quân-Vận-Đĩnh LCM 8 là những giang-đĩnh chuyển-vận chiến-xa, sức chuyên-chở quân-sĩ gấp 3 lần Giang-Đoàn cũ và vận-tốc đường-trường cũng cao hơn, tới 50%. Đôi khi v́ nhu-cầu hành-quân thay-đổi, tuần-lễ này Giang-Đoàn phối-hợp với một Sư-Đoàn Vùng 3 Chiến-thuật, tuần-lễ tới lại làm việc với Sư-Đoàn khác tại Vùng 4 Chiến-thuật.
Càng về sau, Hải-Quân QVNCH càng có thêm nhiều đại đơn-vị lưu-động mới, tầm-cỡ to-lớn hơn xưa, hoạt-động trong những khu-vực rộng-lớn ngoài phạm-vi trách-nhiệm lănh-thổ của các Trung-Đoàn, Sư-Đoàn, và cả Quân-Đoàn nữa. Lực-Lượng Thuỷ-Bộ, Lực-Lượng Ngăn-Chặn là những thành-phần tấn-công (assault) trong các cuộc hành-quân Thuỷ-bộ liên vùng. Lực-Lượng Tuần-Thám là thành-phần tuần-tiễu tiền-thám, cắt đứt các đường dây giao-liên của địch, hộ-tống và giữ-ǵn an-ninh thuỷ-tŕnh khắp lănh-thổ Vùng 1, Vùng 3 và Vùng 4 Chiến-thuật. Huy-hiệu Lực-Lượng Thuỷ-Bộ. Thêm vào đó là các công-tác mới như hộ-tống thương-thuyền trên sông Cửu-Long, có khi kéo dài tới tận Nam-Vang, những đoàn Giang-vận chiến-lược tiếp-tế cho Thủ-đô cũng như giữ an-ninh những đoạn thuỷ-lộ huyết-mạch cả Miền-Nam cũng như Miền-Trung. Những cuộc hành-quân thêm phức-tạp, phối-hợp các Giang-Đoàn Xung-phong, Thuỷ-bộ, Tuần-Thám, Ngăn-chặn, Chiến-hạm, Bộ-binh, Không-trợ, Địa-phương-quân, Thiết-kỵ, Pháo-binh, Thuỷ-Quân Lục-Chiến, Quân-đội Đồng-minh...
Tổ-chức Căn-bản về Đặc-Nhiệm Trong tổ-chức hành-quân cấp Lực-Lượng, hệ-thống chỉ-huy căn-bản quy-định từ lớn đến nhỏ như sau: Trước hết là Lực-Lượng Đặc-Nhiệm (LLĐN), theo thứ-tự đi xuống thấp là Đoàn: Liên-Đoàn, Phân-Đoàn, Chi-Đoàn. Nhỏ hơn nữa là Đội: Liên-đội, Phân-đội, Chi-đội... nghĩa là: - Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm (LĐĐN) - Phân-Đoàn Đặc-Nhiệm (PĐĐN) - Chi-Đoàn Đặc-Nhiệm (CĐĐN) - Liên-đội Đặc-Nhiệm - Phân-đội Đặc-Nhiệm - Chi-đội Đặc-Nhiệm. Thông-thường trên thực-tế, tổ-chức đặc-nhiệm xem ra giản-dị hơn. Lấy thí-dụ của Lực-Lượng Duyên-pḥng trước khi giải-tán vào cuối năm 1973, hệ-thống chỉ-huy như sau: Tư-lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng LLĐNDP 213 (CTF 115) với phương-tiện điều-động Trung-Tâm Hành-Quân của Lực-Lượng. Dưới Tư-Lệnh có 5 Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn Duyên-Pḥng: - CHT/LĐĐNDP 213.1 (CTG 115.1), - CHT/LĐĐNDP 213.2 (CTG 115.2), - CHT/LĐĐNDP 213.3 (CTG 115.3), - CHT/LĐĐNDP 213.4 (CTG 115.4), - CHT/LĐĐNDP 213.5 thành-lập sau cùng. Phương-tiện điều-động của mỗi CHT/LĐĐNDP (CTG - Commander Task Group) là Trung-Tâm Kiểm-Soát Duyên-Hải (C.S.C - Coastal Surveillance Center). Dưới CHT/LĐĐNDP có thể có 2 Chỉ-Huy-Trưởng Phân Đoàn Đặc-Nhiệm - CHT/PĐĐNDP (CTU 115.2.1 - Commander Task Unit). Đó là trường-hợp của LĐĐNDP 213.2 gồm có: - CHT/PĐĐNDP 213.2.1 (CTU 115.2.1) đồn-trú tại Quy-Nhơn, - CHT/PĐĐNDP 213.2.2 (CTU 115.2.2) đồn-trú tại Cam-Ranh. Dưới CHT/LĐĐNDP có Chỉ-Huy-Trưởng Chi-Đoàn Đặc-Nhiệm CHT/CĐĐNDP (CTE: Commander Task Element). Chi-Đoàn Đặc-Nhiệm chỉ được thành-lập khi có nhu-cầu hành-quân. Tuy vậy sau khi các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm (LLĐN) được thành-lập trong Sông và ngoài Biển, nhu-cầu hành-quân vẫn đ̣i-hỏi một vị Tư-Lệnh cao-cấp hơn phối-hợp hành-quân liên Lực-lượng. Sau chót, Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-Nhiệm được chỉ-định để chỉ-huy những cuộc hành-quân lớn, trong đó có nhiều Lực-Lượng Đặc-Nhiệm tham-dự. Văn-thư căn-bản của BTL/HQ và Huấn-Lệnh Hành-Quân của các Lực-Lương Đặc-nhiệm đều có quy-định những quy-luật về phương-thức tổ-chức đặc-nhiệm này.399
Hệ-thống Hành-Chánh của Lực-Lượng Duyên-Pḥng sau khi được Hoa-Kỳ (CTF 115) chuyển-giao.
Hệ-thống Chỉ-Huy Đặc-Nhiệm CTF 115 của HQHK.
Những Diễn-tiến Tổ-Chức của Hạm-Đội Đặc-Nhiệm Trong khi điều-hành Chương-tŕnh ACTOV dự-trù cho kế-hoạch hành-quân, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Pḥng 3 đă phác-hoạ ra tổ-chức hai Hạm-đội Đặc-Nhiệm (HĐĐN) là HĐĐN 21 và HĐĐN 22. Theo tài-liệu của Edward J. Marolda viết trong cuốn sách "By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia", khi TL/HQVN nhận quyền chỉ-huy chiến-dịch Trần-Hưng-Đạo vào tháng 7 năm 1970, thành-phần hai Hạm-đội được dự-trù tổ-chức theo sơ-đồ (Vietnamese Navy Operational Commands, July 1970 400) dưới đây. Chúng tôi xin chép lại nguyên-văn về tổ-chức Hạm-đội Đặc-Nhiệm 21 (SEALORDS) và Hạm-đội Đặc-Nhiệm 22 (không thuộc SEALORDS) như sau: Task Fleet 21 SEALORDS Operations Task Force 210 Special Task Force 211 Amphibious Task Force 212 Trần Hưng Đạo I Task Force 213 Coastal Task Force 214 Giant Slingshot Task Force 215 Fleet Command Task Force 216 Ready Deck Task Force 217 4th Riverine Area Task Fleet 22 Non-SEALORDS Operations Task Force 221 1st Coastal Zone Task Force 222 2d Coastal Zone Task Force 223 3d Coastal Zone Task Force 224 4th Coastal Zone Task Force 225 3d Riverine Area Task Force 226 4th Riverine Area Task Force 227 Rung Sat Special Zone Task Force 228 Capital Military District Thời-gian sau đó, quan-niệm về hai Hạm-Đội Đặc-Nhiệm (HmĐĐN) này thay-đổi, có khuynh-hướng để trở-thành HmĐĐN 21 trong Sông và HmĐĐN 22 ngoài Biển. Tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân đă có hai giới-chức được chỉ-định nhiệm-vụ Tham-Mưu cao-cấp trợ-giúp TL/HQVN điều-động hành-quân là: - Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Sông. - Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Biển. Cho đến khi QLVNCH bị tan-ră vào năm 1975, chưa có Sĩ-Quan nào chính-thức được bổ-nhiệm riêng-biệt vào chức-vụ Tư-Lệnh hai Hạm-Đội Đặc-Nhiệm Sông và Biển. Bản Cấp-số cũng chưa được BTTM/QLVNCH chấp-thuận ban-hành. Chức-vụ Tư-Lệnh HmĐĐN 21 trong những năm cuối 1974-1975 do Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng TL/V4SN tạm-thời kiêm-nhiệm.401 Tài-liệu khả-tín thu-nhặt được không thấy có ghi danh-tánh vị Tư-Lệnh HĐĐN 22.402
Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng, TL/V4SN kiêm-nhiệm Tư-Lệnh HmĐĐN 21.
Năm 1971 Vào đầu thập-niên 1970, tinh-thần người lính thuỷ rất cao. Hải-Quân đă có những chiến-hạm lớn như Khu-Trục-Hạm, Tuần-Dương-Hạm403. Sĩ-Quan và Đoàn-Viên được nhiều cơ-hội xuất-ngoại công-du, thực-tập, huấn-luyện, du-học, nhận-lănh chiến-hạm... Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam: - Hai Khu-Trục-Hạm Tiền-Thám (DER - Radar Picket Escort Ship404) Trần-Hưng-Đạo HQ-1 và Trần-Khánh-Dư, HQ-4. - Bốn Tuần-dương-Hạm (WHEC - High Endurance Cutter405) Trần-Quang-Khải HQ-2, Trần-Nhật-Duật HQ-3, Trần-B́nh-Trọng HQ-5, Trần-Quốc-Toản HQ-6. - Hai Dương-Vận-Hạm loại Cơ-Xưởng (LST) Cần-Thơ HQ-801, Vĩnh-Long HQ-802.
Khu-Trục-Hạm Trần-Hưng-Đạo HQ-1 hải-hành ngoài khơi Hawaii.
Dương-Vận-Hạm Cơ-Xưởng Cần-Thơ HQ-801.
Tuần-Dương-Hạm WHEC nguyên lúc Thế-Chiến 2 là một loại Chiến-hạm yểm-trợ Thuỷ-Phi-Cơ, trang-bị hoả-lực rất hùng-hậu. Sau này, các dàn hải-pháo được tháo-gỡ bớt đi.
WHEC 380-Yakutat vừa được sơn màu xám, đang vào sông Sài-G̣n, chuẩn-bị chuyển-giao cho HQVN để trở-thành HQ-3.
Các khoá Sĩ-Quan Đặc-biệt Cuối năm 1971, sau khi khoá 22 SQHQ ra trường th́ Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang chuẩn-bị tiếp-nhận thêm các Sĩ-Quan khoá-sinh, được gọi là khoá Sĩ-Quan Đặc-Biệt. Những Sĩ-Quan này có cấp-bậc từ Chuẩn-Úy đến Thiếu-Tá đă tốt-nghiệp tại các quân-trường Bộ-Binh (tại Đà-Lạt và Thủ-Đức) đang làm việc tại các đơn-vị bờ của Hải-Quân, kể cả các Sĩ-Quan ngành Cảnh-Sát thuộc các Lực-Lượng Giang-Cảnh. Đại đa-số các Sĩ-Quan này nguyên là những Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân được tuyển-mộ vào năm 1969 và đă thụ huấn tại các trường huấn-luyện Sĩ-Quan trừ-bị bộ-binh như Thủ-Đức và Đồng-Đế. Theo học các khoá Đặc-Biệt này c̣n có các Sĩ-Quan hiện-dịch tốt-nghiệp các khoá 22B, 23 và 24 Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt chuyển sang Hải-Quân. Thời-gian thụ-huấn là 6 tháng. Các môn chính nặng về Hải-Nghiệp như Hàng-Hải-lư-thuyết, Vận-Chuyển lư-thuyết, Khí-Tượng, Vận-Chuyển Chiến-Thuật, một số môn phụ do Khối Văn-Hoá-Vụ chọn-lựa và soạn-thảo riêng cho thích-hợp với nhu-cầu. Riêng về các Sĩ-Quan gốc là SVSQ/Hải-Quân, con đường đào-tạo được đi qua tới 4 giai-đoạn như sau: - Giai-đoạn 1: dự tuyển vào Hải-Quân và được gởi thụ huấn Căn-bản Quân-Sự tại Trung-tâm Huấn-Luyện Quang-Trung (TTHL/Quang-Trung) 3 tháng. - Giai-đoạn 2: thụ huấn Kỹ-thuật Tác-chiến Bộ-binh và Lănh Đạo Chỉ-Huy tại các trường huấn-luyện Sĩ-Quan Bộ-binh như Thủ-Đức và Đồng-Đế, thời-gian 6 tháng. Tốt-nghiệp mang cấp-bậc HQ-Chuẩn-Úy CB (CB viết tắt của từ Chiến-Binh). - Giai-đoạn 3: sau khi tốt-nghiệp giai-đoạn 2 kể trên các tân Sĩ-Quan được Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân bổ-sung về phục-vụ các đơn-vị bờ, Căn-cứ Hải-Quân và những đơn-vị tác-chiến sông-ng̣i (trung-b́nh trên dưới 2 năm). - Giai-đoạn 4: bổ-túc Hải-nghiệp tại Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang (6 tháng). Sau khi tốt-nghiệp trở-thành Sĩ-Quan Hải-Quân Ngành Chỉ-Huy và được ưu-tiên chọn các đơn-vị Hạm-Đội hay Hải Đội Duyên-pḥng.406 Khi tốt-nghiệp khoá-sinh vẫn mang cấp-bậc như cũ nhưng đổi chuyên-nghiệp sang ngành chỉ-huy, t́nh-nguyện bây giờ là Hải-Quân407. Hầu-hết các Sĩ-Quan này được chỉ-định phục-vụ trên các chiến-hạm.408
Chương-Tŕnh Sĩ-Quan Hải-Quân Ngành Hiện-Dịch Hải-Quân là một Quân-Chủng gồm những quân-nhân có ngành-nghề chuyên-biệt. Tuy vậy lịch-sử Hải-Quân VNCH có ghi một điều thật là trái với lẽ thường: trường Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam chỉ đào-tạo Sĩ-Quan Hải-Quân ngành Trừ-bị.409 Từ chỗ đứng khiêm-nhường của ḿnh trong quân-lực, Hải-Quân đă không thể nào tự-ư giải-quyết được vấn-đề cho thoả-đáng. Bộ Quốc-Pḥng và Bộ Tổng-Tham-Mưu đă cung-cấp Sĩ-Quan Hiện-Dịch cho Hải-Quân Việt-Nam với cách riêng của họ. Theo kế-hoạch này, Hải-Quân chỉ được cung-cấp các Hải-Quân Thiếu-Úy Hiện-dịch qua Trường Vơ-Bị Quốc-Gia mà thôi. Khoá 16 TVBQG/VN Đà-Lạt là khoá thử-nghiệm đầu-tiên nhưng số-lượng quá ít. Chỉ có 7 Sĩ-Quan410 tham-dự và tốt-nghiệp Khoá 13 SQHQ mà thôi. Việc cung-cấp các Sĩ-Quan cũng như các SVSQ Hiện-dịch cho Hải-Quân không được thi-hành đều-đặn, có lẽ v́ nhu-cầu Sĩ-Quan cho quân-chủng Lục-quân quá lớn.
Một toán SVSQ Hiện-dịch thủ Quốc-Quân-Kỳ thuộc trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt
Kể từ năm 1971, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân huấn-luyện 3 tháng chuyên-nghiệp cho các khoá-sinh trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt trong mùa văn-hoá hàng năm. Đầu năm 1973 có 30 Sinh-Viên Sĩ-Quan Đà-Lạt thuộc 2 khoá 24 và 25 đến thụ-huấn 3 tháng lư-thuyết. Sau khi tốt-nghiệp, các Sĩ-Quan này sẽ phục-vụ Hải-Quân ngành Hiện-dịch. Theo Cựu HQ Thiếu-Uư Nguyễn-Đức-Phương411, Khoá 27/TVBQG/VN nhập-khoá ngày 27/12/1970 và măn-khoá ngày 27/12/1974. Đây là khoá thứ ba liên quân-chủng của TVBQG/VN. Theo chỉ thị của Bộ Tổng-Tham-Mưu, 1/8 quân-số của mỗi khoá sẽ được tuyển-chọn để gia-nhập Hải-Quân. Kết-quả là khoá 27 có 24 người sang Hải-Quân.
Cấp-Hiệu chính-thức sau cùng của Hải, Lục, Không-Quân thuộc Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà.
Cấp-Hiệu cấp Đô-Đốc Hải-Quân, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà.
Hoa-Kỳ, Đến cũng Nhanh mà Đi cũng Chóng Cuộc Hành-Quân Trần-Hưng-Đạo vượt-biên năm 1970 mở đầu cho chương-tŕnh chuyển-giao các cuộc hành-quân SEALORDS của Hoa-Kỳ thành các cuộc hành-quân Trần-Hưng-Đạo do Hải-Quân Việt-Nam đảm-trách. Vào tháng 6 năm 1971, công-việc chuyển-giao đă hoàn-tất412. Về phía Hoa-Kỳ, ngoại-trừ một thành-phần Trực-thăng Vơ-trang, Lực-Lượng Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam đă hoàn-toàn triệt-thoái khỏi Việt-Nam. Một Sĩ-Quan HQVN cấp Đô-Đốc đă nhận-xét như sau: "Âu cũng là một đặc-tính của Hoa-Kỳ, đến cũng nhanh mà đi cũng chóng."413 Hoa-Kỳ đă vội-vàng đổ-quân tham-chiến, rồi lại rút-lui nhanh-chóng khi chưa đạt được chiến-thắng sau cùng. Sự hiện-diện ngắn-hạn của Quân-Đội Hoa-Kỳ đă tác-hại đến khả-năng quyết-thắng của Quân-Lực VNCH. Bàn về đường lối chiến-tranh của Mỹ thời đó, Giáo-Sư Phạm-Kim-Vinh đă viết rằng: “... Tại Hội-nghị Paris 1970-1973, nước Mỹ đạt thoả-hiệp (nhục-nhă) với Hà-Nội để cho quân Mỹ được hồi-hương (hay trốn chạy) trong an-toàn. Trong khi đó, quân Bắc-Việt không hề được Mỹ yêu-cầu phải rút ra khỏi lănh-thổ Nam Việt-Nam. Khi mang quân tới Nam Việt-Nam414, người Mỹ đă làm tiêu-tan chính-nghĩa của Nam Việt-Nam. Khi (hèn-nhát) rút đi người Mỹ làm tiêu-tan chút chính-nghĩa c̣n sót lại của Việt-Nam Cộng-Hoà qua việc thừa-nhận cái quái-thai chính-trị của CS Hà-Nội là Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam...”415
Tem thư “mừng Ngày Quân-Lực 19-6-1971”của Hoạ-Sĩ Vi-Vi Vơ-Hùng-Kiệt.
Phụ-bản về ACTOVRAD Tài-liệu của Ông Trần-Trọng-Hải. Hệ thống RADAR pḥng vệ duyên hải Nam Việt-Nam gồm có 15 Đài Kiểm-Báo (ĐKB) trên đất liền và một đài là tầu hải đăng (HQ 460 có tên là Kiểm Báo Hạm Ba-Động neo tại vùng biển Ba-Động cách bờ 6 hải lư nằm giữa Côn-Sơn và Vũng-Tàu). Vị trí các đài như sau:
1 ĐKB 101 . Nằm trên đỉnh núi HỒN VƯỢN giữa HUẾ và QUẢNG TRỊ. 2 ĐKB 102 . Nằm trên đỉnh núi SƠN TRÀ, ĐÀ NẴNG. 3 ĐKB 103 . Nằm trên đỉnh núi phía đông CÙ LAO RÉ. 4 ĐKB 104 . Nằm trên đỉnh núi thuộc ĐÚC PHỔ, QUẢNG NGĂI. 5 ĐKB 201 . Nằm trên đỉnh đồi sát cửa biển ĐỀ GI, TAM QUAN 6 ĐKB 202 . Nằm trên đỉnh núi CHÓP CHÀI thuộc TUY H̉A. 7 ĐKB 203 . Nằm trên đỉnh núi H̉N TRE, NHA TRANG. 8 ĐKB 204 . Nằm trên đỉnh núi cùng vị trí với hải đăng MŨI DINH. 9 ĐKB 301 . Nằm trên đỉnh núi TÀ KÚ thuộc PHAN THIẾT. 10 ĐKB 302 . Nằm trên đỉnh NÚI LỚN, VŨNG TÀU. 11 ĐKB 303 . Nằm trên đỉnh núi lớn CÔN SƠN. 12 ĐKB 304 . Nằm trên HQ 460 neo tại cửa BA ĐỘNG. 13 ĐKB 401 . Nằm trên đỉnh núi cùng vị trí với hải đăng H̉N KHOAI. 14 ĐKB 402 . Nằm trên đỉnh núi H̉N NAM DU. 15 ĐKB 403 . Nằm trên đỉnh núi AN THỚI. 16 ĐKB 404 . Nằm trên đỉnh núi H̉N DỌC trong quần đảo HẢI TẶC.
Các máy RADAR trang bị trên các Đài Kiểm Báo trên đất liền là loại RADAR của Thủy Quân Lục Chiến HOA KỲ, mang danh hiệu: UPS-1B. Những máy này được Hải Quân HOA KỲ biến cải cho phù hợp với nhu cầu của Hải Quân Việt Nam. Sau khi biến cải, các RADAR này mang danh hiệu mới là: TPS-62. Tất cả những Đài Kiểm Báo trên đất liền đều được trang bị máy TPS-62 với đầy đủ các cơ phận và phụ tùng thay thế. Riêng Kiểm Báo Hạm BA ĐỘNG, được trang bị loại RADAR mang danh hiệu RAYTHEON-1500B, giống như đa số các máy RADAR trên các chiến hạm cỡ nhỏ.
Ông Trần-Trọng-Hải, HQ Trung-Tá Cựu Hạm-Trưởng HQ-16, cũng là Giám Đốc chương tŕnh ACTOVRAD (1970-1972).
Chương 5
Giai-đoạn Trưởng-thành (1972-1974)
Giai-đoạn trưởng-thành của Hải-Quân VNCH được kể từ cuối năm 1972. Khi đó toàn-thể quân chính-quy 516,000, c̣n Quân-số Hải-Quân, không kể TQLC, lên tới khoảng 42,000 Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên.
Lục-Quân Không-Quân Hải-Quân TQLC Tổng-Số 1954-55 170,000 3,500 2,200 1,500 177,200 1959-60 136,000 4,600 4,300 2,000 146,000 1964 220,000 11,000 12,000 7,000 250,000 1967 303,000 16,000 16,000 8,000 343,000 1968 380,000 19,000 19,000 9,000 427,000 1969 416,000 36,000 30,000 11,000 493,000 1970 416,000 46,000 40,000 13,000 515,000 1971-72 410,000 50,000 42,000 14,000 516,000
Bảng kế-hoạch quân-số Việt-Nam Cộng-Hoà 1954-1972.
Cũng nơi cầu tàu quân-cảng Sài-G̣n này 10 năm về trước, HQVN chỉ có các Hộ-Tống-Hạm PC 400 tấn. Vào đầu thập-niên 1970, người ta nh́n thấy các Tuần-Dương-Hạm 2,800 tấn.
Năm 1972 Đầu năm 1972, Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang [TTHL/HQ] bắt đầu khai-giảng khoá 1 Đặc-Biệt Sĩ-Quan Hải-Quân [SQHQ] 416 Theo kế-hoạch Actov, Hải-Quân Việt-Nam nhận tiếp: - Ba Tuần-dương-Hạm (WHEC) Phạm-Ngũ-Lăo HQ-15, Lư-Thường-Kiệt HQ-16, và Ngô-Quyền HQ-17.417 - Một Hoả-Vận-Hạm, HQ-475. - Và hầu-hết các Căn-cứ Hải-Quân do Hải-Quân Hoa-Kỳ tạo-lập trước đây. Bốn Sĩ-Quan tu-nghiệp tại trường Hậu-Đại-học Naval Postgraduate School ở Monterey, California. Chương-tŕnh ACTOVLOG báo-cáo các dự-án sau cùng đă xong vào tháng 4 năm 1972. Các Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận Nhà-Bè, B́nh-Thuỷ, Cam-Ranh, Đà-Nẵng đă hoàn-toàn thuộc về Hải-Quân Việt-Nam. Chương-tŕnh ACTOVRAD hoàn-tất việc thiết-trí và bàn-giao 16 đài radar Kiểm-Báo (trong đó có một Kiểm-Báo-Hạm) vào tháng 8 năm 1972. Ngày Quân-lực 19-6-1972, 5 Sĩ-Quan cấp Đại-tá gồm TMT/HQ và 4 Tư-lệnh Lực-Lượng được thăng-cấp Phó-Đề-Đốc. Tính tới cuối năm 1972, tổng-số chiến-hạm, chiến-đĩnh và chiến-thuyền đă tăng lên đến hơn 1,500 chiếc. Có đến 16 Căn-Cứ Yểm-Trợ và Tiền-Doanh Yểm-Trợ Tiếp-vận.418
Tuần-dương-Hạm (WHEC) Phạm-Ngũ-Lăo HQ-15 tŕnh-diễn ngang khán-đài.
Radar trên Đài Kiểm-báo Ḥn-Tre
Vị-trí 16 đài radar Kiểm-Báo419 (trong đó có Kiểm-Báo-Hạm Ba-Động 304).
Thuỷ-Quân Lục-Chiến và Chiến-trận Vùng Giới-Tuyến Trong năm này, Bắc-Quân ào-ạt tấn-công vào lănh-thổ Vùng I, II, III và IV của Việt-Nam Cộng-Hoà. Mở-màn được ít lâu, Vùng IV tương-đối yên-lặng, c̣n lại cả ba mũi tiến-công vào Ban-Mê-Thuột, B́nh-Long và Quảng-Trị cũng đều bị chặn lại. Thấy khó đạt được ư-định chiếm-đóng Ban-Mê-Thuột hay B́nh-Long, Trung-Ương đảng Cộng-Sản quyết-định đổi diện thành điểm, tăng-cường thêm lực-lượng nhắm vào Vùng giới-tuyến là nơi gần với hậu-phương Bắc-Việt hơn cả. Cuộc chiến bùng-nổ mạnh hơn tại Quảng-Trị vào cuối tháng 3/1972, sôi-động nhất là vào Mùa Xuân, Hè 1972. Hải-Quân VNCH tại Vùng Duyên-hải đă sử-dụng tối-đa khả-năng trang-bị để yểm-trợ cho những đơn-vị bộ-chiến hoạt-động tại vùng ven biển của hai quận Hải-Lăng và Triệu Phong.420 Trên bộ, trận Quảng-Trị được mô-tả là khủng-khiếp, ác-liệt, đẫm máu không thua ǵ các trận đánh đẫm máu khác trên thế-giới. Sau khi chiếm được Thị-Xă Quảng-Trị, Cộng-Quân bị Lữ-Đoàn 369 TQLC chặn-đứng bước tiến vào ngày 3-5-72. Một vài hoạt-động phối-hợp giữ các Lực-Lượng đồng-minh Việt-Mỹ rất có hiệu-quả tại khu-vực duyên-hải gần hoả-tuyến như sau: - Ngày 13-5-72, dùng Trực-thăng TQLC Hoa-Kỳ trên Chiến-Hạm Okinawa (LPH 3), TQLC Việt-Nam bất-thần đổ-bộ nhiều cây-số đằng sau pḥng-tuyến của Cộng-Sản. - Ngày 24-5-72, rồi liên-tiếp cả ngày 29-6-72, với các phương-tiện thuỷ-bộ của Hải-Quân, Lục-Quân VNCH đă đổ-bộ đánh vào sườn của địch và chiếm cả hậu-tuyến của chúng.
Đầu năm 1972, CSBV ào-ạt tấn-công khắp lănh-thổ VNCH nhưng không đạt mục-tiêu. Cuối Xuân sang Hè, chúng dồn nỗ-lực tấn-công Quảng-Trị. Mũi dùi TQLC từ phía bờ-biển đánh lên, phối-hợp với sự yểm-trợ phi-pháo và hải-pháo đă đẩy Cộng-Quân Bắc-Việt phải rút-lui. Sau đó Sư-Đoàn TQLC và các lực-lượng bạn đă ngày đêm giao-tranh với địch, giành lại từng tấc đất đă mất. Ngày 16-9-1972 vào hồi 12 giờ 45 phút trưa, chính TQLC đă cắm được cờ VNCH trở lại trên cổ-thành Quảng-Trị.421 Các cuộc yểm-trợ hải-pháo của các chiến-hạm Hạm-Đội rất đắc-lực,422 giúp Quân-lực VNCH giữ vững các vị-trí khác dọc duyên-hải Vùng 1 và Vùng 2 Chiến-Thuật.
Những cuộc Hành-Quân Tiếp-cứu Những cuộc Hành-Quân tiếp-cứu trong chiến-tranh xảy ra rất thường nhưng trường-hợp cứu Trung-Tá Không-Quân HK Hambleton khi thi-hành phi-vụ mật "BAT 21" ở vùng gần Giới-tuyến 17 là nổi tiếng hơn cả. Có cả sách, báo, tiểu-thuyết đă viết và Hollywood quay thành phim-ảnh vế chuyến công-tác cứu-cấp gian-nan này. Hạ-Sĩ I Người-Nhái Hải-Quân Việt-Nam Nguyễn-Văn-Kiệt với thành-tích phi-thường của anh và Hải-Quân Đại-Úy Tom Norris đă cứu-thoát Trung-Tá Hambleton thuộc Không-Lực Hoa-Kỳ khi phản-lực-cơ "Điện-Tử Tiền-Thám" (Electronic Early Warning) của ông này bị hoả-lực pḥng-không của CSBV bắn rơi tại Đông-Hà, Quảng-Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972. Chiến-công này đă được HQHK vinh-danh. HQ Đại-Úy Norris đă được trao-tặng huy-chương cao-quư nhất của Quân-đội Hoa-Kỳ Medal of Honor. Riêng Hạ-Sĩ I Kiệt là người "ngoại-quốc" (không phải là người Hoa-Kỳ) duy-nhất trong cuộc chiến-tranh Việt-Nam được nhận-lănh Hải-Quân Huân-Công Bội-Tinh (Navy Cross) cao-quư nhất của Hải-Quân Hoa-Kỳ.
Trung-Cộng và những Bao Gạo tiếp-tế cho CS Việt-Nam Trong nỗ-lực đẩy mạnh cuộc chiến-tranh xâm-lược Việt-Nam Cộng-Hoà, Cộng-Sản đă đưa toàn-thể Miền-Bắc lâm vào hoàn-cảnh kiệt-quệ. Đặc-biệt dân-chúng những tỉnh sát phía Bắc Vĩ-tuyến 17 rất đói khổ. V́ bom-đạn đổ xuống khu-vực gần đầu đường ṃn Hồ-Chí-Minh, dân Quảng-B́nh đă nhiều năm không canh-tác được ruộng-vườn, trong khi đó lương-thực lại bị Cộng-Sản dùng nuôi Quân-đội. Trong những ngày đen-tối nhất của quân xâm-nhập, Trung-Cộng đă tiếp-tế cho đồng-bọn Cộng-Sản Việt-Nam bằng đường biển. V́ Cộng-Sản không có phương-tiện tân-tiến như máy-bay thả dù, lại không dám đương-đầu với Hải-Quân VNCH và Đồng-minh; Trung-Cộng dùng những tàu vơ-trang giả-dạng thương-thuyền đi làm việc tiếp-tế một cách lén-lút. Từ hải-phận quốc-tế, Trung-Cộng cho các bao gạo 100 kg bọc trong nhiều lớp nylon rồi thả-trôi từ ngoài xa, hy-vọng ḍng nước và gió-mùa Đông-Bắc sẽ đẩy gạo vào bờ.
Không-ảnh một tàu Trung-Cộng đang thả gạo cho đồng-bọn Cộng-Sản Bắc-Việt bằng đường biển. Những tàu vơ-trang giả-dạng thương-thuyền đi làm việc tiếp-tế này một cách lén-lút.
Do sự tính-toán sai-lầm gió nước, rất nhiều bao gạo tiếp-tế Cộng-Sản Bắc-Việt như vậy xuôi Nam, lọt vào tay người phe Quốc-gia. Các chiến-hạm, chiến-đĩnh trong khi tuần-dương Vùng 1 Duyên-Hải; vớt được rất nhiều, có khi đến hàng trăm bao gạo trong một chuyến công-tác.
Năm 1973 Sau ngày kư-kết Hiệp-Định Ngừng Bắn 27-1-1973, tất cả quân-nhân Hoa-Kỳ rút ra khỏi Việt-Nam. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam NAVFORV được chính-thức giải-tán vào ngày 29 tháng 3 năm 1973. Từ khi HQHK rút đi, Hải-Quân VNCH tại Vùng 1 Duyên-Hải và một số chiến-hạm tăng-phái đóng-góp đáng kể vào những chiến-thắng chung của QL/VNCH, đặc-biệt trong cuộc hành-quân tổng-phản-công tái-chiếm Sa-Huỳnh vào tháng 2/1973. Trong khi đó, Hải-Quân Công-Xưởng đă đào-tạo được một đội-ngũ chuyên-viên kỹ-thuật cao. Được hưởng một ngân-khoản 8 triệu Mỹ-kim để gia-tăng kinh-phí cải-thiện, cho đến đầu năm1973, HQCX hoàn-tất việc hạ-thuỷ 58 chiến-thuyền ferro-cement423, trong đó một số Duyên-Tốc-Đĩnh PCF với kiểu vẽ vỏ tàu rất đẹp mắt. Hơn nữa, HQCX c̣n đủ khả-năng đại-kỳ các chiến-hạm tối-tân nhất của HQVN lúc đó.
Vỏ tàu Duyên-Tốc-Đĩnh PCF ferro-cement do HQCX vẽ kiểu trông rất đẹp mắt.
Công-tŕnh làm Vỏ tàu Duyên-Tốc-Đĩnh PCF ferro-cement tại HQCX.
Về Huấn-luyện, đầu năm 1973 có 30 Sinh-Viên Sĩ-Quan Đà-Lạt thuộc 2 khoá 24 và 25 đến thụ-huấn 3 tháng lư-thuyết tại Trường Sĩ-Quan Hải-Quân Nha-Trang. Các khoá 3 tháng của Sinh-Viên trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt nhằm chú-trọng vào các môn Hải-Nghiệp như Vận-Chuyển, Hàng-Hải lư-thuyết và thực-hành. Trong năm này, 6 Sĩ-Quan Hải-Quân được sang Hoa-Kỳ tu-nghiệp tại Naval Postgraduate School ở Monterey, California.424 - Các khoá huấn-luyện tiếp-tục tiến-triển, đặc-biệt về chỉ-huy, tham-mưu. - Để đánh dấu sự trưởng-thành, nhằm ngày kỷ-niệm Thánh-Tổ (20 tháng 8 âm-lịch), các đơn-vị Hải-Quân Việt-Nam tổ-chức một cuộc tŕnh-diễn lớn-lao trên sông Sài-G̣n. Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu đă đến chủ-toạ cuộc lễ.425
Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam, Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn, tháp-tùng Tổng-Thống VNCH Nguyễn-Văn-Thiệu duyệt các chiến-hạm HQVNCH trên sông Sài-G̣n.
Các Tuần-Giang-Đĩnh đang diễn-hành ngang qua Khán-đài Danh-Dự. Cận-cảnh là Tuần-Dương-Hạm Trần-Quang-Khải HQ-2 trương đại-kỳ.
Các Trợ-Chiến-Đĩnh ASPB đang diễn-hành trên Sông Sài-G̣n.
Bản Báo-cáo T́nh-trạng HQ Việt-Nam-hoá khi HQHK Triệt-thoái Như một đoạn trên đă tŕnh-bày, Hải-Quân Hoa-Kỳ nhảy vào trực-tiếp tham-chiến trong khoảng 3 năm th́ từ-từ rút ra khỏi Việt-Nam. Sau khi hoàn-tất giai-đoạn trợ-giúp HQVN bành-trướng, Bộ Tư-Lệnh HQHK tại Việt-Nam (COMNAVFORV) đă soạn-thảo một báo-cáo. Bản tường-tŕnh tổng-kết được trực-tiếp gửi lên Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương (CINCPACFLT), thông-báo Bộ Quốc-Pḥng Hoa-Kỳ và các cơ-quan liên-hệ. Nhan-đề tài-liệu Mật là "Bản báo-cáo t́nh-trạng Việt-Nam-hoá khi HQHK triệt-thoái". Phần nhận-xét về Hải-Quân Việt-Nam được tường-tŕnh như sau: "Kết-luận lại, Hải-Quân Việt-Nam và Thuỷ-Quân Lục-chiến Việt-Nam đă được lượng-giá cả hai ngành là thành-công và đạt được tiêu-chuẩn đă ước-định, đủ khả-năng thi-hành nhiệm-vụ giao-phó ngay trong hiện-tại và cả trong tương-lai cận-kề. Riêng trường-hợp HQVN, khả-năng tác-chiến hiện nay đă đầy-đủ nhưng để cho tổ-chức này tiến được tới mức tự-túc, chắc-chắn cần phải có những biện-pháp cải-thiện các khuyết-điểm"426.
Vi-Phạm Ngưng-bắn Kể từ tháng 02 năm 1973, mặc-dù Cộng-Sản Bắc-Việt đă kư-kết hiệp-định ngưng bắn, tái-lập hoà-b́nh tại Ba-Lê ngày 27 tháng 01 năm 1973, nhưng vẫn ngoan-cố vi-phạm, công-khai tấn-công vào các Lực-Lượng thuộc Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà. Hải-Quân Việt-Nam đă ghi-nhận tất cả 827 vụ vi-phạm do CSBV gây ra cho các đơn-vị Hải-Quân, gồm có: 575 vụ tấn-công, 155 vụ pháo-kích và 97 vụ đánh ḿn, gài lựu-đạn. Để tự-vệ, Hải-Quân đă gây thiệt-hại cho CSBV trong thời-gian này như sau: 263 CSBV bị giết và 16 CSBV bị bắt, ngoài ra ta c̣n tịch-thu 57 súng cá-nhân và phá-huỷ hàng trăm quả ḿn, lựu-đạn...
Hải-chiến Hoàng-Sa Ngày 19 tháng 01 năm 1974, Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam gồm có 1 Khu-Trục-Hạm (HQ-4), 2 Tuần-Dương-Hạm (HQ-5, HQ-16) và 1 Hộ-Tống-Hạm (HQ-10) đă anh-dũng chiến-đấu chống-trả cuộc xâm-lăng của Đế-quốc Trung-Cộng vào quần-đảo Hoàng-Sa thuộc lănh-thổ Việt-Nam Cộng-Hoà.427 Bộ Ngoại-giao Việt-Nam Cộng-Hoà ra tuyên-cáo ngay trong ngày đó, đại-ư như sau: Sáng ngày hôm nay 19.1/1974, hồi 10 giờ 20, để bảo-vệ lănh-hải, Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư mang số HQ-4, 428 đă pháo-kích vào Hộ-Tống-Hạm Trung-Cộng429... mở đầu trận Hải-Chiến Hoàng-Sa.430 Website Trung-Cộng viết: Những trái đạn đầu tiên từ HQ-4 bắn ra, do ngắm từ lâu nên trúng đích, hạ các Hạm-Trưởng và làm tử-thương chính-ủy (Mă Ṭng Bách 马松柏) .(Dịch âm Hán-Việt từ : Nam việt quân hạm đích đệ nhất pháo miểu chuẩn đích thị trung phương hạm đĩnh đích chỉ huy thai, do vu ḱ miểu chuẩn liễu ngận trường th́ gian, sở dĩ pháo đạn đả đích ngận chuẩn. Nhất bài pháo hạ lai, trung phương đích kỉ cá hạm trường dữ chánh ủy phi tử tức thương)431… Theo Tài-liệu và h́nh-ảnh trưng-bày của Trung-Cộng, trong giai-đoạn chót của Hải-chiến; HQ-4 tả-xung hữu-kích giữa các chiến-hạm địch. Trừ Tảo-Lôi-hạm 389 đang nguy-cấp, các tàu Trung-Cộng 271/274/396 “tập-trung cận-xạ” vào HQ-4 vv… Phía Việt-Nam, Sĩ-Quan Chỉ-Huy ra lệnh đoạn-chiến hồi 11:00 trong khi Hạm-đội địch ào-ạt tăng-cường.
H́nh-ảnh tại cầu tàu Tiên-Sa Đà-Nẵng sáng ngày 20-1-1974. Hậu-cảnh là HQ-4, nhân-viên đang làm việc tu-bổ chiến-hạm. Từ phải sang trái: HQ Đại–tá Hà-Văn-Ngac (bị thương ở chân v́ vấp té), CHT/HhQ; HQ Trung-Tá Vũ-Hữu-San, HT/HQ-4; Tư-Lệnh Hải-Quân VNCH; HQ Đại–tá Nguyễn-Viết-Tân, CHT Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải; 2 Sĩ-Quan Biệt-Hải và 2 Sĩ-Quan Người-Nhái.
Nhận-xét về tương-quan lực-lượng Hải-Quân đôi bên trong trận Hải-chiến này, Đại-Tướng Cao-Văn-Viên, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QLVNCH thời ấy đă viết như sau: “Hải-Quân Việt-Nam được trang-bị cho nhiệm-vụ chính-yếu là tuần-tiễu các vùng sông-ng̣i và ngăn-chặn địch-quân xâm-nhập vào vùng duyên-hải, thực-sự không phải là đối-thủ của một Hải-Quân tân-tiến như Hải-Quân Trung-Cộng trong một trận Hải-chiến tuy ngắn-ngủi nhưng ác-liệt tại Hoàng-Sa vào năm 1974”.432 Có nhiều bài viết và sách báo quốc-tế đă bênh-vực cho lẽ phải chủ-quyền của Việt-Nam433. Riêng pho sách bàn-luận về chiến-lược Hải-lực Thế-giới "Conway's All the World's Fighting Ships 1947-1982" đă đề-cao tinh-thần kiên-quyết của HQVN chống xâm-lược. Chủ-biên là Robert Gardiner viết rằng: "Không những chiến-hạm Việt-Nam đă dũng-cảm bắn ch́m hai tàu địch, gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác của Siêu-cường Trung-Cộng ngoài Hoàng-Sa, mà lại c̣n (có khả-năng) gửi thêm quân pḥng-thủ tăng-cường cho Trường-Sa tiếp-tục chặn-đứng âm-mưu lấn-chiếm của chúng."434 Đổi lại, thiệt-hại của HQVNCH rất nhẹ, chỉ có Hộ-Tống-Hạm HQ-10 bị ch́m.435
Tổng-kết thiệt-hại của HQ Trung-Cộng và HQ Việt-Nam Nhờ thi-hành những âm-mưu thâm-độc và lợi-dụng đúng thời Việt-Nam Cộng-Hoà suy-yếu; Trung-Cộng đă xâm-lăng cưỡng-chiếm được cả vùng biển đảo này của VNCH. Thế nhưng nếu chỉ nh́n vào góc-cạnh nhỏ-bé là hải-chiến không thôi, Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà với tinh-thần quyết-tử đă hoàn-toàn chiến-thắng địch-quân436. Tổng-kết thiệt-hại đôi bên chứng-minh rơ-ràng điều đó. Khi bàn-luận về Hải-lực Thế-giới, giới quân-sự tin-tưởng ở những báo-cáo chính-xác như của "Conway's All the World's Fighting Ships 1947-1982" v́ uy-tín quá lớn của Ban Biên-Tập và Nhà Xuất-bản kỳ-cựu hàng mấy thế-kỷ qua. Như trên đă nói, Chủ-biên Robert Gardiner viết ngắn-gọn: "chiến-hạm Việt-Nam đă bắn ch́m hai tàu địch, gây hư-hại nặng cho 2 chiếc khác của Trung-Cộng. Thiệt-hại của HQVNCH rất nhẹ, chỉ có một Hộ-Tống-Hạm bị ch́m. Theo Bách-Khoa Từ-Điển Wikipedia Encyclopedia, từ-mục “Battle of Hoang Sa 1974” căn-cứ vào các nguồn tin Trung-Cộng th́ có tất cả 6 chiến-hạm (TC) trúng đạn của Hải-Quân Việt-Nam. Nguyên-văn: From the sources of China, on the Chinese side, all No. 274, No. 271, No. 389 and No. 396 were hit, No. 281, No. 282, No. 402 and No. 407 malfunctioned; on Vietnamese side, HQ-10 was sank. China captured 48 prisoners, including 1 American.437 Phía VNCH, vào ngày 19-1-1974, Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH lập-tức công-khai phát-thanh hay đưa lên mặt báo về kết-quả trận đánh Hoàng-Sa. Một tập tài-liệu có thể gọi được là tiêu-chuẩn, nhan-đề “Thế-giới lên án Trung-Cộng Xâm-lăng Hoàng-Sa của Việt-Nam” tường-tŕnh tổn-thất đôi bên như sau: VNCH: 1 chiếc chiến-hạm bị hư-hại toàn-diện, 1 chiếc bị hư-hại nặng, 2 chiếc bị hư-hại nhẹ. Trung-Cộng: 1 chiến-hạm loại Kronstadt bi cháy toàn-diện và đắm-ch́m, 1 chiếc bị trúng đạn hư-hại nặng, phải ủi vào bờ, sau đó nổ-tung, 2 chiếc bị hư-hại nặng.438 Và sau cùng, muốn xác-nhận lại kết-quả, người ta xem tài-liệu Trung-Công viết ra sao. Tuy Quân-đội Trung-Cộng thường tuyên-truyền, nhưng cũng đă nói ra sự thật. “http://military.china.com/zh_cn/bbs/11018441/20040713/11779747.html” là trang thuộc mạng-lưới điện-toán của họ trưng-bày hai h́nh-ảnh mà họ gọi là “lịch-sử” sau đây: (1) H́nh chiếc T-389 (Tảo-Lôi-Hạm) ch́m tại Hoàng-Sa (trưng-bày tại Bảo-Tàng-Viện HQ, Qingdao Navy Museum) và (2) H́nh Liệp-Tiềm-Đĩnh K-274 sau khi trục-vớt, được một chiếc Trục-Vớt-Hạm kèm hông đưa về bến. Một số người tượng-trưng đứng đón chiếc tàu tơi-tả, hoàn-toàn bất-khiển-dụng đang được đẩy vào cầu tàu.
389艇遭越舰重创后抢滩成功(某军迷网友翻拍自青岛海军博物馆)439 H́nh trưng-bày tại Bảo-Tàng-Viện HQ/TC (Qingdao Navy Museum) về Tảo-Lôi-Hạm T-389 ch́m tại Hoàng-Sa.
274号猎潜艇---西沙海战的主力舰艇之一 图为274艇从西沙巡航回到亚龙湾时的情景440 H́nh Liệp-Tiềm-Đĩnh K-274 được một chiếc Trục-Vớt-Hạm kèm hông đưa về bến.
Đặc-biệt theo Trung-Cộng th́ ngoài những hoạt-động tác-chiến của HQVNCH cũng tương-tự như các bản tường-tŕnh của VNCH441, nhưng “thời-khoảng” hải-chiến Hoàng-Sa của họ lại khác. Trong một số báo-cáo Hải-chiến, Trung-Cộng cho rằng cuộc chiến kéo dài tới hơn 4 tiếng đồng-hồ442. Diễn-tiến “tác-chiến” sau hồi 11:00 được kể lại kèm với các công-tác khẩn-cấp pḥng-tai và cứu-trợ nhau để tàu khỏi ch́m.443 Đặc-biệt là sự “tác-chiến anh-dũng” của hai Hộ-Tống-Hạm cao-tốc 30.5 gút (281 & 282). Dưới sự điều-động của (Hải) Đội-Trưởng Lưu-Hi-Trung, hai Liệp-Tiềm-Đĩnh444 này “nhập chiến-tràng” bắn ch́m HQ-10 của HQVN vào hồi 2 giờ 52 phút chiều.
V́ HQ Trung-Cộng tại Hoàng-Sa đă bị tê-liệt, lại sợ tàu HQVN phản-ứng bất-lợi, Quân-Ủy Trung-Ương TC phải ra lệnh vội-vă cho 2 Liệp-Tiềm-Đĩnh lớp 037 cao-tốc (30.5 gút) này chạy đến thanh-toán HQ-10 vào buổi chiều ngày 19-1-1974.
H́nh trái: HQ Đại-Tá Hà-Văn-Ngạc, Chỉ-Huy-Trưởng cuộc Hành-Quân Bảo-Vệ Hoàng-Sa trong giai-đoạn chót khi hải-chiến. H́nh phảii:HQ Thiếu-Tá Ngụy-Văn-Thà (h́nh chụp khi c̣n là SVSQ), vị Hạm-Trưởng chết theo chiến-hạm HQ-10. * * *
Ngày HQ-4 trở về Quân-Cảng Sài-G̣n. Trong tiếng hát hùng-tráng "Tiếng Sóng Vân-Đồn", Đô-Đốc Diệp-Quang-Thuỷ và toán danh-dự chào-đón, Ban Nghi-Lễ mời một số thân-nhân thăm chiến-hạm. Bản tuyên-dương trước Quân-Đội được đọc và Đài Chỉ-Huy chiến-hạm gắn Nhành Dương-Liễu thứ nh́, Thuỷ-Thủ-Đoàn mang thêm Giây Biểu-Chương màu Anh-Dũng Bội-tinh.
Những h́nh trên đây là các chiến-hạm thuộc Lực-Lượng Hải-Quân Việt-Nam: Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư (HQ-4), 2 Tuần-Dương-Hạm Trần-B́nh-Trọng (HQ-5), Lư-Thường-Kiệt (HQ-16) và Hộ-Tống-Hạm Nhật-Tảo (HQ-10).
Vị-trí Quần-đảo Hoàng-Sa, nơi diễn ra trận hải-chiến ngày 19-1-1974.
Sơ-đồ điều quân của trận hải-chiến Hoàng-Sa quanh hai đảo Duy-Mộng và Quang-Hoà Đông (chữ Nho là ghi-chú của phía Trung-Cộng, vị-trí chiến-hạm TC khá phù-hợp với thực-tế). Sơ-đồ này dựa theo các vị-trí trong Phúc-tŕnh Hành-Quân Hoàng-Sa của Soái-hạm HQ-5 có chữ kư và đóng dấu của HQ Trung-Tá Pham-Trọng-Quỳnh.
H́nh-ảnh Kronstadt 274 và 271 của Trung-Cộng, chụp từ Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4 (khoảng cách chừng 400 và 450m) ngay trước trận hải-chiến một giờ. Lưu-ư Chiến-hạm Trung-Cộng 274 chĩa tất cả hải-pháo thẳng vào HQ-4, trong khi súng sân sau chiếc 271 cũng vậy, sẵn-sàng nhả đạn.
Một bản hùng-ca về Hải-Chiến Hoàng-Sa: “HQ-4 đánh ch́m tàu Trung-Cộng”.
Yếu-tố tập-kích bất-ngờ với số-lượng lớn-lao những chiến-đĩnh có vận-tốc cao đă từng được dự-trù trong kế-hoạch tái-chiếm Hoàng-Sa.
Đặc-tính của Hộ-Tống-Hạm Kronstadt thuộc Lực-Lượng Hải-Quân Trung-Cộng. Lưu-ư là HQ-4 có cỡ hải-pháo nhỏ hơn nhiều, chỉ 3 inches mà thôi.
Đặc-tính của Trục-Lôi-Hạm T 43 thuộc Lực-Lượng Hải-Quân Trung-Cộng. Vũ-khí sân trước, thay v́ 37 ly kép tiêu-chuẩn, hai tàu tham-chiến 389 và 396 đều được trang-bị súng 3.9 in.
Hải-Quân Công-Xưởng và các Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận Là một cơ-xưởng có tiềm-năng lớn, HQCX không chịu ảnh-hưởng tức-thời của sự cắt-giảm quân-viện. Khả-năng của HQCX tiếp-tục gia-tăng nhiều trong những năm cuối-cùng của cuộc chiến. Hàng năm, HQCX vẫn thực-hiện được 2,865,073 giờ sản-xuất, trong đó dành cho sửa-chữa chiến-hạm 1 triệu giờ, sửa-chữa bất-thường gần 1,1 triệu giờ và đóng mới các loại tàu tuần-duyên Cement lưới thép445 chiếm 237 ngàn giờ. Kể từ năm 1973, các Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận cũng tiến-bộ, đủ khả-năng kỹ-thuật để đại-kỳ những Tuần-Duyên-Hạm PGM.
Bảng Tổng-kết Thành-tích đầu Năm 1973 Từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 1 năm 1973, Hải-Quân Việt-Nam đă tạo được những thành-tích446 như sau: Nhân-mạng: - 2219 Cộng-Sản Bắc-Việt bị chết - 1277 Cộng-Sản Bắc-Việt bị bắt - 6798 T́nh-nghi bị giữ - 509 Hồi-chánh-viên Vũ-khí: Ta tịch-thu được: - 382 súng cộng-đồng - 2851 súng cá-nhân Số ghe tàu đánh-đắm và tịch-thu: Từ năm 1965 đến tháng 1 năm 1973, Hải-Quân Việt-Nam đă tịch-thu và đánh-đắm các ghe tàu Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-nhập hải-phận Việt-Nam Cộng-Hoà: - 467 ghe xuồng-bị tịch-thu - 14 tàu lớn của Cộng-Sản bị đánh-đắm và tịch-thu tại các địa-điểm vào những ngày tháng sau đây: a. Vũng-Rô ngày 19 tháng 02 năm 1965 b. Cửa Tiểu ngày 08 tháng 01 năm 1966 c. Bồ-Đề ngày 10 tháng 05 năm 1966 d. Ba-Động ngày 20 tháng 06 năm 1966 e. Bồ-Đề ngày 01 tháng 01 năm 1967 f. Mũi Ba-Làng-An ngày 14 tháng 03 năm 1967 g. Sa-Kỳ ngày 15 tháng 07 năm 1967 h. Đức-Phổ ngày 01 tháng 03 năm 1968 i. Ḥn-Hèo ngày 01 tháng 03 năm 1968 j. Cửa-Việt ngày 01 tháng 03 năm 1968 k. Bồ-Đề ngày 01 tháng 03 năm 1968 l. Cung-Hầu ngày 22 tháng 11 năm 1970 m. Gành-Hào ngày 12 tháng 04 năm 1971 n. Phú-Quốc ngày 24 tháng 04 năm 1972.
Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải Năm 1974, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải được thành-lập. Tổ-chức lănh-thổ VNCH gồm 4 Quân-Khu. Theo lẽ thường Hải-Quân cũng cần tổ-chức ra 4 Vùng Duyên-hải. Tuy-nhiên v́ nhu-cầu hành-quân đ̣i-hỏi, sau nhiều lần nghiên-cứu, Hải-quân đă quyết-định thành-lập thêm Vùng 5 Duyên-Hải. Một số trọng-điểm của Vùng này được chính vị Tư-Lệnh Vùng này nêu ra như sau: "Năm-Căn là trọng điểm của vùng đồng-bằng, rừng đước âm u, những khúc sông nguy-hiểm, là sào-huyệt dưỡng-quân của Cộng-Sản, đồng-thời c̣n là vựa lúa bát-ngát có thừa khả-năng nuôi sống cả Miền-Nam. Như thế, ở giữa ḷng địch, dù gặp rất nhiều áp-lực, đầy cam-go nguy-hiểm, nhưng sự hiện-diện của ta đă gây khó-khăn rất lớn cho địch. Địch không có lúc nào yên để dưỡng-quân, sắp-xếp các chiến-dịch to-lớn mà không bị ta làm khó-dễ. Và như ai cũng biết, hàng tháng, đoàn Giang-vận xuất-phát từ Sóc-Trăng, qua các thuỷ-lộ huyết-mạch và nguy-hiểm. Việc chuyển-vận vẫn đi lại điều-hoà từ Sài-G̣n đến Sóc-Trăng và ngược lại. bao-nhiêu ngàn tấn lúa, cá tôm từ đây tiếp-tế cho Sài-G̣n. Và bao-nhiêu tấn phẩm-vật, nhiên-liệu từ Sài-G̣n là nguồn tiếp-tế cho các tỉnh thuộc vùng Cà-Mau và phụ-cận quan-trọng lắm chứ. Không có Năm-Căn làm cứ-điểm, làm sao ta giữ được sự điều-hoà đi lại của đoàn Giang-vận. Sài-G̣n làm sao tiếp-tế được đầy-đủ như vậy"447. Bộ Tư-Lệnh Vùng V Duyên-hải đóng tại Năm-Căn, thuộc tỉnh An-Xuyên. Trực-thuộc Vùng V Duyên-hải, có các đơn-vị cơ-hữu sau đây: - Căn-cứ Hải-Quân Năm-Căn, cũng là nơi đặt Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng V Duyên-hải. - Tiền-Doanh Yểm-Trợ Tiếp-Vận Năm-Căn đồn-trú chung doanh-trại với Căn-cứ Hải-Quân Năm-Căn - Duyên-Đoàn 36 đóng tại Long-Phú, Tỉnh Ba-Xuyên - Duyên-Đoàn 41 đóng tại Ḥn-Khoai c̣n có tên là hải-đảo Giáng-Tiên, tên trên hải-đồ là Poulo-Obi. - Đài Kiểm Báo 401 đặt trên núi Ḥn-Khoai bên cạnh hải-đăng trên đỉnh núi này. - Hải-Đội V Duyên-pḥng, - Giang-Đoàn 43 Ngăn-chặn. - Giang-Đoàn 65 Tuần-Thám, ba đơn-vị sau này đồn-trú chung doanh-trại Căn-cứ Hải-Quân Năm-Căn.
Khu-vực trách nhiệm hoạt-động của Vùng V Duyên-Hải.
Ngoài các đơn-vị cơ-hữu trên, một chiến-hạm thuộc Hạm-Đội được tăng-phái cho V5ZH để tăng-cường hoạt-động duyên-pḥng và yểm-trợ chiến-đĩnh, chiến-thuyền thuộc Hải-Đội 5 Duyên-pḥng, Duyên-Đoàn 36 và 41 trong khi hoạt-động dọc duyên-hải. Đơn-vị tăng-phái gồm: - Một Tiểu-Đoàn Địa-Phương-Quân đóng tại Tân-An, cách cửa Bồ-Đề khoảng hơn 10 cây-số. - Hai Trung-Đội Pháo-Binh 105 ly, một đóng tại BTL/V5ZH, một đóng tại Tân-An. Vùng V Duyên-Hải có nhiệm-vụ giữ-ǵn an-ninh thuỷ-tŕnh các sông-ng̣i liên-hệ trong 3 tỉnh Ba-Xuyên, Bạc-Liêu, An-Xuyên và phối-hợp hành-quân với các đơn-vị bạn trong lănh-thổ liên-hệ. Về mặt duyên-hải, vùng trách-nhiệm của Vùng V Duyên-hải từ cửa sông Định-An, mặt Đông Cà-Mau, bao-vùng xuống Ḥn-Khoai và ngược lên phía Tây Cà-Mau, tới Ḥn-Đá-Bạc.
Hoàn-thiện Tổ-Chức Sau nhiều năm liên-tục bành-trướng, quân-số Hải-Quân đă lên đến mức tối-đa quy-định bởi cấp-số vào cuối năm 1972. Năm 1973, HQVN không lấy thêm Hạ-Sĩ-Quan hay Đoàn-Viên mà chỉ tuyển-mộ Sinh-Viên Sĩ-Quan mà thôi.448
Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn khánh-thành một cuộc triển-lăm văn-hoá do HQVNCH tổ-chức tại Sài-G̣n năm 1974. Năm 1974 được Hải-Quân VNCH mệnh-danh là năm "Hoàn-hảo Tổ-Chức" và "Ưu-Tú Nhân-Sự" v́ những hoạt-động sau: - Hoàn-hảo Tổ-Chức. Trong chiều-hướng chung của Quân-Lực, Hải-Quân đă nghiên-cứu và hoàn-tất việc thi-hành như sau: . tân-lập 4 đơn-vị. . cải-danh và cải-tổ 10 đơn-vị. . giải-tán và di-chuyển 8 đơn-vị. . minh-định nhiệm-vụ và tái tổ-chức 5 đơn-vị. Tính từ cuối năm 1973 đến tháng 10-1974, các công-việc quan-trọng nhất về Tổ-chức gồm có: . Thành-lập Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-Hải. . Giải-tán Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-Pḥng. . Sáp-nhập các Hải-Đội Duyên-Pḥng vào các Vùng Duyên-Hải. . Tháng 3 năm 1974, các Lực-Lượng Đặc-Nhiệm tại Vùng 4 Sông-Ng̣i được gom thành Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21. Tư-Lệnh V4SN kiêm-nhiệm chức-vụ TL/HĐĐN 21 yểm-trợ cho QĐ IV. Sau khi HĐĐN 21 thành-h́nh, BTL/ Hành-Quân Sông được di-chuyển về Sài-G̣n.449 - Ưu-Tú Nhân-Sự: Một số quân-nhân có tinh-thần phục-vụ và kỷ-luật kém bị sa-thải khỏi quân-chủng.450
Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh làm Tư-Lệnh Hải-Quân Sau một nhiệm-kỳ dài từ 1-11-1966 đến tháng 30-10-1974, Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn hồi-hưu v́ đáo-hạn tuổi. Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh nắm quyền Tư-Lệnh từ tháng 1-11-1974 đến tháng 3-1975.451
Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh
T́nh-h́nh Tiếp-vận Thiếu-hụt Trầm-trọng James F. Dunnigan and Albert A. Nofi.452 đă ghi lại nhận-xét rất đúng-đắn: Hoa-Kỳ không có kế-hoạch hữu-hiệu. Khi ồ ạt đưa Cố-Vấn vào, rồi lại mang cả Quân-lực Hoa-Kỳ tham-chiến, người Mỹ đă làm suy-giảm hiệu-năng của Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hoà. Tai-hại đó thật rơ-rệt khi Hoa-kỳ rút ra và đột ngột giảm-thiểu quỹ viện-trợ vào những năm 1974-1975. Trong khi Việt-Nam Cộng-Hoà thiếu-hụt tiếp-vận trầm-trọng th́ Cộng-Sản Bắc-Việt lại nhận được viện-trợ gia-tăng khoảng 3, 4 lần hơn nữa từ phía Nga-Sô và Trung-Cộng.453 Về Hải-Quân, vào lúc cao-điểm hoạt-động, HQVN có quân-số 42,000 quân-nhân, không kể dân-chính. Với 672 Chiến-đĩnh đổ-bộ, 20 Trục-Lôi-Đĩnh, 450 Chiến-đĩnh tuần-tiễu, 56 Chiến-đĩnh tiếp-vận và 242 Hải-Thuyền; HQVN hoạt-động rất hữu-hiệu. Văn-pḥng Tùy-Viên Quân-sự Mỹ DAO (Defense Attaché Office) ghi-nhận t́nh-trạng an-ninh tại những vùng Hải-Quân trách-nhiệm khá tốt-đẹp, Cộng-Sản không đạt được một mục-tiêu đáng kể nào trong suốt hai năm 1973 và 1974. Ngay cả đầu năm 1975, an-ninh khắp Vùng 4 CT được kể là yên-tĩnh. Quân-viện hàng năm cho Việt-Nam Cộng-Hoà từ nhiều tỷ Mỹ-kim bị hạ-giảm xuống c̣n 700 triệu Mỹ-kim. HQVN đành cắt bớt nhịp-điệu hành-quân xuống 50 phần trăm. Hoạt-động hành-quân trong sông thật là cần-thiết, cũng bị xén xuống 70 phần trăm. Đạn-dược và nhiên-liệu thiếu-hụt trầm-trọng. HQVN chỉ c̣n cách là cho 600 giang-đĩnh và tuần-cảng-đĩnh nghỉ bến bất-động. 22 chiến-hạm hạm-đội cũng không c̣n chạy được.454 Lực-Lượng Thuỷ-Bộ, một thành-phần tác-chiến quan-trọng của HQVN, cũng gặp cảnh thiếu-thốn cơ-phận. T́nh-trạng "đ́nh-động" v́ sự giảm-sút tiếp-vận đă được chính Vị Cựu Tư-Lệnh Lực-lượng đó mô-tả như sau: "Khi tôi nhận đơn-vị Đặc-Nhiệm Thuỷ-Bộ từ Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh tháng 9 năm 1974, đă có một phần ba chiến-đĩnh trong t́nh-trạng "đ́nh-động" v́ thiếu cơ-phận thay-thế. Phần c̣n lại th́ bị xé-lẻ thành từng đơn-vị Giang-Đoàn Thuỷ-Bộ tăng-phái xuống cấp Tiểu-Khu. Lực-Lượng Thuỷ-Bộ không c̣n tham-gia những cuộc hành-quân quy-mô như trước. Tại các Tiểu-Khu, Giang-Đoàn Thuỷ-Bộ được ưa-chuộng nhờ giáp dày, hoả-lực mạnh. Cho nên Phiếu-tŕnh đề-nghị tái-lập lại Lực-Lượng Thuỷ-Bộ như trước vẫn c̣n nằm đâu đó trên những pḥng-sở thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH".
Thành-Quả Năm 1972 của Hải-Quân Việt-Nam Trong năm 1972, nhiều biến-chuyển xảy ra và Hải-Quân VNCH đă đạt được nhiểu thành-quả tốt-đẹp. Sau đây là phần trích từ Đặc-San Lướt-Sóng455 phát-hành ngày Hải-Quân 1974. Tổ-Chức: Trong chiều-hướng "hoàn-hảo tổ-chức", suốt năm qua, Hải-Quân Việt-Nam tân-lập được 4 đơn-vị, cải-danh và cải-tổ 10 đơn-vị, giải-tán và di-chuyển 8 đơn-vị, minh-định lại nhiệm-vụ và tổ-chức của 5 đơn-vị. Đặc-biệt, cải-tổ quan-trọng nhất là việc giải-tán Lực-Lượng Duyên-Pḥng, sáp-nhập các Hải-Đội Duyên-Pḥng vào các Vùng Duyên-Hải và việc thành-lập Bộ Tư-Lệnh Vùng 5 Duyên-Hải. Về quân-số thực-hiện, th́ năm 1972 đă quá cao so với quân-số quy-định. Do đó để quân-b́nh quân-số, năm 1973 Hải-Quân chỉ tuyển-mộ Sinh-Viên Sĩ-Quan mà thôi. Ngoài ra, để đạt mục-tiêu "Ưu-Tú Nhân-Sự" trong năm qua, một số quân-nhân có tinh-thần phục-vụ và kỷ-luật kém đă bị sa-thải khỏi quân-chủng. Huấn-Luyện: Nói chung, trong năm qua, chương-tŕnh huấn-luyện của Hải-Quân vẫn được tiến-hành một cách tốt-đẹp, đúng theo lịch-tŕnh ấn-định, đặc-biệt chú-trọng vào mục-tiêu "Bồi-Dưỡng Chuyên-Nghiệp" và " Tinh-Tiến Chuyên-Môn". Trong tất cả nỗ-lực nhằm đào-tạo Sĩ-Quan thành cấp chỉ-huy đa-năng đa-hiệu, cũng như bồi-dưỡng Hạ-Sĩ-Quan thành những cán-bộ chuyên-nghiệp và huấn-luyện Đoàn-viên thành những Thuỷ-Thủ lành nghề, kể từ Ngày Hải-Quân 1973 đến nay, khối Quân-Huấn Hải-Quân đă thực-hiện các khoá huấn-luyện sau đây: - 30 Khoá dành cho Sĩ-Quan, gồm các Khoá: Cao-cấp chuyên-môn, Trung-cấp chuyên-môn, Sinh-Viên Sĩ-Quan, Đặc-biệt Sĩ-Quan Hải-Quân, Sĩ-Quan Tiếp-Liệu Bổ-Túc, Sĩ-Quan Huấn-Luyện-Viên, Sĩ-Quan Trực Trung-Tâm Chiến-Báo. - 51 Khoá dành cho Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên gồm các Khoá Cao-Đẳng, Trung-Đẳng, Sơ-Đẳng Chuyên-Nghiệp, Khoá Tân-Binh Hải-Quân. - 23 Khoá huấn-luyện tại các quân-trường liên-quân gồm các khoá ngắn hạn như An-Ninh, Chiến-Tranh Chính-Trị..vv.. Ngoài ra tại các quân-trường Hải-Ngoại có các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân đang thụ-huấn các Khoá chuyên-môn khác. Song-song với chương-tŕnh huấn-luyện đặt ra, dù với ngân-khoản eo hẹp và phương-tiện quá thiếu-thốn, pḥng Binh-Thư thuộc Khối Quân-Huấn đă ấn-hành một số sách giáo-khoa đáng kể, đồng-thời pḥng Trợ-Huấn cũng không ngừng trong việc xúc-tiến thiết-lập các mô-h́nh và dụng-cụ huấn-luyện để yểm-trợ tối-đa cho các quân-trường. Hoạt-Động An-Ninh456 Hoạt-động an-ninh Hải-Quân trong năm, nổi-bật trong 3 hoạt-động chính-yếu là an-ninh phối-hợp kiểm-soát phong-toả duyên-hải và duy-tŕ ưu-thế trên sông-biển hầu bảo-vệ an-ninh quốc-pḥng và quyền-lợi kinh-tế quốc-gia. Đặc-biệt nhất là trận hải-chiến bảo-vệ chủ-quyền quốc-gia tại quần-đảo Hoàng-Sa ngày 19-01-74 giữa Hải-Quân Việt-Nam anh-hùng và Hải-Quân Trung-Cộng xâm-lăng. Về hoạt-động an-ninh Hải-Quân, nhằm chặn-đứng mọi mưu-đồ lấn đất giành dân, vi-phạm trắng-trợn Hiệp-định ngưng bắn của quân Cộng-Sản Bắc Việt, Hải-Quân Việt-Nam, trong thời-gian qua, đă mở được 1,028 cuộc hoạt-động an-ninh biệt-lập, chặn-xét 375,250 ghe-thuyền và 1,053,604 người, bắt giữ 140 ghe và 276 người. Đồng-thời, trong các phản-ứng tự-vệ đối với 474 vụ vi-phạm ngưng-bắn của Cộng-Sản Bắc-Việt từ tháng 9-73 đến nay, con số tổn-thất về nhân-mạng cùng vũ-khí quân-dụng của địch bị ta tịch-thu và phá-huỷ đă nói lên được hoạt-động hữu-hiệu của HQVN. Về phương-diện kiểm-soát lănh-hải và bảo-vệ quyền-lợi kinh-tế quốc-gia, HQVN trong năm qua, đă đạt được các thành-tích đặc-biệt như bắt giữ 12 ghe-thuyền Thái-Lan gồm 200 ngư-phủ vi-phạm lănh-hải đánh cá của Việt-Nam Cộng-Hoà. Gần đây nhứt là việc Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4, ngày 26-6-74 đă lập được thành-tích chặn-bắt được chiếc tàu Luang Lapsri số 093393 tại 48 hải-lư Nam Côn-Sơn và tịch-thu được một số bạch-phiến, 2,005 kg thuốc phiện đựng trong 55 bao lớn và 2 bao nhỏ. Ngoài ra, lúc này công-tác yểm-trợ các công-ty khai-thác các mỏ dầu-hoả tại thềm lục-địa VNCH đă nói lên được tính đặc-thù và hữu-hiệu của quân-chủng Hải-Quân. Nhưng nổi-bật nhất, phải nói là cuộc chiến hào-hùng của HQVN tại quần-đảo Hoàng-Sa vào những ngày đầu năm 1974 nhằm chống lại cuộc xâm-lăng của Hải-Quân Trung-Cộng. Kết-quả, Hải-Quân Trung-Cộng đă bị tổn-thất nặng-nề với 2 chiến-hạm loại Kronstadt bị HQVN bắn ch́m, trong khi 2 chiến-hạm khác bị hư-hại và hàng trăm binh-sĩ thương-vong. Mặt khác, trong năm qua, HQVN đă tổ-chức được 28 chuyến hộ-tống convoi trên thuỷ-tŕnh huyết-mạch, đồng-thời chuyển-vận 164,319 người và 1,237 tấn đạn-dược, quân-dụng. Yểm-Trợ Tiếp-Vận: Với chiều-hướng phát-triển tự-túc, yểm-trợ cho các đơn-vị, ngành Tiếp-Vận Hải-Quân đă cải-tiến không ngừng và thâu-đạt được nhiều thành-tích khích-lệ... Mặc-dù ngân-khoản eo hẹp, ngành Tiếp-Vận Hải-Quân cũng đă cố-gắng đóng thêm các Duyên-Kích-Đĩnh xi-măng và hoàn-tất tới chiếc thứ 87. Đồng-thời, trong nỗ-lực cải-tiến kỹ-thuật hầu gia-tăng khả-năng hoạt-động cho các chiến-hạm và chiến-đĩnh, Tiếp-Vận Hải-Quân đă hoàn-tất thiết-trí nhiều loại đại-bác pḥng-không trên các Khu-Trục-Hạm và Tuần-Dương-Hạm, tăng-cường hoả-lực cho nhiều giang-đĩnh, biến-cải hệ-thống đẩy-tàu và chân-vịt cho một số Giang-Pháo-Hạm và Trợ-Chiến-Hạm. Song-song với việc tiếp-vận nặng-nề có tính-cách quân-sự nêu trên, Hải-Quân c̣n giúp đỡ các gia-đ́nh binh-sĩ bằng cách xúc-tiến mạnh-mẽ công-tác xây-cất các trại gia-binh tại các đơn-vị Hải-Quân. Với sự yểm-trợ của Tổng-Cục Tiếp-Vận và Hoa-Kỳ, trong năm qua, Hải-Quân đă xây-cất được 50 căn nhà tại CCYT-TV Cát-Lở và 120 căn nhà tại Duyên-Đoàn 43, 44 cùng một số đơn-vị tại B́nh-Thuỷ... Ngoài ra trong tân Công-tác do Tổng-Cục Yểm-Trợ Tiếp-Vận yểm-trợ, Hải-Quân đă thực-hiện được 2 dự-án khác. Phần do Hoa-Kỳ yểm-trợ gồm có các thoả-hiệp về 44 dự-án tân công-tác, 7 dự-án vét bùn và 6 dự-án cải-tiến hệ-thống nước tại 6 Đài Kiểm-Báo. Hoạt-động Quân-Y Thể-xác có tráng-kiện, tinh-thần mới được minh-mẫn và hiệu-năng công-việc của các chiến-sĩ Hải-Quân mới dồi-dào. Do đó ngành Quân-Y Hải-Quân đă được đặt ra để thi-hành các công-tác trong phạm-vi y-tế.
Trong năm qua, các Y-sĩ đă khám ngoại-chẩn cho 28,253 quân-nhân và gia-đ́nh, thử-nghiệm 74,428 người, chụp điện-tuyến 40,541 người, trám nhổ răng 30,412 người và điều-trị tại bệnh-viện, bệnh-xá 14,848 người. Về dược-phẩm, Kho Y-Dược Trung-Ương Hải-Quân yểm-trợ cho các đơn-vị Quân-Y Hải-Quân trung-b́nh khoảng 85% so với nhu-cầu. Tuy-nhiên nhờ những kế-hoạch cải-tiến và tiết-kiệm dược-phẩm do Cục Quân-Y phát-động và nhờ những phương-thức mà Khối Quân-Y đề ra nên cũng tạm đủ dùng cho việc điều-trị. Ngoài ra, đồng-minh Hoa-Kỳ c̣n yểm-trợ trong việc huấn-luyện chuyên-khoa tại Hoa-Kỳ.
Y-Tế-Hạm Hát-Giang (HQ-400). Đặc-biệt nhất của ngành Quân-Y Hải-Quân là 2 Y-Tế-Hạm Hát-Giang (HQ-400) và Hàn-Giang (HQ-401) được dân-chúng cả nước biết đến và xưng-tụng là "Chiến-Hạm T́nh-Thương". Hoạt-động Quân-Y Dân-Sự-Vụ của hai Y-Tế-Hạm này rải đều khắp các Vùng Duyên-Hải và Sông-Ng̣i, đến tận các hải-đảo xa-xôi, đem sức-khỏe và an-vui đến cho đồng-bào. Chiến-Tranh Chính-Trị: Hoạt-động Chiến-tranh Chính-trị bao-gồm trên 4 lănh-vực Tâm-Lư-Chiến, Chính-Huấn, Xă-Hội và Tuyên-Úy nhằm vào 3 đối-tượng Dân-Binh-Địch quá rộng-lớn và phức-tạp cho nên hoạt-động Chiến-Tranh Chính-Trị ngày càng trở nên cần-thiết trong nhiệm-vụ nâng-cao tinh-thần quân-sĩ Hải-Quân các cấp để chống Cộng cứu-quốc, đồng-thời giữ lập-trường quốc-gia vững-chắc. Trong nỗ-lực thực-thi các chiến-dịch, chương-tŕnh, kế-hoạch thuộc lănh-vực Tâm-Lư-Chiến, ngành Chiến-Tranh Chính-Trị Hải-Quân đă gặt-hái được nhiều thành-tích khả-quan. Riêng kết-quả Chiến-Dịch V́ Dân, trong năm qua, Hải-Quân đă điều-trị được 239 quân-nhân nghiện ma-túy, bắt giữ 348 quân-nhân can tội buôn-lậu, vi-phạm tệ-đoan xă-hội, đồng-thời tịch-thu 923 thùng và 1,398 cây thuốc lá đủ loại... Về kết-quả của Chiến-Dịch T́m Về Tự-Do, với công-tác chiêu-hồi cán-binh CSBV trở về với chánh-nghĩa quốc-gia, trong thời-gian qua, Hải-Quân kêu-gọi được 6 Cán-binh CS về hồi-chánh mang theo nhiều vũ-khí đạn-dược... Hoạt-động Dân-Vụ năm qua được ghi-nhận khả-quan với 83,786 đồng-bào được phát-thuốc, khám-bệnh, phân-phát 430 phần quà và 35 thùng quần-áo, đồng-thời phân-phối 154,000 truyền-đơn và 562 sách báo đủ loại.
“Chiến-Hạm T́nh-Thương” HQ-401 trên đường đi công-tác Miền Tây.
Các mẫu truyền-đơn HQVNCH phân-phối.
Truyền-đơn ghi các chiến-tích oai-hùng của Đức Lê-Lợi & Thánh-Tổ HQVNCH.
Truyền-đơn kêu-gọi người hồi-chánh về với chính-nghĩa cùng HQVNCH.
Mặt khác, ngành CTCT Hải-Quân cũng đă thực-hiện trong năm qua 3 cuốn phim: "Ngày Hải-Quân 73", "HQVN Ngày Nay" và "43 Quân-Công Từ Ngục-Tù Trung-Cộng Trở Về", Mỗi cuốn phim dài 1,200 feet. Về hoạt-động thể-thao, được ghi-nhận là rất khả-quan với 15 lần đoạt giải trong các bộ-môn bóng tṛn, bóng rổ, bóng chuyền, vũ-cầu, quyền-thuật, thái-cực-đạo và xe đạp. Ngoài ra, trong nhiệm-vụ cải-tạo và ổn-định nếp sống gia-đ́nh binh-sĩ, uỷ-lạo các Thương Bệnh Binh, giáo-dục con em quân-nhân, trong năm qua, cán-bộ CTCT Hải-Quân đă thăm-viếng uỷ-lạo 1,058 lần, trợ-cấp 19,863,922$ cho 2,076 người; đồng-thời lập Kư-Nhi-Viện Cửu-Long, yểm-trợ học-phẩm, học-cụ cho 23 trường Ấu, Sơ, Tiểu-Học Hải-Quân gồm 3,474 học-sinh. Về hoạt-động giáo-vụ cũng đáng khích-lệ với nghi-lễ cầu-an, cầu-siêu, mai-táng, giảng-thuyết..v..v.. Sau cùng là hoạt-động của Biệt-đội Chiến-Tranh Chính-Trị trong năm qua đă thực-hiện 491 chuyến công-tác, tập-trung 190,557 đồng-bào tham-dự trong 70 buổi Sinh-Hoạt Lănh-Đạo Chỉ-Huy. Nh́n lại thành-tích trong một năm qua, phải nhận rằng đó là một khích-lệ lớn-lao cho quân-chủng, ghi dấu một giai-đoạn trưởng-thành của quân-chủng Hải-Quân trên mọi lănh-vực. Trong tương-lai, khi hoà-b́nh văn-hồi, HQVN ngoài việc xây-dựng củng-cố lực-lượng ngày thêm hùng-mạnh, sẽ c̣n lănh trọng-trách phát-triển kinh-tế bằng cách khai-thác hải hoặc khoáng-sản dọc theo duyên-hải, góp phần xây-dựng quốc-gia phú-cường theo kịp các quốc-gia tân-tiến trên thế-giới.
Quần-đảo Trường-Sa và Hải-Quân VNCH Vào tháng 6 năm 1956, HQVNCH đă chỉ-thị Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04 tuần-tiễu vùng biển Trường-Sa.
Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04.
Từ năm 1960 đến năm 1967, Hải-Quân VNCH phái nhiều chiến-hạm thường-xuyên tuần-tiễu cũng như hoàn-tất đặt bia chủ-quyền trên nhiều đảo như Song-Tử Đông, Song-Tử Tây, Nam Yết, Thị-Tứ... trong Quần-Đảo Trường-Sa. Đến tháng 7-1973, VNCH kư giấy phép cho các công-ty ngoại-quốc thăm-ḍ và khai-thác dầu-hoả gần vùng Trường-Sa. Chính v́ sự-kiện trên, Trung-Cộng bắt đầu phản-đối và tranh-giành chủ-quyền với những luận-điệu hoàn-toàn vô-căn-cứ. Dương-Vận-Hạm Qui-Nhơn HQ-504 là chiến-hạm công-tác thường-xuyên nhất tại Vùng Trường-Sa. Chiến-hạm đă chuyên-chở dụng-cụ và vật-liệu cho việc xây-cất; đồng-thời yểm-trợ Công-Binh Việt-Nam và các đơn-vị bạn hoàn-tất công-sự pḥng-thủ trên các đảo Nam-Yết, Song-Tử-Tây, Sơn-Ca, Sinh-Tồn, An-Bang. Chiến-hạm cũng gửi tiểu-đĩnh thám-sát các đảo phụ-cận. Đặc-biệt Đại-diện HQVN tránh, không gây rắc rối ǵ với Lực-Lượng Trung-Hoa Dân-Quốc trấn-đóng trên đảo Thái-B́nh.
Dương-Vận-Hạm Qui-Nhơn HQ-504. Tháng 12 năm 1973, Tiểu-Khu Phước Tuy biệt-phái một đơn-vị Địa-Phương-Quân ra Quần-Đảo Trường-Sa, đồn-trú trên các đảo Trường-Sa và Nam-Yết. Các đơn-vị Địa-Phương-Quân này thường-xuyên được những chiến-hạm Hải-Quân yểm-trợ và tiếp-tế. Vào tháng 1 năm 1974, Trung-Cộng cưỡng-chiếm Quần-đảo Hoàng-Sa của VNCH sau một trận hải-chiến dữ-dội. Để đề-pḥng quân Trung-Cộng tiến xa hơn về hướng Trường-Sa. VNCH tăng-cường thêm nhiều chiến-hạm tuần-tiễu cũng như quân trú-pḥng tại các đảo Song-Tử-Tây, Sơn-Ca, Nam-Yết, Sinh-Tồn, An-Bang và các đảo lớn phụ-cận.
H́nh-ảnh ghi-nhận của Phóng-Viên Phạm-Kim về những hải-đảo chính tại Trường-Sa khi công-sự pḥng-thủ được khởi-công xây-cất.
Một căn nhà do Công-Binh VNCH xây-cất tại quần-đảo Trường-Sa. Phụ-Bản 1 Chương 5
Tuyên-cáo của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam Cộng-Hoà số 015/BNG/TTBC/TT (Ngày 19.1.1974)
Sau khi mạo-nhận ngày 11-1-1974 chủ-quyền trên hai quần-đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa của Việt-Nam Cộng-Hoà, Trung-Cộng đă đưa Hải-Quân tới khu-vực Hoàng-Sa, và đổ-bộ quân lính lên các đảo Cam-Tuyền, Quang-Hoà và Duy-Mộng. Lực-lượng Hải-Quân Trung-Cộng gồm 11 chiến-đĩnh thuộc nhiều loại và trọng-lượng khác nhau, kể cả tàu loại Komar có trang-bị hoả-tiễn. Để bảo-vệ sự vẹn-toàn lănh-thổ và nền an-ninh quốc-gia trước cuộc xâm-lăng quân-sự này, các lực-lượng Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà trấn-đóng trong khu-vực này đă ra lệnh cho bọn xâm-nhập phải rời khỏi khu-vực. Thay v́ tuân-lệnh, các tàu Trung-Cộng, kể từ 18.1.1974, lại có những hành-động khiêu-khích như đâm thẳng vào các chiến-đĩnh Việt-Nam. Sáng ngày nay 19.1/1974, hồi 10 giờ 20, một Hộ-Tống-Hạm Trung-Cộng thuộc loại Kronstadt đă khai-hoả bắn vào Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư mang số HQ-04 457 của Việt-Nam Cộng-Hoà. Để tự-vệ, các chiến-hạm Việt-Nam đă phản-pháo và gây hư-hại cho Hộ-Tống-Hạm Trung-Cộng. Cuộc giao-tranh hiện c̣n tiếp-diễn và đang gây thiệt-hại về nhân-mạng và vật-chất cho cả đôi bên. Các hành-động quân-sự của Trung-Cộng là hành-vi xâm-phạm trắng-trợn vào lănh-thổ Việt-Nam Cộng-Hoà, và một lần nữa vạch-trần chính-sách bành-trướng đế-quốc mà Trung-Cộng liên-tục theo-đuổi, đă được biểu-lộ qua thôn-tính Tây-Tạng, cuộc xâm-lăng Đại-Hàn và Ấn-Độ trước kia. Việc Trung-Cộng ngày nay xâm-phạm lănh-thổ Việt-Nam Cộng-Hoà không những chỉ đe-doạ chủ-quyền và an-ninh của Việt-Nam Cộng-Hoà, mà c̣n là một hiểm-hoạ đối với nền hoà-b́nh và ổn-cố của Đông-Nam-Á và toàn thế-giới. Với tư-cách một nước nhỏ bị một cường-quốc vô-cớ tấn-công, Việt-Nam Cộng-Hoà kêu-gọi toàn-thể các dân-tộc yêu-chuộng công-lư và hoà-b́nh trên thế-giới hăy cương-quyết lên án các hành-vi chiến-tranh thô-bạo của Trung-Cộng nhằm vào một quốc-gia độc-lập và có chủ-quyền để buộc Trung-Cộng phải tức-khắc chấm-dứt các hành-động nguy-hiểm đó. Làm ngơ để cho Trung-Cộng tự-do tiến-hành cuộc xâm-lấn trắng-trợn này là khuyến khích kẻ gây-hấn tiếp-tục theo-đuổi chính-sách bành-trướng của chúng và sự hiện-diện này đe-doạ sự sống c̣n của những nước nhỏ đặc-biệt là những nước ở Á-Châu. Trong suốt lịch-sử, dân-tộc Việt-Nam đă đánh bại nhiều cuộc ngoại-xâm. Ngày nay, Chánh-phủ và nhân-dân Việt-Nam Cộng-Hoà cũng nhất-định bảo-vệ sự toàn-vẹn lănh-thổ quốc-gia. (Tài-liệu ronéo của Bộ Ngoại-giao VNCH, số 015/BNG/TTBC/TT). Làm tại Sài-G̣n, ngày 14 tháng 2 năm 1974.
Phụ-Bản 2 Chương 5
Về Tổn-thất của HQVN trong Hải-Chiến Hoàng-Sa
Tổn-thất Hải-Chiến TC chỉ có một Tàu Cá hư-hại Đài chỉ-huy!? Trong những năm sau 1974, Trung-Cộng bưng-bít không hề loan-báo những thiệt-hại về tàu-bè của họ khi đụng-độ với HQVNCH tại Hoàng-Sa. Tờ báo có tiếng nói chính-thức của họ tại hải-ngoại là nguyệt–san Peking Review sau này là Beijing Review chỉ lập đi lập lại mấy ḍng tương-tự như: Ngày 18-1-1974, HQVN vô-cớ tông ngang các tàu cá 402 và 407 của họ, phá bể đài chỉ-huy tàu số 407 của Nam-Hải Ngư-nghiệp Công-ty. Ngày 19-1, HQ Sài-G̣n bắn giết ngư-dân và đổ-bộ xâm-lăng đảo nhưng không thành-công. Hồi 10:30 giờ cùng ngày, máy-bay và chiến-hạm Việt-Nam đồng-loạt tác-xạ vào các tàu tuần Trung-Hoa. Quá sức chịu-đựng nên ngư-dân và tàu tuần của họ bắt-buộc phải phản-pháo để tự-vệ.458 Tuy Trung-Hoa có nói đến một chiến-hạm Việt-Nam bị bắn ch́m, nhưng không đả-động ǵ đến thiệt-hại của chiến-hạm phía họ, làm như chuyện đánh nhau chỉ làm cho một chiếc tàu cá hư-hại đài chỉ-huy mà thôi! Ba tuần sau khi Hải-chiến chấm-dứt, Bộ máy tuyên-truyền vĩ-đại của Trung-Cộng hoạt-động mạnh-mẽ để tung khói-mù chủ-quyền Hoàng-Sa khắp thế-giới. Trong khi hàng triệu cuốn sách lớn “Tây-Sa Hải-Chiến” phát ra cho một tỷ người Tàu trong nước, mấy trăm ngàn cuốn thơ (verse) nhỏ hơn đă được dịch vội-vàng sang tiếng Anh. Sách nhan-đề “Tây-Sa Hải-Chiến, Tường-thuật bằng Thơ”-Battle of the Hsisha Archipelago- xuất-bản tại Bắc-Kinh ngày 10-3-1974459 đă được phổ-biến ở hải-ngoại, tất cả các trường đại-học Hoa-kỳ đều được tặng miễn-phí. Tập thơ anh-hùng-ca này cũng như cuốn sách lớn hơn, “Tây-Sa Hải-Chiến”, đều được viết dưới sự chỉ-đạo của Chính-Trị Bộ và Quân-Ủy Trung-Ương, tŕnh-bày rất hào-nhoáng màu-mè, đầy vẻ tuyên-truyền; không có phần nào nói chiến-hạm Hồng-quân bị ch́m đắm hay bất-khiển-dụng. Tác-giả “thi-sĩ lớn” Chang Yung-Mei có đề-cập đến một chiến-hạm Việt-Nam bị ch́m, một tàu cá “hợp-tác xă” bị HQ-4 điên-cuồng húc bể pḥng lái. Mấy câu thơ của Chang khá khôi-hài khi kể chuyện những anh-hùng của họ tung lựu-đạn, dùng súng tay bắn tiêu-diệt để loại-trừ Hải-quân Việt-Nam. H́nh b́a cuốn sách “Tây-Sa Hải-Chiến, Tường-thuật bằng Thơ” -Battle of the Hsisha Archipelago- 1974, Hồng-Quân TC hải-chiến với lựu-đạn!
Hiện nay (năm 2008) rất nhiều h́nh-ảnh tương-tự được t́m thấy trên sách-báo và Websites Trung-Cộng. Cuốn sách sắp xuất-bản của Tác-giả: “H́nh-ảnh Hải-Chiến Hoàng-Sa với HQ-4” sẽ công-bố thêm các tài-liệu từ năm 1974 c̣n lưu-trữ như các Công-Điện Hành-Quân, Phúc-Tŕnh Báo-Cáo Hành-Quân, thủ-bút các giới-chức và nhiều tài-liệu liên-hệ khác.
H́nh-ảnh rất khôi-hài: vận tiểu-lễ áo trắng đầu trần, Hồng-Quân quăng lựu-đạn vào Khu-Trục-Hạm “Trần K…” của VNCH…Nhưng cuối cùng rồi lính Tàu cũng mạng vong.
Loạt pháo đầu tiên của tàu HQ-4 bắn sập đài chỉ huy của tàu Trung Cộng 274
Mấy phân-cảnh khi HQ-4 khai-hoả những phát súng đầu tiên tại HoàngSa và ủi thủng lỗ đài chỉ-huy của tàu vơ-trang Trung-Cộng.
H́nh-ảnh những phút cuối cùng của hải-chiến. “Tàu radar” KTH Trần-Khánh-Dư HQ-4 đang tả-xung hữu-kích giữa 3 chiến-hạm Trung-Cộng 271/274/396 “tập-trung cận-xạ”. Bài viết được Quân-Ủy Trung-Cộng cho phép lên mạng: http://war.news.163.com/07/0803/15/3KVT172H00011232_2.html.460
在西沙海战中,中国海军的6604型猎潜艇向南越驱逐舰猛烈射击。 http://war.news.163.com/07/0803/15/3KVT172H00011232.html
Việt-Nam Cộng-Hoà và Giới Truyền-thông Quốc-gia Phía Việt-Nam Cộng-Hoà ngay sau biến-cố, Tư-Lệnh HQVN cũng như Tư-Lệnh HQ Vùng 1 Duyên-Hải lập phiếu-tŕnh lên thượng-cấp461 về diễn-tiến hành-quân và báo-cáo kết-quả thiệt-hại đôi bên. Giới truyền-thông quốc-gia và các cơ-quan phát-ngôn chính-thức của chính-phủ Việt-Nam462, kể cả Bộ Tổng-Tham-Mưu lập-tức công-khai phát-thanh hay đưa lên mặt báo về kết-quả trận đánh Hoàng-Sa. Riêng trong tập-thể Quân-lực một triệu người của VNCH, ngoài báo định-kỳ như tờ Quân-đội và Chiến-Sĩ Cộng-Hoà463, c̣n có những ấn-phẩm quan-trọng được in tới hơn 20,000 bản do Tổng-Cục Chiến-Tranh Chính-Trị phân-phối ngay. Đó là tập tài-liệu nhan-đề “Thế-giới lên án Trung-Cộng Xâm-lăng Hoàng-Sa của Việt-Nam”. Qua hơn 50 trang giấy, nhiều tác-giả đă hợp-tác với Cục Tâm-Lư-Chiến để tŕnh-bày hoạt-động hành-quân của HQVN tại Quần-đảo Hoàng-Sa. Đặc-biệt, tổn-thất đôi bên trong Hải-Chiến Hoàng-Sa được ghi-nhận rơ-ràng như sau: VNCH: 1 chiếc chiến-hạm bị hư-hại toàn-diện, 1 chiếc bị hư-hại nặng, 2 chiếc bị hư-hại nhẹ. Trung-Cộng: 1 chiến-hạm loại Kronstadt bi cháy toàn-diện và đắm ch́m 1 chiếc bị trúng đạn hư-hại nặng, phải ủi vào bờ, sau đó nổ tung, 2 chiếc bị hư-hại nặng.464
Báo-chí VNCH đă ghi chép, vẽ lại h́nh-ảnh và cả hướng đi của các chiến-hạm HQVN khi tác-chiến. HQ-4 bên phải hướng 070, HQ5 bên trái hướng 270. Đây là những h́nh-ảnh trên báo Lướt-Sóng năm 1974, số Đặc-biệt “Chiến-thắng Hoàng-Sa” H́nh dưới trích & duyệt lại Sơ-đồ của BTL/HhQ Biển.
Xác-định Kết-quả trận Hải-Chiến Hoàng-Sa 1974 làm sao cho Chính-đáng trong Hải-Sử
Đối với các Nhà Quân-Sự, nhất là các các Nhà Chiến-Thuật Chiến-Lược Hải-Quân theo đúng binh-thư binh thuyết th́ việc đo lường mức-độ thành-công hay thất bại của một cuộc chiến trên biển phải căn-cứ trên khả-năng c̣n lại của hai bên Hạm-đội sau khi đụng-độ. Như vậy cuộc Hải-Chiến Hoàng-Sa thưc-sự là một cuộc toàn-thắng về phía Hải-Quân Việt-Nam. Mục tiêu của ta là dùng số lượng ít ỏi là 4 chiến-hạm quyết chiến quyết thắng, tiêu-diệt chớp-nhoáng số lượng địch-quân không những đông-đảo mà c̣n đang được ồ-ạt tăng-viện. Mục-tiêu như vậy đă được chu-toàn v́ tất-cả lực-lương địch trực-chiến với ta đều bị trúng đạn tê-liệt, bị KO Knock-Down “nằm bất-động trên vơ-đài’, và hiển-nhiên đă bị loại ra khỏi ṿng chiến.465 Khi Trung-Cộng nói khoả-lấp, nêu cao sự “tác-chiến anh-dũng” của hai Liệp-Tiềm-Đĩnh cao-tốc mới tới (281 & 282). họ cũng phô-bày rơ-rệt sự đại-bại hoàn-toàn trong hải-chiến. Trung-Cộng không thể che-dấu được sự tê-liệt của Lực-lượng TC kéo dài suốt 3 tiếng đồng-hồ. Chỉ tiếc rằng VNCH lúc đó trơ-trọi có 4 chiến-hạm. Giả-dụ như nếu ta điều-động được 6, được 8 chiến-hạm (hay nhiều hơn) th́ t́nh-h́nh đă đổi khác. Chắc-chắn rằng HQ-10 được cứu, và rất có thể quần-đảo Hoàng-Sa vẫn c̣n trong tay Việt-Nam ta. Lại c̣n có người chỉ nghe nói “toàn thắng hải-chiến” mà suy-luận ra cái lỗi của HQVN không quay lại giữ Hoàng-Sa. Sự thực là chiến-hạm ta đă tṛn nhiệm-vụ, quay lại cũng hy-sinh vô ích mà thôi. Với ḷng yêu nước có nồng-cháy bao nhiêu đi nữa th́ hậu-thế cũng nên hiểu khả-năng đoàn chiến-hạm Hoàng-Sa bé-nhỏ, thông-cảm cho quyền-hạn của Hạm-Trưởng thật ít-ỏi, hạn-chế trước một trách-nhiệm quá lớn lao. Khi có lệnh của cấp chỉ-huy nói đoạn-chiến là phải thi-hành ngay lập-tức, không tŕ-hoăn, rời khỏi chiến-trường...
Chương 6
Đột-ngột bị khai-tử 1975
Biến-chuyển Bất-thường Sau gần hai năm 1973-1974, Việt-Nam Cộng-Hoà tương-đối tạm ổn-định, t́nh-h́nh Miền Cao-Nguyên và Duyên-Hải Trung-phần đă đột-ngột biến-đổi mau-lẹ vào đầu năm 1975. Sau hai lần đại-bại vào Tết Mậu-Thân 1968 và Tổng-Tấn-Công vượt Vĩ-Tuyến 17 năm 1972, Cộng-Sản Bắc-Việt lại quyết-định mở một cuộc tấn-công nữa với toàn-lực quân-đội chính-quy của chúng. Ngày 10 tháng 3 năm 1975 Ban-Mê-Thuột bị thất-thủ, rất ít quân trú-pḥng QLVNCH rút về được duyên-hải. Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu ra lệnh triệt-thoái luôn các tỉnh chiến-lược của cao-nguyên là Pleiku và Kontum. Ngày 15-3, quân-đội cao-nguyên rút-lui về Tuy-Hoà. V́ thiếu kế-hoạch và cũng v́ phải vướng chân khi kéo theo hàng chục ngàn dân di-tản trốn chạy Cộng-Sản, Quân-Đoàn 2 đă bị thiệt-hại lớn. Trong khi ảnh-hưởng tâm-lư gây náo-loạn khắp nơi, th́ lệnh điều-động từ Sài-G̣n ban-hành lại bất-nhất, hệ-thống pḥng-thủ của Quân-Đoàn 1 bắt đầu bị rạn-nứt.
Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu.
Công-tác Di-tản Vùng 1 Chiến-thuật Ngày 25 tháng 3, quân-đội bỏ Cố-đô Huế một cách vô-tổ-chức rút về phía Đà-Nẵng, kéo theo hàng trăm ngàn người tị-nạn. Trong cảnh hỗn-loạn tại Vùng 1 Chiến-thuật lúc đó, Hải-Quân đă thành-lập 2 Phân-Đoàn Bắc và Nam, mạo-hiểm đưa các chiến-hạm, chiến-đĩnh đổ-bộ vào di-tản nhiều ngàn quân-nhân chạy ra cửa-biển Thuận-An.466 Trước đó một ngày (24 tháng 3), Trung-Tướng Ngô-Quang-Trưởng, Tư-Lệnh Quân-Đoàn I đă dự-tính rút Sư-Đoàn 2 từ Quảng-Ngăi ra ngoài đảo Cù-lao Ré.467 Chiều ngày 26 tháng 3, Phân-Đoàn Nam gồm có HQ-802, HQ-505, HQ-404, Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm Chu-Lai, một số Giang-Vận-Hạm tăng-phái; được giao nhiệm-vụ vào Chu-Lai đón Sư-Đoàn 2 ra Đảo Lư-Sơn (Cù-Lao Ré). Chiều-ngày 27 tháng 3, một số quân-nhân Sư-Đoàn 2 gây áp-lực đ̣i HQ-404 đưa họ về Đà-Nẵng. Rồi đến lượt Đà-Nẵng, v́ số-lượng quá lớn quân-nhân và dân tị-nạn kéo về, nên cũng lọt ra ngoài ṿng kiểm-soát của Quân-Đoàn 1. Trong việc di-tản, BTTM/QLVNCH dự-trù chuyển-vận chính-quyền, quân-đội và một số thường-dân tị-nạn về Cam-Ranh. Các chiến-hạm tận-dụng mọi phương-tiện khả-hữu để cứu-vớt quân-nhân và thường-dân. Các giới-chức Quân-đội quên ḿnh lo cho công-vụ đến độ Phó-Đề-Đốc Hồ-Văn Kỳ-Thoại, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 1 Duyên-Hải cùng Trung-Tướng Ngô-Quang-Trưởng, TL/QĐ1/V1CT suưt nữa bị kẹt lại tại Tiên-Sa.
Tuần-Dương-Hạm di-tản Quân-nhân Vùng 1 Chiến-thuật.
Các Thương-thuyền và cuộc Di-tản Các thương-thuyền, tàu kéo và các xà-lan thuộc Bộ Chỉ-Huy Hải-Vận Military Sealift Command468 (MSC) cũng tham-gia trong cuộc di-tản miền Trung. Ngày 24 tháng 3, có 6 xà-lan do các tàu kéo sau đây được mang từ Vũng-Tàu ra Đà-Nẵng: - Asiatic Stamina - Chitose Maru - Osceola - Pawnee - Shibaura Maru Ngày 25 tháng 3, cơ-quan MSC đặt các thương-thuyền sau đây trong t́nh-trạng sẵn-sàng thi-hành kế-hoạch di-tản tại Miền Trung của Việt-Nam Cộng-Hoà: - SS American Racer - SS Green Forest - SS Green Port - SS Green Wave - SS Pioneer Commander - SS Pioneer Contender - SS Transcolorado - USNS Greenville Victory - USNS Sgt Andrew Miller - USNS Sgt. Truman Kimbro Những thương-thuyền bán quân-sự này có sức chuyển-vận rất lớn, ngay sau đó đă giúp rất nhiều trong công-tác đưa người và vật-dụng từ Miền Trung xuôi Nam.
Những “người bỏ phiếu bằng chân” tiếp-tục xuôi Nam. Các tàu và xà-lan của Cơ-quan MSC giúp họ di-tản rất nhiều.
Những Người Bỏ Phiếu cho Tự-Do bằng Chân
Trong cuộc chiến đă có gần triệu dân Bắc di-cư bỏ Cộng-Sản năm 1954-1955, chạy vào Nam t́m tự-do. Những người dân Việt-Nam hiền-hoà vô-tội khắp nơi chạy theo Quốc-gia rất nhiều. Kể từ 1954 đến 1975 có tới 5 triệu người tị-nạn Cộng-Sản, đă được gọi chung là những “Người Bỏ Phiếu Bằng Chân". Tuy vậy trong lần di-tản Vùng 1 này, chỉ với một thời-gian ngắn-ngủi năm ba ngày, một số-lượng lớn-lao đến hàng trăm ngàn người, bỏ nhà cửa ruộng-vườn, mồ-mả tổ-tiên trốn chạy Cộng-Sản. Trong cơn hoảng-hốt sợ-hăi, lần đầu-tiên “Người Bỏ Phiếu Bằng Chân" của miền Trung đă chạy nhanh" đến như vậy. Đà-Nẵng có dân-cư b́nh-thường là 600,000 người, đột-nhiên tăng vọt lên 2,000,000...469
Cộng-Sản đến, dân Bắc-Việt chạy trốn bằng bè tre năm 1954-1955 (tem thư Bưu-Chính Việt-Nam).
Những “Người Bỏ Phiếu Bằng Chân" của miền Trung đầu năm 1975. V́ dân tị-nạn tràn vào, t́nh-trạng Đà-Nẵng trở nên hỗn-loạn, ngoài ṿng kiểm-soát của chính-quyền. Số-phận của những người tị-nạn lần này bi-đát hơn những đợt di-cư lần trước. Trong tổng-số 2 triệu thường-dân trốn chạy Cộng-Sản, chỉ có khoảng 50,000 người may-mắn lên được tàu ra khỏi Đà-Nẵng.
Những Ngày chót của Công-tác Triệt-thoái Vùng 1 Chiến-thuật. Theo nhà Khảo-cứu Pham-Kim-Vinh: Khi Tướng Trưởng vẫn c̣n nắm rất vững sự chỉ-huy các đơn-vị quân-sự th́ Ông đă phải chịu thua đám thường-dân chạy giặc Cộng-Sản.470 Ngày 28 tháng 3, có tin cho biết Việt-Cộng đă chiếm cửa-biển Hội-An. Rạng sáng ngày 29 tháng 3, Tướng Trưởng đặt bản-doanh tại Căn-cứ Hải-Quân ở Tiên-Sa. Ông ra lệnh cho Sư-Đoàn 3 lập đầu-cầu ở phía Bắc Hội-An để tàu Hải-Quân đến đón binh-sĩ. Trong khi các phi-trường bị tê-liệt v́ bị địch-quân pháo-kích tấn-công, Hải-Quân trở-thành phương-tiện độc-nhất để ra vào Vùng 1 Chiến-thuật. Có 6,000 binh-sĩ TQLC được tàu chuyên-chở. Sư-Đoàn 3 không được may-mắn bằng Sư-Đoàn TQLC. Sau khi 1,000 binh-sĩ lên chiến-hạm di-tản th́ đến đợt thứ nh́ cách đó 6 tiếng, một vài binh-sĩ Sư-Đoàn 3 đă mất kiên-nhẫn, bắn vào chiến-hạm. Công-tác triệt-thoái Sư-Đoàn 3 theo Sử-gia Phạm-Kim-Vinh, chỉ v́ các "phản-ứng" đó mà Hải-Quân đành phải ngừng lại không vào đón nữa. Trong một bài viết được ghi là của Trung-Tướng Ngô-Quang-Trưởng phổ-biến tại Hoa-Kỳ trong thập-niên 1990471, tác-giả đă viết về những biến-cố trên khá rơ. Chúng tôi xin trích-dẫn lại một vài đoạn như sau: “... Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư-Đoàn Dù và Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến về giữ Nha-Trang. ... Ngày 24 bỏ Tam-Kỳ Quảng-Ngăi, Hải-Quân đưa Sư-Đoàn 2 từ Chu-Lai ra Cù-lao Ré. ... Ngày 25 bỏ Huế. ... Ngày 29 tháng 3, Cộng-Quân tràn vào Đà-Nẵng với những trận giao-tranh nhỏ. Tôi được chiến-hạm HQ-404 đưa về Sài-G̣n. Trên tàu cũng có một Lữ-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, Tổng-Thống Thiệu liên-lạc yêu-cầu tôi ra tái-chiếm lại Đà-Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái-chiếm Đà-Nẵng? Lính-tráng đă phân-tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ-huy th́ mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái-chiếm Đà-Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho Hạm-Trưởng ghé tàu vào Cam-Ranh, bỏ hết Thuỷ-Quân Lục-Chiến xuống, rồi chỉ chở một ḿnh tôi về Sài-G̣n. Tôi không chịu, mặc-dù lúc đó tàu đă cặp bến Cam-Ranh rồi…”472
Trung-Tướng Ngô-Quang-Trưởng.
Báo-cáo của cơ-quan MSC cho biết ngày 30-3, thương-thuyền American Challenger là chiếc tàu chót dời Đà-Nẵng. Theo Giáo-Sư Phạm-Kim-Vinh, Cộng-Quân thấy chúng không cần tiến-chiếm ngay Đà-Nẵng. Cũng có thể Cộng-Quân không dám ngăn-cản sự tiếp-cứu số người Mỹ c̣n sót lại tại Đà-Nẵng. Phải chăng Cộng-Quân sợ Hoa-Kỳ chờ một điều ǵ đó để có lư-do can-thiệp trở lại? Người ta chỉ biết rằng chúng đă dừng lại ở ngoại-ô Đà-Nẵng, để mặc cho tàu-thuyền các quốc-gia Nhật, Trung-Hoa, Mỹ và cả VNCH đón vớt hàng ngàn người tị-nạn Cộng-Sản trốn chạy ra khơi.473
Trong cuốn sách nhan-đề “Can Trường Trong Chiến-Bại” xuất-bản năm 2007, Phó-Đề-Đốc Hồ-Văn Kỳ-Thoại kể lại một số chi-tiết liên-hệ đến việc rút quân khỏi Vùng 1 Chiến-Thuật.
Hải-Quân Triệt-Thoái tại Vùng 2 Chiến-thuật. Vùng 1 đă mất. Sư suy-sụp lan-tràn nhanh-chóng đến duyên-hải Vùng 2 Chiến-thuật. Ngày 31-3, Quy-Nhơn bị mất. Ngày 2-4, Nha-Trang mất theo. Chương-tŕnh di-tản Vùng 1 Chiến-thuật vào Cam-Ranh bị thay-đổi v́ toán chót đang đến nơi th́ ngay Cam-Ranh cũng lại gặp bất-ổn. Từ ngày 1-4 đến ngày 4-4, số người vừa đổ xuống Cam-Ranh lại được bốc lên hối-hả để chuyển-tiếp đi Phú-Quốc. Một số-lượng quân-nhân và gia-đ́nh không lớn lắm được phép đổ-bộ xuống Vũng-Tàu. Ngày 10 tháng 4, tất cả các chiến-hạm và thương-thuyền hoàn-tất công-tác đổ-bộ người xuống Phú-Quốc. Coi như công-tác trợ-giúp Việt-Nam Cộng-Hoà di-tản đă hoàn-tất, vào ngày 14 tháng 4, Chính-phủ Hoa-Kỳ ra lệnh cho tất cả các chiến-hạm của họ dời xa hải-phận Việt-Nam.
Giới-chức Hải-Quân giúp việc rút quân khỏi Vùng 2 Chiến-Thuật là Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh. H́nh trên, khi Ông mang cấp-bậc Thiếu-Tá.
Ngày giờ chót chiến-đấu của HQVNCH Cuộc di-tản Miền Trung vào Miền Nam thực-hiện được là nhờ những phương-tiện đường biển. Theo giáo-sư Sử-Địa Nguyễn-Khắc-Ngữ, chính nhờ vào những nỗ-lực của Hải-Quân trong giai-đoạn cuối-cùng của cuộc chiến mà Việt-Nam Cộng-Hoà kéo dài sự tồn-tại tới ngày 30 tháng 4 năm 1975.474 Cho đến ngày cuối-cùng 30-4, vào khoảng 9g30, đoàn xe tăng Bắc-Việt bị chặn lại tại cầu Sài-G̣n. Những chiếc giang-đĩnh của Hải-Quân VNCH neo đậu ở Tân-Cảng đă phối-hợp hoả-lực với các chiến-xa M48 và M113 nă đạn như mưa vào đoàn tăng của địch. Hai chiếc T54 đi đầu bị bắn cháy, hai chiếc khác bị hỏng và lao xuống vệ đường. Tiểu-Đoàn-Trưởng tiểu-đoàn 1 xe tăng địch và nhiều Sĩ-Quan cùng Binh-sĩ khác của chúng bị chết tại chỗ. Vào lúc này, trên radio, Tổng-Thống Dương-Văn-Minh đă đơn phương tuyên-bố ngừng bắn và Chuẩn-Tướng Nguyễn-Hữu-Hạnh “yêu-cầu binh-sĩ chấp-hành lệnh của Tổng-Thống”. Nhưng bất-chấp lệnh đó, tiếng súng kháng-cự của quân-đội VNCH vẫn nổ và cuộc giao-tranh vẫn diễn ra ác liệt ngay cửa ngơ Sài-G̣n.475
Tư-Lệnh Hạm-Đội chuẩn-bị Kế-hoạch Di-tản Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Hạm-Đội có thay-đổi nhân-sự. Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang chỉ-định Hải-Quân Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê thay-thế Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Xuân-Sơn ở chức-vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Khi đó Đại-Tá Khuê đang làm Tham-Mưu-Trưởng BTL/ Hành-Quân Biển. Lư-do của sự thay-đổi là để Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội có thể phối-hợp chặt-chẽ hơn với BTL/ Hành-Quân Biển, hầu thi-hành kế-hoạch hành-quân di-tản một cách nhanh-chóng và hữu-hiệu.476
Lui Binh Chiến-Lược và Di-tản Đoạn văn dưới đây được trích từ một bài phỏng-vấn Cựu Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang được thực-hiện bời Nhà Văn Phan-Lạc-Tiếp. Cuối tháng 4 năm 1975, Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu từ-chức, giao quyền cho Phó-Tổng-Thống Trần-Văn-Hương. Dưới nhiều áp-lực, Tổng-Thống Chỉ-định Trần-Văn-Hương phải nhường quyền-hành lại cho Đại-Tướng Dương-Văn-Minh. Người ta hy-vọng có một giải-pháp ôn-hoà trước sự tiến quân ồ ạt của Cộng-quân.477
Ông Trần-Văn-Hương và các phụ-tá.
Giữa lúc khó-khăn ấy, Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang, sau nhiều năm biệt-phái đảm-nhiệm các trách-vụ ngoài Hải-Quân, đă trở lại Hải-Quân. Quanh Sài-G̣n Cộng-quân đă có mặt. “Thuỷ-tŕnh huyết mạch, hơi thở của Sài-G̣n trong bao-lâu là con sông Ḷng-Tàu và Soài-Rạp phải được giữ vững. Và đó c̣n là con đường cuối-cùng của đoàn tàu Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà dời Sài-G̣n trước khi quá muộn. Ra đi nghiêm-túc và an-toàn. Đó là một cuộc lui-binh đẹp-đẽ, đầy kỷ-luật.”
Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang, Tư-Lệnh cuối-cùng của Hải-Quân VNCH. Trên đây là nhận-xét của Phó-Đô-Đốc Cang, Ông nói thêm; "Như tất cả mọi người đều biết, sức mạnh của Hải-Quân là sức mạnh tập-thể. Soạn-thảo kế-hoạch là ông Chí (Phó-Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí), ông Sơn (Nguyễn-Xuân-Sơn, Đại-Tá Cựu Tư-Lệnh Hạm-Đội) ông Kiểm (Đỗ-Kiểm, Đại-Tá Tham-Mưu-Phó Hành-Quân) ông Luân (Ngô-Khắc-Luân, Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng Tiếp-Vận) và ông Khuê (Phạm-Mạnh-Khuê, Đại-Tá Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân Biển). Đó là lúc sửa-soạn.
Sơ-đồ t́nh-h́nh quân-sự quanh khu-vực Sài-G̣n trong những ngày cuối tháng 4-1975.
Đâu như hôm 26/4/75, tôi có họp Bộ Tham-Mưu nói đến ư-định là phải ra khỏi Sài-G̣n. Mà đi là cùng đi tất cả. Ra khỏi Sài-g̣n, giữ lấy toàn-thể lực-lượng rồi sẽ tính sau. Sự ra đi của đoàn tàu có tính-cách chiến-lược. Người giúp tôi nhiều nhất, đắc-lực nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu là ông Hùng (Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng, Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân / Hành-Quân Sông ).” “Khi đoàn tàu dời khỏi Sài-G̣n, đă ở ngoài biển, mà Tổng-Thống Dương-Văn-Minh không đầu hàng th́ sao ?!" Ông Cang đáp: "Th́ ít nhất ta vẫn giữ được toàn lực-lượng của Hải-Quân ḿnh. Khi ấy, nếu thời-cuộc thuận-tiện ta lại quay trở lại, vào Cần-Thơ chẳng-hạn. Ở đó vấn-đề tiếp-liệu c̣n đầy-đủ. Dầu-nhớt và đạn-dược c̣n nhiều. C̣n Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh? Đô-Đốc Cang lại cười và nói: "Ông Minh lo về liên-lạc, nên các chiến-hạm chỉ nghe thấy tiếng ông ấy. Trên thực-tế, từ lúc tàu ra đi cho đến khi giao tàu cho Mỹ, trên đường đi chúng ta đều tiếp-cứu các ghe-xuồng của đồng-bào vượt biển, hệ-thống chỉ-huy do tôi điều-khiển vẫn rất nghiêm-chỉnh. Tuy đất-nước đă lọt vào tay Cộng-sản, nhưng đoàn tàu Hải-Quân vẫn c̣n trương cờ Việt-Nam Cộng-Hoà.
HQ-405 đưa người di-tản ra khỏi Sài-G̣n.
HQ-500 trong ngày di-tản khỏi Sài-G̣n.
Hải-Quân CSBV ở đâu? Trong những ngày Miền-Nam suy-sụp, HQVNCH di-tản từ Vùng 1 về Vùng 2, rồi về Phú-Quốc; sau cùng rút-lui cả Bộ Tư-Lệnh cũng như quân-nhân Hải-Quân và gia-đ́nh họ ra biển. Nhiều người đặt câu hỏi: “Trong những giờ giấc sôi-động như vậy, Hải-Quân Nhân-Dân của CSBV đă làm những ǵ? Trước hết Tướng Vơ-Nguyên-Giáp viết trong “Tổng-hành-dinh trong mùa Xuân toàn-thắng”: Ngày 13/4, Quân khu V điện về Bộ Tổng-tham-mưu báo-cáo kế-hoạch đánh-chiếm các đảo. Tôi điện ngay cho anh Mân: "...Các anh đă tích-cực tổ-chức thực-hiện quyết-định của Quân-uỷ Trung-ương về việc đánh-chiếm các đảo... Ngày hôm sau, một nguồn tin đáng tin-cậy báo về: “Có triệu-chứng quân Ngụy chuẩn-bị rút khỏi quần-đảo Trường-Sa.” Thế là Giáp và Hoàng-Hữu-Thái, Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân Nhân-Dân478, tổ-chức đổ-bộ, nổ súng tiến-công, ư-định tiêu-diệt quân trú-pḥng trên đảo Song-Tử-Tây479 cũng như các hải-đảo khác tại Trường-Sa Bỏ qua những bài viết tuyên-truyền của họ về chiến-công tiếp-thu Trường-Sa, giết-hại những toán Địa-phương-quân không khả-năng tự-vệ480 như vậy, người ta thấy một tài-liệu chính-thức của chính-quyền Hà-Nội ghi-nhận sự “lạc-bầy tụt-hậu” của Hải-Quân Nhân-dân như sau: “Khi Sài-g̣n thất-thủ, toán tiền-phương HQND tới được Nha-Trang”.481 C̣n nữa, sau 30 năm, một kư-giả báo VNCS viết rằng: …trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975… Chúng tôi cũng biết rằng: Khi hầu như nhân-dân cả nước đă được sống trong độc-lập tự-do th́ một số người lính hải-quân, đặc-công, bộ-binh vẫn phải tiếp-tục chiến-đấu ở vùng biển đảo phía Tây-Nam Tổ-Quốc-đến tận ngày 13-6-1975 mới giải-phóng hoàn-toàn các đảo này.482 Đau ḷng cho dân Miền-Nam mất tự-do, nhưng thê-thảm và tệ-hại hơn khi “ở vùng biển đảo phía Tây-Nam Tổ-quốc” đó, vào tháng 5 năm 1975, có tới 515 người dân Việt-Nam vô-tội bị Hải-Quân Khmer Đỏ tàn-sát không chừa một mạng nào tại đảo Thổ-Chu. Nhiều nhà cửa và dân-chúng Phú-Quốc cũng bị tiêu-huỷ và chết-chóc khi tàu chiến Cộng-Sản Miên oanh-tạc bừa băi lên ḥn đảo lớn nhất và trù-phú nhất thời đó.483 Đầu năm 2005, nhiều ngư-dân bị giết tại Vịnh Bắc-Việt, lần này kẻ sát-nhân cũng là Cộng-Sản anh em thuộc Hải-quân Trung-Quốc. Hải-Quân Nhân-dân CS Việt-Nam làm ǵ bất-động hay lẩn-tránh giữ hoà-b́nh484. Trước sau ǵ CSVN cũng phải trả lời nhân-dân! Hăy trả lời luôn cả lư-do485 về những chuyến tàu-bè xâm-nhập phá-hoại Miền-Nam mang quốc-kỳ Trung-Cộng.
Từ Hạm-Đội HQ/VNCH chuyển sang Hạm-Đội Hải-Quân Phi Số chiến-hạm nguyên thuộc hạm-đội HQ/VNCH được chuyển-giao Hải-Quân Phi-Luật-Tân gồm có: - 1 Khu-Trục-Hạm DER: Trần-Hưng-Đạo HQ-1.486 - 6 Tuần-Dương-Hạm WHEC: Trần-Quang-Khải HQ-2, Trần-Nhật-Duật HQ-3, Trần-B́nh-Trọng HQ-5 (từng tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa), Trần-Quốc-Toản HQ-6, Lư-Thường-Kiệt HQ-16 (từng tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa) và Ngô-Quyền HQ-17. - 5 Hộ-Tống-Hạm PCE: Đống-Da II HQ-07, Chi-Lăng II HQ-08, Chí-Linh HQ-11, Ngọc-Hồi HQ-12 và Vạn-Kiếp II HQ-14. - 5 Dương-Vận-Hạm LST (Landing Ship Tank): Cam-Ranh HQ-500, Thị-Nại HQ-502, Nha-Trang HQ-505, Mỹ-Tho HQ-800 và Cần-Thơ HQ-801. - 1 Cơ-Xưởng-Hạm ARL Vĩnh-Long HQ-802. - 3 Hải-Vận-Hạm LSM (Landing Ship Medium): Hát-Giang HQ-400, Hàn-Giang HQ-401 và Hương-Giang HQ-404. - 3 Trợ-Chiến-Hạm LSSL (Landing Ship Support Large): Đoàn-Ngọc-Tảng HQ-228, Lưu-Phú-Thọ HQ-229 và Nguyễn-Đức-Bổng HQ-231. - 3 Giang-Pháo-Hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large): Thiên-Kích HQ-329, Lôi-Công HQ-330 và Tầm-Sét HQ-331. - 2 Hoả-Vận-Hạm (Tàu chở dầu): HQ-470 và HQ-471. - 1 Tuần-Duyên-Đĩnh PGM: Ḥn-Tróc HQ-618.
Khu-Trục-Hạm Trần-Hưng-Đạo HQ-1 trở-thành Soái-Hạm của Hải-Quân Phi-Luật-Tân, mang tên BRP Rajah Lakandula (PS 4).
Tuần-Dương-Hạm Lư-Thường-Kiệt HQ-16 trở-thành PS7 Andres Bonifacio của Hải-Quân Phi-Luật-Tân.
Hộ-Tống-Hạm Đống-Đa II HQ-07 trở-thành PS22 Sultan Kudarat của Hải-Quân Phi-Luật-Tân.
Trên bước đường tị-nạn, hầu-hết các Cựu Quân-nhân HQVNCH đều có một giai-đoạn ngắn tạm-trú trong những căn lều vải tại đảo Guam. Chương 7
Hệ-thống Tổ-Chức Tổng-Quát Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
Khởi đi từ số không, sau hơn 20 năm tiến-triển, Hải-Quân Việt-Nam487 đă thực-sự trưởng-thành.488 Về tổ-chức, nói một cách tổng-quát, Hải-Quân được mô-tả như dưới đây:
Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân489 có nhiệm-vụ điều-hành, quản-trị và phát-triển Quân-chủng. Đứng đầu cơ-quan đầu-năo có Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam. Phụ-Tá là Tư-Lệnh-Phó, rồi đến Tham-Mưu-Trưởng trách-nhiệm tham-mưu.
Sơ-đồ Tổ-Chức HQVNCH.
H́nh-ảnh sân cờ Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân và đường xuống cầu Đô-Đốc. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân được chia ra làm các khối tham-mưu chính như sau: - Khối Hành-Quân - Khối Tiếp-vận - Khối Nhân-viên - Khối Chiến-tranh Chính-trị - Khối Quân-huấn - Khối Quân-y - Sở An-ninh Hải-Quân và - Văn-pḥng Tổng-Thanh-tra. Có 5 Tham-Mưu-Phó các Khối Hành-Quân, Tiếp-vận, Nhân-viên, Chiến-tranh Chính-trị và Quân-huấn. Có-Trưởng-Khối Quân-Y, Trưởng-Sở An-ninh Hải-Quân và Tổng-Thanh-Tra. Cấp-số Phó-Đề-Đốc. Mỗi khối chia ra nhiều pḥng. Trưởng-Pḥng có cấp-số Đại-Tá. Chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam Chức-vụ Tư-Lệnh490 Hải-Quân Việt-Nam được lần-lượt đảm-nhiệm bởi các Sĩ-Quan sau đây: - HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ từ 20-8-1955 đến 11-1957 (thăng-cấp HQ Trung-Tá, rồi HQ Đại-Tá trong chức-vụ). - HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn từ 11-1957 đến 6-8-1959 (thăng-cấp HQ Trung-Tá khi được bổ-nhiệm). - HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền từ 6-8-1959 đến 1-11-1963 (thăng-cấp HQ Trung-Tá khi được bổ-nhiệm, thăng-cấp HQ Đại-Tá trong chức-vụ). - HQ Đại-Tá Chung-Tấn-Cang từ 11-1963 đến 4-1965 (thăng-cấp HQ Đại-Tá khi được bổ-nhiệm; thăng-cấp Phó-Đề-Đốc và Đề-Đốc trong chức-vụ). - HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn từ 26-4-1965 đến tháng 9-1966. - Trung-Tướng Cao-Văn-Viên từ 9-1966 đến tháng 10-1966. - HQ Đại-Tá Trần-Văn-Chơn từ 1-11-1966 đến tháng 1-11-1974 (thăng-cấp HQ Đại-Tá khi được bổ-nhiệm; thăng-cấp Phó-Đề-Đốc và Đề-Đốc trong chức-vụ). - Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh từ tháng 1-11-1974 đến tháng 3-1975. - Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang từ tháng 3-1975 đến 30-4-1975.491
Quang-cảnh nghi-lễ trang-nghiêm trên Cầu-Tàu Đô-Đốc trong một buổi đón-tiếp giới-chức Đồng-Minh.
Các Lực-Lượng Chiến-đấu 492 Lực-Lượng Chiến-đấu của Hải-Quân Việt-Nam điều-hành bởi 7 Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng và 9 Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng khác nhau như sau: - 5 Vùng Duyên-Hải - 2 Vùng Sông-Ng̣i - Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-đô - Đặc-Khu Rừng-Sát - Liên-Đoàn Tuần-Giang - Hạm-Đội - Lực-Lượng Thuỷ-Bộ - Lực-Lượng Tuần-Thám - Lực-Lượng Trung-Ương - Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải - Và Thuỷ-Quân Lục-Chiến, Lực-Lượng Tổng-Trừ-Bị của QL/VNCH.
Năm Vùng Duyên-Hải Để phù-hợp với tổ-chức lănh-thổ và chiến-thuật, Hải-Quân Việt-Nam chia duyên-hải thành 5 Vùng được gọi là: Vùng I Duyên-Hải, Vùng II Duyên-Hải Vùng III Duyên-Hải, Vùng IV Duyên-Hải và Vùng V Duyên-Hải. Vùng Duyên-Hải có nhiệm-vụ chính-yếu là - duy-tŕ an-ninh duyên-hải, các hải-đảo, - ngăn-chặn sự xâm-nhập bất-hợp-pháp bằng đường thuỷ, - điều-động hành-quân các đơn-vị Hải-Quân trực-thuộc, - tăng-phái và yểm-trợ hành-quân cho các Quân-Khu liên-hệ. Đơn-vị chính-yếu của Vùng Duyên-Hải là - các Duyên-Đoàn, - các Hải-Đội Duyên-pḥng, - các Đài Radar Kiểm-Báo, - các Căn-cứ Hải-Quân đồn-trú trong lănh-thổ trách-nhiệm. Suốt dọc duyên-hải Việt-Nam có 28 Duyên-Đoàn và 16 đài Radar Kiểm-Báo rải-rác. Mỗi Duyên-Đoàn có 12 chiến-thuyền gắn động-cơ và gồm các loại: - Ghe Chủ-lực, - Ghe Thiên-nga, - Duyên-Kích-Đĩnh. Mỗi Hải-Đội Duyên-pḥng được trang-bị với những loại chiến-đĩnh gồm: - Các Duyên-Tốc-Đĩnh- Patrol Craft, Fast (PCF). - Các Tuần-Duyên-Đĩnh (WPB).
Hai Vùng Sông-Ng̣i Hải-Quân Việt-Nam có hai Vùng Sông-Ng̣i: - Vùng 3 Sông-Ng̣i bao-gồm các sông-rạch thuộc lănh-thổ Quân-Khu III. - Vùng 4 Sông-Ng̣i bao-gồm các sông-rạch thuộc lănh-thổ Quân-Khu IV. Hai Vùng Sông-Ng̣i này có nhiệm-vụ chính-yếu là duy-tŕ an-ninh trên các sông-rạch, ngăn-chặn Cộng-Sản sử-dụng đường thuỷ để liên-lạc và xâm-nhập vùng trách-nhiệm; yểm-trợ hành-quân cho các đơn-vị bạn; phối-hợp hành-quân Liên-Quân và yểm-trợ kế-hoạch b́nh-định phát-triển địa-phương. Ngoài các Căn-cứ Hải-Quân, đơn-vị chính-yếu của Vùng Sông-Ng̣i là những Giang-Đoàn Xung-phong được trang-bị bởi các Giang-đĩnh cũ do Hải-Quân Pháp để lại, gồm có các loại sau đây: - Soái-Đĩnh - Tiền-Phong-Đĩnh - Quân-Vận-Đĩnh - Tiểu-Vận-Đĩnh - Tiểu-Giáp-Đĩnh.
Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-Đô là vùng sông-ng̣i thuộc lănh-thổ Biệt-Khu Thủ-đô, được thành-lập mục-đích thống-nhất việc điều-hành các đơn-vị Hải-Quân tại Sài-G̣n để góp phần bảo-vệ Thủ-Đô và cung-cấp những dịch-vụ cần-thiết cho các đơn-vị Hải-Quân đồn-trú tại Sài-G̣n. Ngoài ra Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Biệt-Khu Thủ-đô c̣n có nhiệm-vụ bảo-vệ an-ninh cho Quân-cảng và Thương-cảng Sài-G̣n.
Đặc-Khu Rừng-Sát Kể từ năm 1962, Hải-Quân Việt-Nam được chỉ-định trách-nhiệm an-ninh khu-vực bao-gồm hai con sông chiến-lược quan-trọng: sông Ḷng-Tàu và sông Soài-Rạp. Hai con sông này là trục-lộ huyết-mạch nối liền Thủ-đô Sài-G̣n với Biển-Đông. Đặc-Khu Rừng-Sát493 là một rừng chồi dày-đặc, thích-hợp cho hoạt-động của du-kích Cộng-sản; do đó việc đảm-trách an-ninh trên các sông-rạch liên-hệ rất khó-khăn. Tuy-nhiên Hải-Quân Việt-Nam đă giữ an-ninh cho hàng ngàn thương-thuyền tiếp-tế cho Sài-G̣n. Điều này chứng-tỏ khả-năng hữu-hiệu của các Lực-Lượng tuần-tiễu Hải-Quân tại Đặc-Khu Rừng-Sát. Cựu Đại-Tá Nelson, một Sĩ-Quan HQHK từng làm việc tại Đặc-khu này đă tiểu-thuyết-hoá những hoạt-động giữ an-ninh thuỷ-lộ chiến-lược này qua một cuốn sách của Ông.494
Huy-Hiệu Đặc-Khu Rừng-Sát
Trục-Lôi-Đĩnh MSB hoạt-động rất hữu-hiệu trên Sông Ḷng-Tàu.
Liên-Đoàn Tuần-Giang Trước đây Liên-Đoàn Tuần-Giang thuộc Địa-Phương-Quân, sau đó được sáp-nhập vào Hải-Quân; gồm có: - 24 Đại-đội Tuần-Giang, - 3 Đại-đội sửa-chữa, - 1 Trung-Tâm Huấn-luyện tại Cát-Lái. Các Đại-đội Tuần-Giang được thành-lập để yểm-trợ hành-quân cho những Tiểu-Khu liên-hệ và bảo-vệ an-ninh trên sông-rạch. Chiến-đĩnh Tuần-Giang gồm có các loại: - Quân-Vận-Đĩnh LCM, - Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP. Hạm-Đội Hạm-Đội là đại đơn-vị ṇng-cốt của Hải-Quân Việt-Nam, quản-trị hành-chánh cho các chiến-hạm có khả-năng hoạt-động ngoài biển. Các chiến-hạm Hạm-Đội VNCH thường-xuyên: (1)- tuần-tiễu (a) cận-duyên bảo-vệ lănh-hải và vùng cận-duyên, (b) tuần-tiễu vùng viễn-duyên để phát-giác và ngăn-chặn kịp-thời các hoạt-động của địch (2)- hành-quân đổ-bộ, chuyên-chở, tiếp-tế, yểm-trợ sửa-chữa các tiểu-đĩnh tại vùng hành-quân (3)- phối-hợp hành-quân và yểm-trợ Hải-pháo cho các đơn-vị bạn. (4)- bảo-vệ tài-nguyên, chống lại mọi hoạt-động bất-hợp-pháp. (5)- Phong-toả hải-phận địch-quân. (6)- Đổ-bộ chiếm-cứ lănh-thổ địch. (7)- Hành-quân phá-huỷ các vị-trí địch. (8)- Tiêu-diệt Hải-Quân của địch.495
Yểm-trợ Hải-pháo một ngày mù trời.
Lực-Lượng Thuỷ-bộ: Được thành-lập từ tháng 6 năm 1969 để thay-thế Lực-Lượng Đặc-nhiệm 117 của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Lực-Lượng Thuỷ-Bộ hoạt-động tại vùng đồng-bằng sông Cửu-Long, gồm các chiến-đĩnh sau đây: - Soái-Đĩnh Thuỷ-Bộ - Tiền-Phong-Đĩnh - Quân-Vận-Đĩnh Tác-chiến - Trợ-Chiến-Đĩnh Lực-Lượng Tuần-Thám Lực-Lượng Tuần-Thám được thành-lập từ tháng 10 năm 1969 và gồm có 14 Giang-Đoàn, chia ra thành 6 Liên-Đoàn Tuần-Thám. Nhiệm-vụ chính-yếu của Lực-Lượng Tuần-Thám là tuần-tiễu, bảo-vệ an-ninh sông-ng̣i và ngăn-chặn sự xâm-nhập lén-lút của Cộng-Sản Bắc-Việt bằng đường thuỷ qua ngă hành-lang biên-giới Miên-Việt. Mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám được trang-bị các Giang-Tốc-Đĩnh tối-tân có vận-tốc cao và khả-năng hoạt-động trong các nơi sông cạn và rất dễ-dàng vận-chuyển.
Lực-Lượng Trung-Ương Lực-Lượng Trung-Ương được thành-lập nhằm mục-đích tập-trung-một số đơn-vị Hải-Quân, để thi-hành những nhiệm-vụ đặc-biệt có tầm hoạt-động liên vùng. Lực-Lượng Trung-Ương gồm có các đơn-vị sau đây: - 07 Giang-Đoàn Ngăn-chặn - 02 Giang-Đoàn Trục-lôi
Thuỷ-Quân Lục-Chiến Thuỷ-Quân Lục-Chiến đă được bành-trướng tới cấp Sư-Đoàn. Tuy nằm trong Quân-chủng Hải-Quân một cách lỏng lẻo về phương-diện tổ-chức quân-binh-chủng, nhưng trên thực-tế về hành-quân, Binh-chủng này là Lực-Lượng Tổng-Trừ-Bị đặt dưới quyền điều-động hành-quân của Bộ Tổng-Tham-Mưu.
Phù-hiệu Thuỷ-Quân Lục-Chiến với 4 chữ Danh-Dự Tổ-Quốc. Cấp-số lư-thuyết của Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến là 14,072 người. Luôn-luôn, quân-số của Sư-Đoàn được bổ-sung kịp-thời mỗi khi bị hao-hụt v́ chiến-trận. Vào năm 1974 v́ nhu-cầu hành-quân, Lữ-Đoàn 468 gồm các Tiểu-Đoàn 14 Tiểu-Đoàn 16, Tiểu-Đoàn 18 và 1 Pháo-Đội 105 ly được ra đời để chuẩn-bi lần cho việc tổ-chức Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến thứ hai.496 Truy-t́m công-báo chính-phủ cũng như văn-thư của Bộ Quốc-pḥng, không ai thấy có giấy-tờ nào quy-định Binh-chủng TQLC thay-đổi qua Lục-Quân (hay Không-quân). Hiển-nhiên các “Chiến-sĩ Mũ Xanh Cọp Biển” dù hệ-thống hành-quân có xa-cách, nhưng vẫn là những người lính thuỷ thuộc Quân-chủng Hải-Quân.
Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải
Huy-hiệu Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải. Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải thành-lập từ tháng 3 năm 1964, được đặt trực-thuộc Quân-chủng Hải-Quân về phương-diện nhân-viên và hành-chánh. Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải có nhiệm-vụ thi-hành các chỉ-thị của Nha Kỹ-Thuật Bộ Tổng-Tham-Mưu để thi-hành các công-tác hành-quân đặc-biệt của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà dọc duyên-hải Nam cũng như Bắc Việt-Nam.
H́nh-ảnh một số Sĩ-Quan phục-vụ Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải năm 1968.
Biệt-hải, Huấn-luyện và hoạt-động. Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải-Sử-dụng Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVN cho các hoạt-động trên biển. Sở cũng sử-dụng biệt-hải cho công-tác đổ-bộ trên bờ. Biệt-hải được huấn-luyện như một điệp-viên chiến-tranh thuần-túy để thích-nghi với mọi môi-trường như lặn, đổ-bộ và nhảy trực-thăng từ một cao-độ khá nguy-hiểm mà không cần dù. Biệt-hải biết sử-dụng tất cả loại vũ-khí, của ta lẫn của địch, và có khả-năng xâm-nhập, trốn-thoát và sống-c̣n (survival).
H́nh chụp trong ngày tốt-nghiệp một lớp huấn-luyện Biệt-Hải. 497 Thời-gian huấn-luyện là mười sáu tuần-lễ, kể luôn cả "tuần-lễ địa-ngục". Muốn vượt qua "Tuần-lễ địa-ngục", học-viên phải qua các thử-thách rất khó-khăn mà một người thể-lực trung-b́nh không thể nào vượt qua nổi. Một số khoá-sinh Biệt-hải khi ra trường xin chuyển sang Sở Pḥng-vệ Duyên-Hải, chuyên thi-hành công-tác xâm-nhập Miền-Bắc, từ bắc Vĩ-tuyến 17. Một số tốt-nghiệp thuộc quân-số Hải-quân về phục-vụ tổ-chức Người-Nhái của quân-chủng HQVNCH.
Chỉ-huy và Điều-động Hành-Quân Để việc hành-quân được hữu-hiệu, các Lực-Lượng Chiến-đấu Hải-Quân được đặt dưới sự Chỉ-huy và điều-động hành-quân của BTL/Hhq/LĐ Sông và BTL/Hhq/ LĐ Biển. Bộ Chỉ-Huy Hành-quân Lưu-động Sông Chỉ-huy và điều-động các cuộc hành-quân trong sông-ng̣i thuộc lănh-thổ Quân-Khu III - Quân-Khu IV và Biệt-Khu Thủ-Đô nhằm mục-đích ngăn-chặn địch-quân xâm-nhập và chuyển-vận tiếp-tế bằng đường sông. Bảo-vệ an-ninh sông-ng̣i và yểm-trợ các Sư-Đoàn Bộ-Binh hành-quân qua các cuộc Hành-Quân Trần-Hưng-Đạo 36, 41, 43, 44. Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân Lưu-động Biển Để việc kiểm-soát toàn-thể Hải-phận Việt-Nam Cộng-Hoà được thực-hiện hữu-hiệu và liên-tục, Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân Lưu-Động Biển (BTL/HhQ/LĐ Biển) được thành-lập để chỉ-huy và điều-động các cuộc hành-quân Trần-Hưng-Đạo Biển dọc theo duyên-hải Việt-Nam, nhằm tạo một màn lưới ngăn-chặn mọi sự xâm-nhập của Cộng-Sản Bắc-Việt bằng đường biển, đồng-thời yểm-trợ các Lực-Lượng bạn dọc hải-biên, hành-quân diệt địch và b́nh-định phát-triển. Có 5 vùng Hành-Quân Biển, mỗi vùng được kiểm-soát bởi một Lực-Lượng Đặc-nhiệm gồm khoảng 100 chiến-hạm, chiến-đĩnh và chiến-thuyền. Tính từ bờ ra khơi, Hành-Quân Biển chia thành 3 hành-lang tuần-tiễu: - Hành-lang cận-duyên từ bờ-biển ra đến 12 hải-lư và được các chiến-thuyền, Duyên-Tốc-Đĩnh, Tuần-Duyên-Đĩnh, Tuần-Duyên-Hạm đảm-trách hoạt-động tuần-tiễu. - Hành-lang viễn-duyên từ 12 hải-lư ra đến 52 hải-lư được những loại chiến-hạm sau đây đảm-trách tuần-tiễu: Khu-Trục-Hạm, Tuần-Dương-Hạm, Hộ-Tống-Hạm. - Hành-lang Không-thám từ 52 hải-lư đến 100 hải-lư do các phi-cơ Không-thám HQ Hoa-Kỳ trách-nhiệm hoạt-động.498 Hệ-thống Tiếp-vận Hải-Quân Kể từ năm 1970 với sự gia-tăng nhanh-chóng về quân-số, cũng như trang-cụ, chiến-hạm và chiến-đĩnh; Bộ Tư-Lịnh HQ có thêm các chức-vụ Tham-Mưu- Phó Hành-Quân, Tiếp-Vận, v.v... Tham-mưu-Phó Tiếp-Vận lúc bấy giờ, vừa điều-hành tiếp-vận cho các đơn-vị Hải-Quân, vừa phối-hợp tổ-chức các cơ-cấu yểm-trợ tiếp-vận tại mỗi địa-phương, sao cho phù-hợp với nhu-cầu hành-quân và các vị-trí chiếm-đóng của các đơn-vị Hải-Quân. Để điều-hành cả guồng máy tiếp-vận Hải-Quân, BTL/HQ quyết-định thành-lập Bộ Chỉ-huy Yểm-trợ Tiếp-vận HQ (BCH/YT/TV/HQ). Trong giai-đoạn tổ-chức và trang-bị cho các đơn-vị yểm-trợ tiếp-vận tại địa-phương, Tham-Mưu-Phó Tiếp-vận được chỉ-định kiêm-nhiệm chức-vụ Chỉ-huy-trưởng BCH/YT/TV/HQ.
Sơ-đồ Tổ-chức Tham-mưu Khối Tiếp-Vận thuộc BTL/HQ.
Cho đến tháng 4 /72, để sự phân-nhiệm được rơ-ràng giữa hai phần-vụ Tham-Mưu tại BTL/HQ và việc điều-hành yểm-trợ tiếp-vận, một Sĩ-Quan Hải-Quân khác đă được bổ-nhiệm làm Chỉ-Huy-Trưởng BCH/YT/TV/HQ.499 Các đơn-vị yểm-trợ tiếp-vận trung ương gồm có: Hải-Quân Công-Xưởng, Trung-Tâm Tiếp-Liệu, Ty Công-Thự Tiện-Ích, Trung-Tâm Sửa-chữa Điện-Tử, Trung-Tâm Hành-Chánh HQ, Khối Quân-Y HQ. Các đơn-vị yểm-trợ tiếp-vận tại địa-phương gồm có: - 7 Căn-Cứ Yểm-trợ Tiếp-Vận: CCYT / TV Đà-Nẵng, CCYT / TV Cam-Ranh, CCYT / TV Nhà-Bè, CCYT / TV Đồng-Tâm, CCYT / TV B́nh-Thuỷ, CCYT / TV Cát-Lở, CCYT / TV An-Thới. - 7 Tiền-Doanh Yểm-trợ Tiếp-Vận: TDYT / TV Quy-Nhơn, TDYT / TV Cát-Lái, TDYT / TV Rạch-Sỏi, TDYT / TV Năm-Căn, TDYT / TV Bến-Lức, TDYT / TV Thuận-An (trực-thuộc CCYTTV Đà-Nẵng), TDYT / TV Mỹ-Tho (trực-thuộc CCYTTV Đồng-Tâm). - 2 tàu chuyển-vận và tiếp-tế. Nói đến quân-số, Bộ Chỉ-Huy này quản-trị hành-chánh, kỹ-thuật, tiếp-vận liên-hệ đến một quân-số thật lớn-lao, có khi lên đến trên 10,000 người.
Các Căn-Cứ Yểm-trợ Tiếp-Vận và Tiền-Doanh Yểm-trợ Tiếp-Vận thống-thuộc BCH/YT/TV/HQ.
Các đơn-vị trực-thuộc Bộ Chỉ-Huy Yểm-Trợ Tiếp-Vận Hải-Quân gồm có: * Hải-Quân Công-Xưởng, Trung-Tâm Tiếp-Liệu, Ty Công-Thự Tiện-Ích, Trung-Tâm Sửa-chữa Điện-Tử. * 07 Căn-cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận tại: Đà-Nẵng, Cam-Ranh, Cát-Lở, Nhà-Bè, An-Thới, Đồng-Tâm và B́nh-Thuỷ. * Các Tiền-Doanh Yểm-trợ Tiếp-Vận.
Sơ-đồ Điều-Hành Trung-Tâm Tiếp-Liệu. Huấn-luyện Hải-Quân Việt-Nam có 03 Trung-Tâm Huấn-luyện tại Nha-Trang, Cam-Ranh và Sài-G̣n.500: * TTHL/HQ Nha-Trang: Có khả-năng huấn-luyện từ 1,200 đến 1,500 khoá-sinh gồm có các trường Sĩ-Quan Hải-Quân, trường Cao-Đẳng Chuyên-nghiệp và trường Trung / Sơ-Đẳng Chuyên-nghiệp (khi có nhu-cầu). * TTHL/HQ Cam-Ranh: Có khả-năng huấn-luyện từ 1,500 đến 1,800 khoá-sinh gồm các trường Huấn-luyện Chiến-hạm, trường Pḥng-tai, trường Sơ-Đẳng Chuyên-nghiệp và trường Tân-binh Hải-Quân. * TTHL/HQ Sài-G̣n: Có khả-năng huấn-luyện 200 khoá-sinh gồm các trường Chỉ-huy Tham-Mưu Hải-Quân, trường Chuẩn-Úy Đoàn-viên, trường Trung-Đẳng Chuyên-nghiệp và các khoá huấn-luyện bổ-túc ngắn hạn. Một trong những nhóm Huấn-Luyện-Viên gương-mẫu, tối-yếu cho khả-năng hoạt-động của các chiến-hạm Hạm-Đội, thường được gọi là Trường Huấn-Luyện Ngoài Khơi. Trường này trực-thuộc TTHL/HQ Cam-Ranh (hay TTHL/HQ Sài-G̣n, hay TTHL Bổ-Túc trước đó), chưa bao-giờ là một đơn-vị biệt-lập, mặc-dù Trưởng Nhóm luôn-luôn là những Sĩ-Quan thâm-niên, kinh-nghiệm hải-nghiệp già-dặn.
Chỉ-Huy-Trưởng và các khoá-sinh trường Chỉ-huy Tham-Mưu Hải-Quân chụp h́nh trước cột cờ Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Sài-G̣n.
Ngoài ra c̣n có một Trung-Tâm Huấn-luyện Tuần-Giang tại Cát-Lái trực-thuộc Liên-Đoàn Tuần-Giang, chuyên phụ-trách huấn-luyện thêm các khoá Hạ-Sĩ-Quan và Sơ-Đẳng chuyên-nghiệp các ngành Quản-kho và Tiếp-vụ.
Chiếc bè này gồm nhiều ngăn kín nước được một tàu kéo ḍng rất xa đằng sau, dùng làm bia cho các chiến-hạm thực-tập tác-xạ.Trợ-huấn-cụ này không thể thiếu trong việc huấn-luyện của Trường Huấn-Luyện Ngoài-Khơi.
Chương 8
Điều-hành của một số Đại-Đơn-Vị và Đơn-vị Tiêu-chuẩn
Hoạt-động và tổ-chức điều-hành một số đại-đơn-vị và đơn-vị tiêu-chuẩn được tŕnh-bày dưới đây:501
Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang toạ-lạc trên đường Duy-Tân nối dài, qua khỏi phi-trường quân-sự Nha-Trang và trước khi tới Chụt. Công-tác xây-cất Trung-Tâm Huấn-luyện được khởi-sự vào tháng 11-1951 và hoàn-tất vào tháng 7-1952. Hải-Quân Pháp chuyển-giao hoàn-toàn cho Hải-Quân Việt-Nam ngày 7 tháng 11 năm 1955.
Quang-cảnh Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang ngày Thanh-Tra.
Từ ngày Hải-Quân Việt-Nam chính-thức điều-hành cho đến tháng 4-1975, Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang đă được các Sĩ-Quan sau đây chỉ-huy: - Hải-Quân Đại-Úy Chung-Tấn-Cang từ 7-11-55 đến 29-3-58 (thăng-cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ). - Hải-Quân Thiếu-Tá Đặng-Cao-Thăng từ 29-3-58 đến 10-2-60. - Hải-Quân Thiếu-Tá Vương-Hữu-Thiều-từ 10-2-60 đến 19-1-63. - Hải-Quân Đại-Úy Dư-Trí-Hùng từ 19-1-63 đến 23-12-63 (thăng-cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ). - Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn-Đức-Vân từ 23-12-63 đến 26-2-66. - Hải-Quân Thiếu-Tá Bùi-Hữu-Thư từ 26-2-66 đến 13-7-66. - Hải-Quân Đại-Tá Đinh-Mạnh-Hùng từ 13-7-66 đến 1-3-69. - Hải-Quân Đại-Tá Khương-Hữu-Bá từ 1-3-69 đến 6-8-71. - Hải-Quân Trung-Tá Nguyễn-Trọng-Hiệp từ 6-8-71 đến 16-1-73 (thăng-cấp Đại-Tá trong chức-vụ). - Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Thanh-Châu từ 16-1-73 đến 4-75 (thăng-cấp Phó-Đề-Đốc trong chức-vụ).
Phó-Đề-Đốc Nguyễn-Thanh-Châu, vị Chỉ-Huy-Trưởng cuối cùng của TTHL/HQ Nha-Trang
Chỉ-Huy-Trưởng TTHL/HQ Nha-Trang trong buổi lễ chuyển-giao Quân-kỳ từ khoá đàn anh sang khoá đàn em.
Từ khoá đầu-tiên do Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam tuyển-mộ và huấn-luyện, khoá 8 Sĩ-Quan Hải-Quân Nha-Trang, tiêu-chuẩn tuyển-chọn Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân là bằng tú-tài toàn-phần, ban toán. Sinh-Viên được huấn-luyện quân-sự theo tiêu-chuẩn các Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Quân quốc-tế. Về văn-hoá, Sinh-Viên được giảng-dạy theo chương-tŕnh Đại-học. Chương-tŕnh thụ-huấn là hai năm và Sinh-Viên ra trường với cấp-bậc Thiếu-Úy Hải-Quân. Sau năm 1962, v́ số-lượng Sĩ-Quan tốt-nghiệp không đủ cung-ứng cho nhu-cầu Hải-Quân, thời-gian huấn-luyện được rút ngắn bớt đi bốn tháng. Đến năm 1969 v́ t́nh-trạng đôn quân, sau khoá 18 Sinh-Viên Sĩ-Quan, một lần nữa Hải-Quân lại phải thay-đổi luôn chương-tŕnh huấn-luyện Sĩ-Quan mười tám tháng. Kể từ khoá 19, Sinh-Viên được tuyển-mộ nhiều hơn, khoảng hai trăm Sinh-Viên cho mỗi khoá. Về văn-hoá, Sinh-Viên vẫn được dạy theo chương-tŕnh Đại-học như các khoá đàn anh. Về quân-sự, Sinh-Viên được rèn-luyện theo hệ-thống tự chỉ-huy. Sau khi thụ-huấn một năm, Sinh-Viên được đi thực-tập trong thời-gian ngắn rồi tốt-nghiệp với cấp-bậc Thiếu-Úy Hải-Quân. Khoá 26 Sinh-Viên Sĩ-Quan Hải-Quân là khoá cuối-cùng của Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang. Trong suốt thời-gian từ khi thành-lập cho đến tháng 4-1975, Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang đă huấn-luyện 26 Khoá Sĩ-Quan Hải-Quân cả hai ngành chỉ-huy lẫn cơ-khí; hoàn-tất nhiều khoá Sĩ-Quan Đặc-biệt, đào-tạo chừng 16,000 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên chuyên-nghiệp đủ mọi ngành. Bản tổng-kết ghi-nhận số-lượng Sinh-Viên của 26 Khoá Sĩ-Quan Hải-Quân như sau: Khoá 1: 9 Sinh-Viên Khoá 2: 16 Sinh-Viên Khoá 3: 23 Sinh-Viên Khoá 4: 15 Sinh-Viên Khoá 5: 23 Sinh-Viên Khoá 6: 21 Sinh-Viên Khoá 7: 46 Sinh-Viên Khoá 8: 50 Sinh-Viên Khoá 9: 38 Sinh-Viên Khoá 10: 55 Sinh-Viên Khoá 11: 81 Sinh-Viên Khoá 12: 103 Sinh-Viên Khoá 13: 87 Sinh-Viên Khoá 14: 100 Sinh-Viên Khoá 15: 108 Sinh-Viên Khoá 16: 134 Sinh-Viên Khoá 17: 136 Sinh-Viên Khoá 18: 95 Sinh-Viên Khoá 19: 272 Sinh-Viên Khoá 20: 261 Sinh-Viên Khoá 21: 269 Sinh-Viên Khoá 22: 248 Sinh-Viên Khoá 23: 282 Sinh-Viên Khoá 24: 279 Sinh-Viên Khoá 25: 186 Sinh-Viên Khoá 26: 182 Sinh-Viên Tổng-Cộng vào khoảng 3,200 Sinh-Viên. 502
Tổ-Chức TTHL/HQ Nha-Trang Theo Sơ-đồ tổ-chức, hai khối Quân-Sự-Vụ và Văn-Hoá-Vụ liên-hệ mật-thiết đến việc huấn-luyện cho khoá-sinh. 1) Khối Quân-Sự-Vụ: Có 2 Liên-Đoàn: a) Liên-Đoàn SVSQ gồm 2 khoá, một khoá đàn-anh và một khoá đàn-em. b) Liên-Đoàn Chuyên-nghiệp gồm các khoá-sinh tân-tuyển cũng như các khoá-sinh học chuyên-nghiệp, các HSQ học chuyên-nghiệp. Trách-nhiệm về sinh-hoạt, quân-phong quân-kỷ, hệ-thống tự chỉ-huy, các cuộc thanh-tra, tổ-chức các cuộc lễ diễn-hành và lễ măn-khoá. c) Pḥng Thể-Thao đảm-trách việc huấn-luyện thể-dục, thể-thao và vơ-thuật. 2) Khối Văn-Hoá-Vụ: Có 2 trường: a) Trường Sĩ-Quan Hải-Quân, có một Hiệu-Trưởng. b) Trường Sơ-Đẳng Chuyên-Nghiệp Hải-Quân, có một Hiệu-Trưởng. Trách-nhiệm về các chương-tŕnh huấn-luyện, tổ-chức thi định-kỳ, thi trắc-nghiệm và thi măn-khoá. c) Quản-Lư Thư-viện và pḥng Trợ-Huấn-Cụ.503
Sơ-đồ tổ-chức Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang trong giai-đoạn Trung-Tâm điều-hành Trường Sĩ-Quan Hải-Quân và các Trường Chuyên-Nghiệp.
Hải-Quân Trung-Tá Hà-Ngọc-Lương (Thủ-khoa Khoá 9 SQHQ) cùng vợ con tại Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang ngày 28-3-1975 sau khi đơn-vị của ông di-tản vào Sài-G̣n. Khi Quân-lực VNCH rút-lui khỏi Nha-Trang di-tản vào Sài-G̣n, Hải-Quân Trung-Tá Hà-Ngọc-Lương, không muốn hàng giặc đă tự-sát cùng vợ con tại văn-pḥng Văn-Hoá-Vụ-Trưởng Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân.
Hải-Quân Công-xưởng Sài-G̣n Vào thời Nguyễn-Ánh chiến-tranh với Tây-Sơn, một xưởng Chu-Sư tại Gia-Định được h́nh-thành. Sử-gia Trịnh-Hoài-Đức ghi-nhận: xưởng lập vào tháng 12 năm Canh-Tuất (đầu năm 1791), dọc từ bờ sông Tân-B́nh đến sông B́nh-Trị, chứa những dụng-cụ thuỷ-chiến và các loại ghe tàu. Cuốn sách “Gia-Định Thành Thông Chí” viết: Xưởng Chu-Sư ở về phía Đông thành Phiên-An, dài 3 dặm. John Barrow cũng ghi chép là xưởng này vừa đóng tàu-thuyền vừa chế-tạo vũ-khí. Lelabrousse tả các xưởng này: Các xưởng thuỷ-quân và quân-cảng của Nguyễn-Ánh làm người ngoại-quốc ngạc-nhiên và chắc sẽ khiến cả Âu-châu thán-phục...504 Trong giai-đoạn đó (1792-1793) riêng số lính thợ làm thuốc súng ở xưởng đă có tới 8,000 người.505 Tóm lại, xưởng Chu-Sư vào cuối thế-kỷ 18 rất đông nhân-công và rất rộng, chạy dài theo sông Thị-Nghè suốt dọc từ Thảo-Cầm-Viên ra đến tận sông Sài-G̣n. Hải-Quân Công-Xưởng mà ta thấy sau này, chỉ chiếm một phần phía Đông-Nam của Xưởng cũ, số thợ làm việc cũng ít hơn. Tuy vậy, Hải-Quân Công-Xưởng vẫn c̣n là một trong những Thuỷ-xưởng lớn nhất Đông-Nam Á-Châu. Hải-Quân Công-Xưởng gồm 87 toà nhà; mỗi toà nhà được sử-dụng như một cơ-xưởng. Ngoài các cơ-xưởng c̣n có hai ụ ch́m; một ụ dài 520 feet và ụ kia dài 119 feet; một ụ nổi có khả-năng sửa tàu nặng một ngàn tấn; bốn đường rầy, bảy cần trục lưu-thông, một ḷ nấu-chảy. Các cơ-sở đó toạ-lạc trên 53 mẫu đất.506 Nói tổng-quát, Hải-Quân Công-xưởng là một đơn-vị lớn, có hơn 4,000 thợ dân-chính và gần 1,000 quân-nhân các cấp có khả-năng nghề-nghiệp để đảm-nhiệm những công-việc sau: - Sửa-chữa đại-kỳ, định-kỳ, - Sửa-chữa bất-thường. - Tân-trang và chế-tác chiến-đĩnh.507 Các ghe Hải-Thuyền, ghe Ferro-Cement lưới gà được sản-xuất từ HQCX. Với cần trục cao và ụ lớn nhứt tại VN ngoài việc sửa-chữa cho các chiến-hạm HQ, HQCX c̣n giúp cho thương-thuyền VN được vào ụ để tu-bổ lườn-tàu. Phụ-Tá Giám-đốc HQCX là hai vị Phó-Giám-Đốc về Hành-Chánh và Kỹ-Thuật. HQCX chia ra 4 ty và 1 Khu: Ty Hành-Chánh Nhân-Viên, Ty Điều-Hành Công-Xưởng, Ty Kế-Hoạch Trù-Liệu, Ty Tiếp-Liệu, và Khu Tu-Bổ Vận-Chuyển.
Một hoạ-đồ kiến-trúc chiến-đĩnh Yabuta với “lưới gà” ferro-cement.
Sơ-đồ Điều-hành HQCX.508
Ngay từ khi thành-lập, HQCX được tiếng là nơi trả lương rất hậu. Công-nhân có quy-chế như công-chức chính-phủ. Tuy vậy vào giữa thập-niên 1960, một biến-cố đột-ngột đă xảy ra, làm cho t́nh-trạng thiếu-thốn nhân-viên trầm-trọng. Khi các công-ty thầu-khoán ngoại-quốc theo người Hoa-Kỳ vào làm ăn ở Việt-Nam, họ trả lương thợ lành-nghề nhiều lần lớn hơn mức trung-b́nh cho xứ ta. Một số nhân-viên giỏi của HQCX đă bỏ đi. Từ những năm 1965-1968, Hải-Quân Công-xưởng mất 640 trong số 1,500 người thợ, bỏ đi làm các hăng trả tiền nhiều hơn.509 Rút-tỉa kinh-nghiệm này, ban Giám-Đốc nghiên-cứu lại chương-tŕnh thâu-nhận, huấn-luyện chuyên-viên cùng thay-đổi khế-ước cho công-nhân. Sau đó vài năm, t́nh-trạng nhân-viên Hải-Quân Công-xưởng mới dần-dần trở lại mức điều-hoà.
Các Vùng Sông-Ng̣i
Hành-Quân Lưu-động Sông Tổng-quát: Hành-Quân Lưu-động Sông trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. Phụ-tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Sông chịu trách-nhiệm điều-hành tất cả hành-quân trong sông. Thành-phần: - Về hành-quân, Hành-Quân Lưu-động Sông gồm có: - Vùng III và Vùng IV Sông-Ng̣i. - Lực-Lượng Thuỷ-Bộ (Lực-Lượng Đặc-nhiệm 211). - Lực-Lượng Tuần-Thám (Lực-Lượng đặc-nhiệm 212). - Lực-Lượng Trung-Ương (Lực-Lượng đặc-nhiệm 214). - Các Giang-Đoàn Xung-phong. Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Sông cuối-cùng: Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng.
Vùng IV Sông-Ng̣i Tổ-chức: Bộ Chỉ-Huy Vùng IV Sông-Ng̣i gồm: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng IV Sông-Ng̣i kiêm Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-nhiệm 21.510 Về hành-quân, Hạm-Đội Đặc-nhiệm 21 chỉ-huy và điều-động các Lực-Lượng Đặc-nhiệm tăng-phái và Lực-Lượng Hải-Quân cơ-hữu thuộc vùng IV Sông-Ng̣i. Bộ Tư-Lệnh đặt tại Cần-Thơ. Thành-phần: Các đơn-vị cơ-hữu của Hải-Quân Vùng IV Sông-Ng̣i gồm các Giang-Đoàn Xung-Phong sau đây: - Giang-Đoàn 21 và 33 tại Mỹ-Tho. - Giang-Đoàn 23 và 31 tại Vĩnh-Long. - Giang-Đoàn 26 tại Long-Xuyên. - Giang-Đoàn 25 và 29 tại Cần-Thơ. Về yểm-trợ tiếp-vận, có các Căn-Cứ Yểm-Trợ và Tiền-Doanh Yểm-Trợ. Tiền-phương Yểm-trợ là đơn-vị yểm-trợ tiếp-vận tại-chỗ cũng được thành-lập theo nhu-cầu hành-quân. Ngoài các đơn-vị cơ-hữu và yểm-trợ đó, Vùng IV Sông-Ng̣i c̣n kiểm-soát ba Lực-Lượng Đặc-nhiệm (Task forces) tăng-phái: LLĐN 211, LLĐN 212, LLĐN 214. Phạm-vi hoạt-động: Địa-bàn hoạt-động của Hải-Quân Vùng IV Sông-Ng̣i gồm tất cả sông-rạch các tỉnh: Định-Tường, Kiến-Tường, Kiến-Phong, An-Giang, Châu-Đốc, G̣-Công, Phong-Dinh v.v... và được chia làm ba vùng, mỗi Lực-Lượng Đặc-nhiệm trách-nhiệm một vùng để yểm-trợ cho một Sư-Đoàn Bộ-Binh. Tư-Lệnh cuối-cùng: Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng.
Huy-Hiệu Vùng 4 Sông-Ng̣i.
Vùng III Sông-Ng̣i Tổ-chức: Vùng III Sông-Ng̣i gồm Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Bộ Tư-Lệnh đặt tại Long-B́nh. Thành-phần: Các đơn-vị cơ-hữu của Vùng III Sông-Ng̣i gồm: - Giang-Đoàn 22 và 28 Xung-phong đóng tại Nhà-Bè. - Giang-Đoàn 24 và 30 Xung-phong đóng tại Long-B́nh và nhiều Tiền-Doanh Yểm-Trợ. - Ngoài ra, Vùng III Sông-Ng̣i có sự tăng-phái của các Lực-Lượng Đặc-nhiệm 211, 212, 214. Phạm-vi hoạt-động: Vùng hoạt-động của Vùng III Sông-Ng̣i gồm sông-rạch các tỉnh: Biên-Hoà, Gia-Định, Long-An, Hậu-Nghĩa, B́nh-Dương, Tây-Ninh. Tư-Lệnh cuối-cùng: Hải-Quân Đại-Tá Trịnh-Quang-Xuân.
Huy-Hiệu Vùng 3 Sông-Ng̣i.
Giang-Đoàn Xung-phong Tổ-chức: Mỗi Giang-Đoàn Xung-phong (River Assault Group) được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc Đại-Úy Hải-Quân. (Về sau, các Sĩ-Quan tốt-nghiệp trường Bộ-Binh Thủ-Đức cũng được huấn-luyện để giữ các chức-vụ này). Trang-bị: Mỗi Giang-Đoàn Xung-phong được trang-bị như sau: - 6 LCVP. Mỗi LCVP được trang-bị 1 Đại-bác 20 ly, 2 Đại-liên 7 ly 62. - 6 FOM. Mỗi FOM được trang-bị 1 Đại-liên 12 ly 7, 3 Đại-liên 7 ly 62. - 4 LCM. Mỗi LCM được trang-bị 2 Đại-bác 20 ly, 2 Đại-liên 12 ly 7. - Một Monitor Combat, trang-bị: 1 Đại-bác 40 ly, 1 Súng cối 81 ly, 2 Đại-liên 7 ly 62, một Đại-liên 12 ly 7. - Một Commandement trang-bị: 1 Đại-bác 20 ly, 2 Đại-liên 12 ly 7, 2 Đại-liên 7 ly 62 (hoặc 20 ly) và một súng cối 81 ly. Ngoài ra, trên mỗi giang-đĩnh đều có các loại súng cá-nhân như M79, M16... Nhiệm-vụ: Chuyển-vận, yểm-trợ và phối-hợp hành-quân với quân bạn. Vùng hoạt-động: Tất cả sông-rạch thuộc Miền-Nam Việt-Nam. Đội-h́nh di-chuyển - 2 LCVP (Tiểu-Vận-Đĩnh) - 2 FOM (Tiểu-Giáp-Đĩnh) - 1 Monitor Combat (Tiền-Phong-Đĩnh) - 2 LCVP - 1 LCM - 2 FOM - 1 LCM - 2 LCVP - 1 LCM - 1 Commandement (Soái-Đĩnh) - 2 FOM. * Đội-h́nh có thể thay-đổi tùy theo nhu-cầu chiến-trường.
Lực-Lượng Thuỷ-bộ Lực-Lượng đầu-tiên Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển-giao cho Hải-Quân Việt-Nam là River Assault Force (Giang-Lực Thuỷ-Bộ). Lễ chuyển-giao được thực-hiện tại Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n vào tháng 8 năm 1969. Hải-Quân Việt-Nam đặt tên là Lực-Lượng Thuỷ-Bộ. Khi hành-quân, danh-số đặc-nhiệm là: Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211 (LLĐN211).
Vũ-khí trên các Chiến-đĩnh Thuỷ-Bộ.
Thành-phần Lực-Lượng Thuỷ-Bộ gồm: - 1 Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng, đóng hậu-cứ tại Đồng-Tâm. - 3 Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Thuỷ-Bộ. - 6 Giang-Đoàn Thuỷ-Bộ. Mỗi Giang-Đoàn gồm có 15 giang-đĩnh gồm: 1 Soái-Đĩnh, 2 Thiết-Giáp-Đĩnh, 8 Quân-Vận-đĩnh và 4 Trợ-Chiến-Đĩnh. Khi Lực-Lượng Thuỷ-Bộ phối-hợp với 1 Lữ-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến, nó trở-thành một Lực-Lượng Thuỷ-Lục. Đây là thành-phần tổng-trừ-bị trực-thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà. Sau khi thành-lập, Lực-Lượng Thuỷ Lục được tăng-phái cho Quân-Đoàn IV, sau đó cho Sư-Đoàn 21 Bộ-Binh. Từ tháng 9 đến cuối năm 1969. Lực-Lượng Thuỷ-Lục hành-quân tảo-thanh trong mật-khu U-Minh và khai-thông kinh Cán-Gáo từ Kiên-An đến Cà-Mau. Vào tháng 5 năm 1970, Lực-Lượng Thuỷ-Bộ được chỉ-định tham-gia cuộc Hành-quân Trần-Hưng-Đạo vượt sang Cambodge cho đến hết năm 1970. Từ khi thành-lập cho đến tháng 4 năm 1975, Lực-Lượng Thuỷ-Bộ hoạt-động hầu-hết trong lănh-thổ Quân-Đoàn IV/ Vùng IV Chiến-Thuật.511 Mỗi Liên-Đoàn có 2 Giang-Đoàn và được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá Hải-Quân; mỗi Giang-Đoàn được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc một Đại-úy. Các Liên-Đoàn điều-hành như sau: - Liên-Đoàn I Thuỷ-bộ (tức Liên-Đoàn Đặc-nhiệm 211.1) gồm hai Giang-Đoàn 70 và 71 Thuỷ-bộ. Hậu-cứ: Long-Phú. Nhiệm-vụ: Liên-Đoàn I phối-hợp hành-quân với các Chi-Khu thuộc Tiểu-khu Sóc-Trăng và hộ-tống các đoàn thuyền chuyên-chở nhu-yếu-phẩm từ Bạc-Liêu, Sóc-Trăng về Sài-G̣n. - Liên-Đoàn II Thuỷ-bộ (tức Liên-Đoàn Đặc-nhiệm 211.2) gồm hai Giang-Đoàn 72 và 73 Thuỷ-bộ. Hậu-cứ: Cà-Mau. Nhiệm-vụ: Liên-Đoàn II Thuỷ-bộ yểm-trợ Trung-Đoàn 32 Bộ-Binh đồng-thời phối-hợp hành-quân và tiếp-tế cho các đơn-vị thuộc vùng Cà-Mau. - Liên-Đoàn III Thuỷ-bộ (tức Liên-Đoàn Đặc-nhiệm 211.3) gồm hai Giang-Đoàn 74 và 75 Thuỷ-bộ. Hậu-cứ: Rạch-Sỏi thuộc tỉnh Kiên-Giang. Vùng hoạt-động: Liên-Đoàn III Thuỷ-bộ tuần-tiễu, kiểm-soát các thuỷ-lộ của hai tỉnh Kiên-Giang và Chương Thiện.
Sơ-Đồ Tổ-chức Lực-Lượng Thuỷ-Bộ.
Giang-đĩnh Lực-Lượng Thuỷ-bộ. (tranh của Đại-Tá TQLC Cổ-Tấn Tinh-Châu). Đội-h́nh di-chuyển: - 2 Giang-Đĩnh rà-ḿn.* - 2 Alpha.** - Monitor Combat. - 5 Tango, chở quân. - Monitor Commandement. - 2 Alpha. Đội-h́nh có thể thay-đổi tùy theo nhu-cầu chiến-trường. * Trước năm 1973, v́ thường chuyển quân qua các băi ḿn của địch, các Giang-Đoàn Thuỷ-bộ được trang-bị thêm các giang-đĩnh rà và trục-ḿn. Trong các cuộc hành-quân với Sư-Đoàn 21 Bộ-Binh tại U-Minh, hai giang-đĩnh rà-ḿn thường đi tiên-phong, rà-ḿn mở đường. ** V́ chiến-trường đ̣i-hỏi hoả-lực, Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Thuỷ-bộ đă biến-cải mỗi Alpha trang-bị thêm một súng 81 ly trực-xạ. Lực-Lượng Thuỷ-bộ c̣n có một Căn-Cứ Yểm-Trợ đặt tại B́nh-Thuỷ, Cần-Thơ để cung-cấp nhiên-liệu cũng như sửa-chữa và tu-bổ chiến-đĩnh. Tư-Lệnh cuối-cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Bá-Trang.
Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Bá-Trang trong buổi lễ nhận quyền Tư-Lệnh Lực-Lượng Thuỷ-Bộ. Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh, Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân (trái) đang lấy lệnh-kỳ từ Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh để trao cho Ông.
Lực-Lượng Tuần-Thám - Một Tiêu-chuẩn về Tổ-Chức Phần tổ-chức Lực-Lượng Tuần-Thám512 được tŕnh-bày chi-tiết dài-ḍng hơn các tổ-chức khác. Những trang sau đây bàn đến các vấn-đề thường-xuyên mà các lực-lượng khác cũng gặp phải, đẳc-biệt về hai trách-vụ chính: - hành-chánh - đặc-nhiệm.
Giang-Tốc-Đĩnh là chiến-đĩnh căn-bản của Lực-Lượng Tuần-Thám. I. Thành-Lập. Vào tháng 4, năm 1966, thi-hành Chương-tŕnh Viện-Trợ Quân-Sự (MAP), Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hoa-Kỳ tại Việt-Nam (COMNAFORV) trang-bị và huấn-luyện 2 Giang-Đoàn tuần-thám đầu-tiên513 cho Hải-Quân Việt-Nam. Đó là các Giang-Đoàn 51 Tuần-Thám (CHT: HQ Đại-Úy Trần-Văn-Lâm) và Giang-Đoàn 52 Tuần-Thám (CHT: HQ Đại-Úy Nguyễn-Thế-Sinh). Trong khi trú-đóng tại Cát-Lái, hai giang-đoàn này hoạt-động chung với các giang-đoàn tuần-thám Hoa-Kỳ thuộc TF-116 trên Sông Đồng-Nai và các sông-rạch thuộc Đặc-Khu Rừng-Sát. Tháng 7 năm 1969, Lực-Lượng Tuần-Thám được chính-thức thành-lập theo kế-hoạch ACTOV. Việt-Nam tiếp-nhận các doanh-trại, giang-đĩnh và chiến-cụ do Lực-Lượng Tuần-Giang Hoa-Kỳ và Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 116 chuyển-giao. Diễn-tŕnh chuyển-giao, tiếp-nhận, và huấn-luyện thực-tập (on the the job training - OJT) hoàn-tất vào cuối năm 1969. II. Tổ-chức Lực-Lượng. Lực-Lượng Tuần-Thám (LLTT) là một đại đơn-vị, thống-thuộc BTL/HQ, bao-gồm - Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Tuần-Thám (BTL/LLTT), - 6 Liên-Đoàn Tuần-Thám (LĐTT), - 15 Giang-Đoàn Tuần-Thám (GĐTT), và - 5 căn-cứ: CCHQ/Mỹ-Tho (Định-Tường), CHQ/ Cái-Dầu (Châu-Đốc), CCHQ/Tân-Châu (Châu-Đốc), CCHQ/Tuyên-Nhơn (Kiến-Tường), và CCHQ/ B́nh-Thuỷ (Phong-Dinh)514. 2.1 Tổ-chức Tham-mưu Tổ-chức tham-mưu của BTL/LLTT rập khuôn theo tổ-chức tham-mưu của BTL/HQ nhưng trong một phạm-vi hạn-hẹp hơn. Tổ-chức này gồm có: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó, Tham-Mưu-Trưởng, Tham-Mưu-Phó Hành-quân, Tham-Mưu-Phó Tiếp-vận. Dưới TMP/HQ có Trung-Tâm Hành-Quân, Pḥng 2, Pḥng 3 và GĐ 65 TT (trừ-bị). Thuộc quyền TMP/TV có Pḥng 1, Pḥng 4, Pḥng Quân-Y, Pḥng Chiến-Tranh Chính-Trị. Ngoài ra, BTL/LLTT c̣n có Pḥng An-Ninh, là một đơn-vị do Khối An-Ninh Hải-Quân tăng-phái, được đặt dưới quyền điều-động trực-tiếp của TMT/LLTT. Khi mới thành-lập BTL/LLTT đồn-trú tại CCYTTV/B́nh-Thuỷ. Tháng 10, 1971, BTL/LLTT di-chuyển sang CCHQ/B́nh-Thuỷ sau khi tiếp-nhận căn-cứ này từ BTL/V4SN. Đến tháng 11, 1972, BTL/LLTT chuyển-giao CCHQ/B́nh-Thuỷ cho BTL/LLTB và di-chuyển về đồn-trú tại CCHQ/Mỹ-Tho. Tư-Lệnh LLTT đầu-tiên, cũng là sau chót, là HQ Đại-Tá Nghiêm-Văn-Phú. Ông thăng-cấp Phó-Đề-Đốc năm 1974. 2.2 Các đơn-vị tác-chiến cơ-hữu - Liên-Đoàn 1 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCYTTV/ Nhà-Bè, gồm các Giang-Đoàn 51 TT, hậu-cứ: CCHQ/Cát-Lái, Giang-Đoàn 52 TT, CCHQ/ Long-B́nh. và Giang-Đoàn 57 TT, hậu-cứ: CCYTTV/Nhà-Bè. CHT đầu-tiên là HQ Thiếu-Tá Nguyễn-Thế-Sinh. - Liên-Đoàn 2 Tuần-Thám, hậu-cứ: TZYT/ Bến-Lức, gồm các Giang-Đoàn 53 TT, hậu-cứ: TZYT/ Bến-Lức, và GĐ 54 TT, hậu-cứ: TPYT/ Bến-Kéo, Tây-Ninh. CHT đầu-tiên là HQ Trung-Tá Phạm-Văn-Tiêu. - Liên-Đoàn 3 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCHQ/Tân-Châu, gồm các Giang-Đoàn 59 TT, hậu-cứ: CCHQ/Tân-Châu, và Giang-Đoàn 63 TT, hậu-cứ:Tiền-Phương Yểm-trợ/Phước Xuyên. CHT đầu-tiên là HQ Trung-Tá Lưu-Trọng Đa. - Liên-Đoàn 4 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCHQ/Cái-Dầu, Châu-Đốc, gồm Giang-Đoàn 55 TT, hậu-cứ: CCHQ/Cái-Dầu, và 1 KSB. CHT đầu-tiên là HQ Trung-Tá Đinh-Vĩnh-Giang. - Liên-Đoàn 5 Tuần-Thám, hậu-cứ: Tiền-Doanh Yểm-Trợ/ Vĩnh-Long (sau di-chuyển về Tiền-Doanh Yểm-Trợ (TZYT) Rạch-Sỏi, gồm các Giang-Đoàn 56 TT (Tiền-Doanh Yểm-Trợ/ Vĩnh-Long) và GĐ 58 TT, hậu-cứ: Tiền-Phương Yểm-Trợ/ Sa-Đéc. CHT đầu-tiên là HQ Trung-Tá Vơ-Trọng-Lưu. - Liên-Đoàn 6 Tuần-Thám, hậu-cứ: CCHQ/ Mỹ-Tho, gồm các Giang-Đoàn 60 TT (Tăng-phái cho BTL/V1ZH) và GĐ 62 TT (hậu-cứ: Năm-Căn, tăng-phái chi BTL/V5 ZH). CHT đầu-tiên là HQ Trung-Tá Phạm-Thành-Nhơn. III. Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 212 (LLĐN-212) 3.1 Tổ-chức Đặc-Nhiệm. Trên cương-vị hành-quân, Lực-Lượng Tuần-Thám (LLTT) được gọi là Lực-lượng Đặc-Nhiệm 212 (LLĐN-212). LLĐN-212 gồm các đơn-vị tác-chiến cơ-hữu của LLTT, các đơn-vị tăng-phái thuộc các Vùng Sông-Ng̣i, Lực-Lượng Trung-Ương (LLTU), Lực-Lượng Thuỷ-Bộ (LLTB), các Tiền-Doanh và Tiền-Phương Yểm-Trợ Tiếp-Vận hiện-hữu trong vùng trách-nhiệm, các Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích thuộc Liên-Đoàn Người-Nhái. Trong tổ-chức đặc-nhiệm của Hải-Quân, LLĐN-212 thống-thuộc BTL/HQ/ Hành-Quân Sông và được tổ-chức thành 6 Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm (LĐĐN). - LĐĐN-212.1 do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ1/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm có: GĐ 51TT, GĐ 52 TT, GĐ 57 TT, GĐ Trục Lôi, và 1 GĐ/XP, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Đồng-Nai và các sông-rạch thuộc Đặc-Khu Rừng-Sát. - LĐĐN-212.2 (BCH tại hậu-cứ Bến-Lức) do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ2/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm có: GĐ 53TT, GĐ 54 TT, 1 Giang-Đoàn Ngăn-Chặn do LLTU tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. - LĐĐN-212.3 (BCH tại CCHQ/Tân-Châu, Châu-Đốc) do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ3/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm có: GĐ 59TT, 1 Giang-Đoàn Ngăn-Chặn do LLTU tăng-phái, 1 Phân-đội của Hải-Đội 5 Duyên-Pḥng, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Trách-nhiệm hành-quân hộ-tống công-voa trên thuỷ-tŕnh Tân-Châu - Nam-Vang (HQ THĐ-18). - LĐĐN-212.4 (BCH tại CCHQ/Cái-Dầu, Châu-Đốc) do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ2/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồ có: GĐ 55TT, GĐ 61 TT, và 1 GĐ/XP do V4SN tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Kinh Vĩnh-Tế, Kinh Cái-Sắn (Vàm-Cống), Sông Bassac (HQ THĐ-1). - LĐĐN-212.5 (BCH tại hậu-cứ Tiền-Doanh Yểm-Trợ Rạch-Sỏi, Kiên-Giang) do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ5/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm 1 phân-đoàn của GĐ 58 TT, 1 phân-đoàn của GĐ 61 TT, và 1 Giang-Đoàn Thuỷ-Bộ do LLTB tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Cái-Lớn và Kinh Cái-Sắn (phần phía Nam). - LĐĐN-212.6 (BCH tại hậu-cứ Tiền-Doanh Yểm-Trợ Cà-Mau, An-Xuyên) do Chỉ-Huy-Trưởng LĐ6/ TT chỉ-huy. Các đơn-vị trực-thuộc hành-quân gồm Giang-Đoàn 62TT, và 1 Giang-Đoàn Thuỷ-Bộ do LLTB tăng-phái, 1 Toán Tác-Chiến Điện-Tử và Hải-Kích (tăng-phái). Vùng hành-quân: Sông Bồ-Đề, Sông Cửa-Lớn và các kinh-rạch bao-quanh tỉnh-lỵ Cà-Mau. - BTL/LLĐN-212 Tiền-Phương do TL, TLP hoặc TMT Lực-Lượng trực-tiếp chỉ-huy, đặc-trách những cuộc hành-quân phối-hợp thuỷ-bộ và hộ-tống các đoàn công-voa trên thuỷ-tŕnh Tân-Châu/NamVang.
Các Giang-Tốc-Đĩnh PBR đang diễn-hành trên sông Sài-G̣n trong ngày Lễ Thánh-Tổ Hải-Quân năm 1973. 3.2 Quan-niệm hành-quân - Tuần-tiễu và bảo-vệ an-ninh các thuỷ-tŕnh thuộc V3SN, V4SN, Biệt-Khu 44 và Đặc-Khu Rừng-Sát. - Truy-lùng, phục-kích, tấn-công các đơn-vị địch trên các sông và kinh-rạch trong vùng trách-nhiệm. - Phối-hợp hành-quân với các đơn-vị bộ-binh và địa-phương-quân khi được chỉ-định. - Hộ-tống các đoàn công-voa thương-thuyền trên thuỷ-tŕnh Tân-Châu – Nam-Vang. 3.3 Trang-bị. Mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám được trang-bị 20 Giang-Tốc-Đĩnh PBR, trong đó 5 Giang-Đoàn sử-dụng Giang-Tốc-Đĩnh PBR loại MK1 (GĐ 51, 53, 56 và 57 TT), và 10 Giang-Đoàn sử-dụng Giang-Tốc-Đĩnh PBR loại MK2. Cả hai loại PBR MK1 và MK2 đều không có chân-vịt và bánh-lái, nhưng được vận-chuyển bằng tác-dụng của hai bơm phản-lực.
3.3.1. Giang-Tốc-Đĩnh PBR MK1 Đặc-tính kỹ-thuật: Vỏ: Được kiến-tạo bằng chất Fiberglass loại nhẹ. Chiều-dài: 31 ft. Bề ngang: 10.9 ft. Trọng-lượng: 19,000 lbs. Vận-tốc: 28 knots. Máy: 2 máy Diesel hiệu Detroit hoặc GM kiểu 6V-53 với tổng-số công-xuất là 500 mă-lực.. Bơm: 2 bơm phản-lực hiệu Jacuzzi Corporation với lưu-lượng thoát nước 6,000 gal/phút qua ống thoát, đường kính 6 inches. Trang-bị vũ-khí: Sân mũi: một pháo-tháp đại-liên 50 kép, khai-hoả bằng điện. Sân sau: Một đại-liên 50 đơn. Hai bên thành tàu: mỗi bên gắn một dàn trung-liên M-60 4 hoặc 6 ṇng như loại được gắn trên trực-thăng Cobra. Vũ-khí cá-nhân gồm có 4 súng M-16, 1 súng phóng-lựu M-18. Ngoài ra, một số (6 hoặc 7) Giang-Tốc-Đĩnh của mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám c̣n được trang-bị đặc-biệt hơn, với 1 súng cối 60 ly có khả-năng bắn trực-xạ gắn cùng giá với đại-liên 50 ở sân sau, 1 súng phun lửa, 1 súng 90 ly không giật, một pháo-tháp đại-bác 20 ly ở sân mũi thay cho pháo-tháp súng đại-liên ṇng kép Trang-bị điện-tử: 1 Radar hiệu Raytheon 1900, 2 máy truyền-tin URC-46. Trang-bị nhân-viên: Thuyền-Trưởng: 1 HSQ ngành Vận-chuyển hoặc Giám-lộ. Cơ-khí: 1 HSQ ngành Cơ-khí hoặc Điện-khí. Vũ-khí: 1 HSQ ngành Trọng-pháo. Đoàn-viên: 2 Đoàn-viên từ cấp HS1 trở xuống. Khi Giang-Tốc-Đĩnh tham-dự hành-quân, mỗi cặp Giang-Tốc-Đĩnh có một Thượng-Sĩ hay Chuẩn-Úy hay Thiếu-Úy chỉ-huy. Giang-Tốc-Đĩnh PBR loại MK1. Đặc-tính kỹ-thuật: Vỏ: Được kiến-tạo bằng chất Fiberglass loại nhẹ. Chiều-dài: 31 ft 11 inches. Bề ngang: 11 ft 7 inches. Trọng-lượng: 15550 lbs. Vận-tốc: 28 Knots. Máy: 2 máy Diesel hiệu Detroit hoặc GM kiểu 6V-53N với tổng-số công-xuất là 500 mă-lực. Bơm: 2 bơm phản-lực hiệu Jacuzzi loại 14YJ, với lưu-lượng thoát 9600 gal/phút qua ống thoát đường kính 8 inches. Trang-bị vũ-khí: Sân mũi: một pháo-tháp đại-liên 50 kép, khai-hoả bằng điện. Sân sau: Một đại-liên 50 đơn. Hai bên thành tàu: mỗi bên gắn một dàn trung-liên M-60 4 hoặc 6 ṇng như loại được gắn trên trực-hăng Cobra. Vũ-khí cá-nhân gồm có 4 súng M-16, 1 súng phóng-lựu M-18. Ngoài ra, một số (6 hoặc 7) Giang-Tốc-Đĩnh của mỗi Giang-Đoàn Tuần-Thám c̣n được trang-bị đặc-biệt hơn, với 1 súng cối 60 ly có khả-năng bắn trực-xạ gắn cùng giá với đại-liên 50 ở sân sau, 1 súng phun lửa, 1 súng 90 ly không giật, 2 súng M-79 bắn liên-thanh từng tràng, 1 pháo-tháp đại-bác 20 ly kép ở sân mũi, thay-thế cho pháo-tháp súng đại-liên 50 ṇng kép. Trang-bị điện-tử: 1 máy 900 W, 2 máy truyền-tin PRC-25 Trang-bị nhân-viên: Như trang-bị cho PBR MK-1.
Giang-Tốc-Đĩnh PBR loại MK2.
Sơ-đồ kỹ-thuật kiến-trúc một Giang-Tốc-Đĩnh.
3.4.3. Ưu-điểm của các Giang-Tốc-Đĩnh PBR Với hoả-lực mạnh và đa-dạng, Giang-Tốc-Đĩnh PBR có thể áp-đảo mau-chóng các ổ phục-kích của địch, và yểm-trợ hữu-hiệu cho các đồn-bót và các đơn-vị bộ-binh trong các cuộc hành-quân phối-hợp thuỷ-bộ. Vận-tốc cao và dễ vận-chuyển.
LỰC-LƯỢNG TRUNG-ƯƠNG Tổ-chức: Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Trung-Ương đặt tại Đồng-Tâm (Mỹ-Tho, thuộc tỉnh Định-Tường) và được điều-động bởi: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Khi hành-quân, danh-số đặc-nhiệm là: Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 214 (LLĐN214). Về hành-chánh, Lực-Lượng Trung-Ương gồm có: - Liên-Đoàn Người-Nhái. - 2 Giang-Đoàn Trục-lôi - 6 Giang-Đoàn Ngăn-chặn và các Căn-cứ Hải-Quân tại Tuyên-Nhơn, Kinh Chợ-Gạo, Cao-Lănh. Giang-Đoàn Ngăn-chặn được trang-bị cùng loại chiến-đĩnh với Giang-Đoàn Thuỷ-bộ và có thêm máy phun lửa. Về hành-quân, Lực-Lượng Trung-Ương được tăng-phái 2 Giang-Đoàn Tuần-Thám, 2 Giang-Đoàn Xung-phong. Lực-Lượng Trung-ương có 300 Sĩ-quan và khoảng ba ngàn Đoàn-Viên. Lực-Lượng được chia làm 3 Liên-Đoàn. Mỗi Liên-Đoàn gồm 2 Giang-Đoàn và đặt dưới sự chỉ-huy của một Thiếu-Tá hoặc Trung-Tá Hải-Quân. Mỗi Giang-Đoàn Ngăn-chặn được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc Đại-úy. Hậu-cứ của các Liên-Đoàn: - Liên-Đoàn 214.1 đóng tại Tuyên-Nhơn. - Liên-Đoàn 214.2 đóng tại Kinh Chợ-Gạo. - Liên-Đoàn 214.3 đóng tại Cao-Lănh. Vùng hoạt-động: Miền Tiền-Giang, từ bên này sông Cửu-Long cho đến sông Vàm-Cỏ, gồm các tỉnh Định-Tường, Vĩnh-Long, Kiến-Tường v.v... Tư-Lệnh cuối-cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Văn-Thông.
Liên-Đoàn Người-Nhái Thành-lập: Liên-đội Người-Nhái được thành-lập năm 1961, gồm toàn quân-nhân t́nh-nguyện.515 Những thành-viên đầu-tiên tốt-nghiệp khoá UDT (Underwater Demolition Teams) tại Đài-Loan. Họ là những huấn-luyện-viên đào-tạo những lớp Người-Nhái Hải-Quân Việt-Nam.
Toán Người-Nhái HQVN tập-trung, chuẩn-bị diễn-hành.
H́nh-ảnh oai-hùng của Người-Nhái HQVN khi diễn-hành qua khán-đài.
Tổ-chức: Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Người-Nhái trước đặt tại Ty Quân-cảng, trong Hải-Quân Công-xưởng, sau dời về Căn-cứ Hải-Quân Cát-Lái. - Tháng 10-1962, khoá Biệt-hải đầu-tiên tại Việt-Nam được huấn-luyện tại Đà-Nẵng, bởi Người-Nhái Mỹ (SEAL West coast) và một số Biệt-hải Việt-Nam tốt-nghiệp tại Đài-Loan. Khoá này có một Sĩ-Quan duy-nhất là Hải-Quân Trung-Úy Trịnh-Hoà-Hiệp, xuất thân khoá 7 Hải-Quân Nha-Trang và một số Hạ-Sĩ-Quan Hải-Quân, c̣n hầu-hết là nhân-viên Hải-Thuyền, gốc miền Trung. - Khoá II Biệt-hải cũng được tổ-chức tương-tự như khoá 1. Hải-Quân Thiếu-Úy Phan-Tấn-Hưng, xuất-thân khoá 9 Hải-Quân Nha-Trang, là Sĩ-Quan Hải-Quân thứ hai theo thụ-huấn. - Các khoá kế-tiếp được huấn-luyện tại các địa-điểm khác nhau: Nha-Trang, Cam-Ranh, Vũng-Tàu… -.Ngoài ra cũng có một số khoá Người-Nhái được huấn-luyện ở nước ngoài như tại Hoa-Kỳ, Phi-Luật-Tân gồm có : Hải-Kích, Tháo-gỡ Chất Nổ, Trục-vớt, Pḥng-thủ Hải-cảng v.v... - Tất cả các cấp chỉ-huy của LĐNN đều được gửi tu-nghiệp tại Hoa-Kỳ. Trước năm 1968, Liên-đội Người-Nhái chỉ phụ-trách các công-tác thám-sát hành-quân, đổ-bộ, lặn, vớt tàu. Từ năm 1968 trở về sau, khả-năng Người-Nhái Hải-Quân Việt-Nam được tận-dụng đúng mức khi Liên-Đoàn Người-Nhái bắt đầu biệt-phái nhân-viên hoạt-động cùng các toán Người-Nhái “SEAL team” của Đồng-minh. Họ có mặt khắp bốn vùng chiến-thuật và tham-dự cả chiến-dịch Phụng-Hoàng. Năm 1971, một số Sĩ-Quan trẻ, xuất-thân từ trường Bộ-Binh Thủ-Đức t́nh-nguyện gia-nhập và được huấn-luyện theo các khoá Hải-Kích Người-Nhái Việt-Nam. Từ 1968 đến 1972, quân-số Người-Nhái từ 80 tăng lên 600 người. Nhiệm-vụ: Nhiệm-vụ Người-Nhái rất chuyên-biệt như: xâm-nhập vùng đất địch, chống đặc-công thuỷ Việt-Cộng, vớt-tàu, cứu tù-binh, v.v... Phạm-vi hoạt-động: Người-Nhái có thể hoạt-động trong sông lẫn ngoài biển.
Tiểu-đĩnh Hải-Kích hạng nhẹ LSSC (Light Seal Support Craft) của Người-Nhái.
Trang-bị thông-thường của Người-Nhái.
Thành-phần Liên-Đoàn Người-Nhái gồm 5 đơn-vị trực-thuộc 1. Hải-Kích (SEAL Team, SEAL là chữ viết tắt của Sea, Air, Land) 2. Phá-hoại dưới nước (UDT, là chữ viết tắt Underwater Demolition Team) 3. Tháo-gỡ chất nổ (EOD, là chữ viết tắt Explosive Ordnance Disposal) 4. Trục-vớt (Salvage) 5. Pḥng-thủ Hải-cảng (Harbor Defence) Ngoài ra c̣n những đơn-vị trực-thuộc như Seal Boats, Giang-Đoàn Trục-vớt, đơn-vị sửa-chữa và bảo-tŕ và một số quân-nhân biệt-phái cho Liên-Đoàn đảm-nhiệm việc chuyên-môn khác. Mỗi đơn-vị đều có riêng Chỉ-Huy-Trưởng, Chỉ-Huy-Phó và Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn.
H́nh-ảnh Người-Nhái SEAL (Sea, Air and Land) với Xuồng Cao-Xu.
· Hải-Kích (Navy Seal) là đơn-vị được nhắc tới nhiều nhất, được huấn-luyện kỹ nhất (có thể xuất-phát từ ngoài biển, hay trực-thăng-vận nhảy-dù hoặc không dù, cũng có thể xuất-phát bằng đường bộ.). Và cũng là đơn-vị bị thiệt-hại quân-số nhiều nhất. Hải-Kích là một đơn-vị chuyên về thế-công, hoạt-động trong ḷng địch, trong Nam lẫn ngoài Bắc vĩ-tuyến 17. Hải-Kích có thể đột-kích, phục-kích, phá-hoại, ám-sát, bắt tù-binh, giải-thoát tù-binh, cứu phi-hành-đoàn bị rơi trong vùng kiểm-soát của địch, thu-thập tin-tức t́nh-báo tác-chiến cho pháo-binh, phi-cơ oanh-kích, hoặc những đơn-vị bạn lớn hơn hành-quân tiêu-diệt địch, hoặc t́m cách đối-phó. Hải-kích là hậu-thân của Phá-Hoại Dưới Nước, v́ phải hoàn-tất khoá huấn-luyện dưới nước rồi học thêm khoá Nhảy-Dù và Chiến-tranh Ngoại-lệ. · Phá-Hoại Dưới Nước (UDT: Underwater Demolition Team). Đơn-vị cũng chuyên về thế-công, Chuyên-môn đo nước qua các phương-pháp Tác-chiến và B́nh-hành, phá-huỷ chiến-hạm địch, thuỷ-lôi, ḿn-bẫy, chướng-ngại-vật dưới nước, dọn thuỷ-tŕnh an-toàn cho tàu đổ-bộ, lập đầu-cầu đổ-bộ an-toàn cho lực-lượng đổ-bộ...Đơn-vị nầy cũng có thể dùng trong thế-thủ để chống Người-Nhái địch. · Tháo-gỡ Chất Nổ (EOD : Explosive Ordnance Disposal) là đơn-vị pḥng-thủ, chuyên tháo-gỡ chất-nổ và đạn-dược dưới nước. Phải làm việc cẩn-thận chính-xác v́ lầm-lẫn một lần là tan xác. Công-tác sẽ khó-khăn gấp bội khi mục-tiêu không được phá-huỷ (Cầu-cống, tàu-bè, kho nhiên-liệu, kho đạn… bị địch đặt chất nổ). Ngoài ra c̣n phải chống Người-Nhái địch. Đơn-vị có thể sử-dụng trong thế-công như phá-hoại dưới nước. · Trục-vớt(Salvage), Đơn-vị chuyên về pḥng-thủ, vớt tàu-bè đắm ch́m v́ tai-nạn hay do địch gây ra, sửa-chữa tiếp-tục sử-dụng, hoặc để khai-thông thuỷ-lộ hay cả hai mục-tiêu. · Pḥng-thủ Hải-cảng(Harbor Defence), Nặng về pḥng-thủ, bảo-vệ tàu-bè, cầu-cống, chống lại đặc-công của địch. Các Sĩ-Quan sau đây lần-lượt nắm giữ chức vụ Chỉ-Huy-Trưởng LĐNN theo thứ-tự thời-gian: - NN Lâm-Nhật-Ninh - NN Phan-Tấn-Hưng - NN Nguyễn-Văn-Tư - NN Trịnh-Hoà-Hiệp - NN Nguyễn-Duy-Quấc - NN Trịnh-Hoà-Hiệp.516
Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 Thành-lập: Đây là lực-lượng sau cùng do vị Tư-Lệnh cuối-cùng của Hải-Quân thành-lập và trực-tiếp điều-động. Ngay sau khi trở lại nhậm-chức Tư-Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang ra lệnh thành-lập Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 trong ṿng 24 tiếng đồng-hồ. Sau khi được thành-lập, Lực-Lượng 99 được đưa về Căn-cứ Hải-Quân Nhà-Bè. Tổ-chức: V́ tính-cách cấp-thời, Bộ Tham-Mưu Lực-Lượng chỉ gồm có: Chỉ-Huy-Trưởng, một Trung-úy, một Tài-xế và một Thượng-Sĩ Vô-tuyến! Trang-bị: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 gồm trên 50 chiến-đĩnh, là sự kết-hợp của các Giang-Đoàn: 42 Ngăn-chặn, 59 Tuần-Thám, một phần của Giang-Đoàn 22 Xung-phong, một toán trục-vớt, một toán Tiền-Phong-Đĩnh, một Trung-đội Hải-kích và 3 súng phun lửa. Phạm-vị hoạt-động: Lực-Lượng Đặc-nhiệm 99 được coi là Lực-Lượng Tổng-trừ-bị của Hải-Quân, với mục-đích giải-toả áp-lực nặng của địch ở bất-cứ nơi nào, thuộc phạm-vị hoạt-động của Hải-Quân. Chỉ-Huy-Trưởng đầu-tiên và cũng là cuối-cùng: Hải-Quân Đại-Tá Lê-Hữu-Dơng. Hải-Quân Đại-Tá Lê-Hữu-Dơng.
Liên-Đoàn Tuần-Giang Thành-lập: Để đáp-ứng nhu-cầu chiến-trường, Lực-Lượng Giang-pḥng được thành-lập và trực-thuộc Bộ Tư-lệnh Địa-Phương-Quân. Về sau, danh-xưng Lực-Lượng Giang-pḥng được đổi là Liên-Đoàn Tuần-giang, trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân.517 Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-Giang được đặt tại Sài-G̣n. Tổ-chức: Liên-Đoàn Tuần-Giang gồm các thành-phần: - Trung-tâm Huấn-Luyện Tuần-giang - 3 Đại-đội sửa-chữa đặt tại Sài-G̣n, Cần-Thơ và Mỹ-Tho. - 24 Đại-đội, kể từ Đại-đội 11 Tuần-Giang đến Đại-đội 35 Tuần-Giang, biệt-phái cho các Tiểu-khu thuộc Vùng 3 và Vùng 4 Chiến-Thuật. Mỗi Đại-đội Tuần-Giang được chỉ-huy bởi một Thiếu-Tá hoặc Đại-úy. Khoá Tuần-Giang đầu-tiên do Hải-Quân huấn-luyện. Sau đó, Trung-Tâm Huấn-luyện Tuần-Giang được thành-lập tại Cát-Lái, bắt đầu huấn-luyện các khoá Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Binh-Sĩ Tuần-Giang.
Quản-trị: a). Hành-chánh: Bộ Chỉ-Huy Liên-Đoàn Tuần-giang trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân về quản-trị nhân-viên, thuyên-chuyển, bổ-nhậm, tiếp-liệu, sửa-chữa, v.v... b). Hành-Quân: Đại-đội Tuần-Giang đặt dưới sự điều-động và sử-dụng của Tiểu-Khu. Trang-bị: Mỗi Đại-đội Tuần-Giang được trang-bị 8 Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP. Mỗi giang-đĩnh được trang-bị Đại-liên 50, Đại-liên 30 và M72. Riêng Đại-đội 19 và 27 Tuần-giang được tăng-cường thêm 1 Quân-Vận-Đĩnh LCM-6. Nhiệm-vụ: Mỗi Tiểu-khu được tăng-phái một hay hai Đại-đội Tuần-Giang để thực-hiện các nhiệm-vụ sau đây: - Chuyên-chở Bộ-Binh và phối-hợp các đơn-vị bạn tham-dự các cuộc hành-quân do Tiểu-Khu tổ-chức. - Kiểm-soát ghe-thuyền để khám-phá và ngăn-chặn sự xâm-nhập của địch. - Tuần-tiễu và giữ an-ninh các cầu-cống trên các thuỷ-tŕnh do Tiểu-Khu chỉ-định. - Bảo-vệ an-ninh các xă-ấp, yểm-trợ hoả-lực và tiếp-viện đồn-bót ven sông. - Hộ-tống xà-lan đạn, dầu, thực-phẩm, v.v... Chỉ-Huy-Trưởng cuối-cùng: Đại-Tá Cơ-Khí Nguyễn-Văn-Kinh.
Hành-Quân Lưu-động Biển Tổng-Quát. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Biển, gọi tắt là Bộ Tư-Lệnh Hành-Quân Biển (BTL/HhQ Biển), được thành-lập vào giữa năm 1972 tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. BTL/HhQ Biển do vị Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân / Hành-Quân Biển trách-nhiệm điều-hành. Trong thời-gian đầu, chức-vụ này do HQ Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Chí đảm-nhiệm. Ông thăng-cấp Phó-Đề-Đốc sau đó. Sau khi Phó-Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí rời BTL/HhQ Biển vào tháng 11 năm 1973 để giữ chức-vụ Tư-Lệnh Vùng 3 Sông-Ng̣i, HQ Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê được chỉ-định làm Tham-Mưu-Trưởng BTL/HhQ Biển (từ tháng 11 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975). Tổ-chức: Hành-Quân Lưu-động Biển trực-thuộc Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Lưu-động Biển chịu trách-nhiệm tất cả những cuộc hành-quân trên biển. Nhiệm-vụ: - Tổ-chức hành-quân trên biển, ven duyên-hải và các hải-đảo - Chỉ-huy và điều-động các Lực-Lượng Đặc-nhiệm để bảo-vệ lănh-hải và các hải-đảo. - Yểm-trợ hành-quân cho 4 Vùng Chiến-thuật. - Ngăn-chặn Việt-Cộng xâm-nhập bằng đường biển. - Bảo-vệ thương-thuyền và các giếng dầu-hoả ở ngoài khơi Việt-Nam - Cứu-cấp hàng-hải (viết tắt là Cư-Hà) Thành-phần Lực-lượng - Hành-Quân Biển gồm có 5 Lực-Lượng Đặc-nhiệm (LLĐN) hoạt-động tại 5 Vùng Duyên-Hải. Các Tư-lệnh Vùng Duyên-Hải kiêm-nhiệm chức-vụ Tư-lệnh Lực-Lượng Đặc-Nhiệm, gồm có: - LLĐN 11 ở V1DH (Đà-Nẵng) - LLĐN 21 ở V2DH (Nha-Trang) - LLĐN 31 ở V3DH (Cam-Ranh) - LLĐN 41 ở V4DH (Phu-Quốc) - LLĐN 51 ở V5DH (Cà-Mau)
Lực-Lượng Duyên-pḥng Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng đồn-trú tại Cam-Ranh. Lực-Lượng Duyên-pḥng gồm có 5 Hải-đội Duyên-Pḥng. - HĐ1/ZP Đồn-trú tại Đà-Nẵng: 7WPB và 20 PCF. - HĐ2/ZP Đồn-trú tại Quy-Nhơn:8 WPB và 20 PCF. Hải-Đội này chia thành 2 Phân-Đội: * PĐ21/ZP Hậu-cứ Quy-Nhơn. * PĐ22/ZP Hậu-cứ Cam-Ranh. - HĐ3/ ZP Đồn-trú tại Cát-Lở: 6 WPB và 20 PCF. - HĐ4/ ZP Đồn-trú tại An-Thới: 4 WPB và 20 PCF. - HĐ5/ ZP Đồn-trú tại Năm-Căn: 36 PCF. Trang-bị: Các Hải-đội Duyên-pḥng được trang-bị các chiến-đĩnh có vận-tốc cao hơn ghe hải-thuyền rất nhiều: - Duyên-Tốc-Đĩnh (PCF - Fast Patrol Craft) 28 gút và - Tuần-Duyên-Đĩnh (Coast Guards) 18 gút. Vũ-khí chính trang-bị là Súng Cối 81 ly, bên trên là Đại-liên 12 ly 7. Lực-Lượng Duyên-pḥng (danh-từ Hành-Chánh) thường c̣n được gọi một cách quen-thuộc và nhầm-lẫn là LLĐN 213 (danh-từ Đặc-nhiệm) hay Hành-Quân Biển (bao-trùm tất cả 5 Vùng Duyên-Hải). Hành-quân. Các Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm tuần-tiễu tại 5 Vùng Duyên-Hải trực-thuộc Lực-Lượng Đặc-nhiệm 213. Sau này vào năm 1972, Bộ Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng được giải-tán, các Hải-đội Duyên-pḥng sáp-nhập vào các Vùng Duyên-Hải. Trách-nhiệm tuần-tiễu do TL/HQ Vùng Duyên-Hải trách-nhiệm trong vùng chỉ-định, báo-cáo thẳng về bộ Tư-Lệnh Hải-Quân qua Trung-tâm Hành-Quân tại Sài-G̣n. Cựu Tư-Lệnh Lực-Lượng Duyên-pḥng được chỉ-định Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Hành-Quân Lưu-động Biển. Giới-chức đó là Phó-Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí. Sơ-đồ Tổ-Chức Ban Tham-Mưu Lưc-Lượng Duyên-Pḥng Để phối-hợp điều-hành cả hai hệ-thống Hành-Chánh của Lực-Lượng và hệ-thống Hành-Quân của LLĐN 213, Ban Tham-Mưu gồm có: - Tư-Lệnh Lực-Lượng (Văn-pḥng Tư-Lệnh và Sĩ-Quan Tuỳ-Viên). - Khối Hành-Quân và Khối Yểm-Trợ. - Pḥng Hành-Quân:điểu-hành 5 TTKSDH tại các LĐĐN của LL 213. - Pḥng T́nh-Báo: Thu nhận Tin-Tức T́nh-Báo.-Pḥng Truyền-Tin (Viễn-ấn): điều-hành Trung-Tâm Vô-Tuyến Cam-Ranh. - Pḥng An-Ninh: (An-Ninh Nội-Bộ Lực-Lượng). - Pḥng Nhân-Viên: Quản-Trị Nhân-Viên trong Lực-Lượng. - Pḥng Hành-Chánh: Quyền-lợi, lương-bổng của nhân-viên Lực-Lượng. - Pḥng Tiếp-Liệu: Lo thủ-tục xin cấp-phát nhu-cầu Tiếp-Liệu cho LLZP và Hải-Đội. - Pḥng CTCT: Lo việc học-tập chính-tri và tâm-lư-chiến cho LLZP.
Sơ-đồ Tổ-Chức Bộ Chỉ-Huy Lực-Lượng Duyên-Pḥng.
Hạm-Đội Tiền-thân của Hạm-Đội là Hải-Lực. Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Lực những ngày đầu là HQ Đại-Úy Lâm-Nguơn-Tánh. Sau Đại-Úy Tánh đến Hải-Quân Đại-Úy Nguyễn-Vân, rồi Đại-Úy Dư-Trí-Hùng Xử-lư Thường-vụ chức-vụ này ít tháng.518. Hải-Quân Đại-Úy Nghiêm-Văn-Phú tiếp-theo Đại-Úy Hùng là vị Chỉ-Huy-Trưởng nắm Hải-Lực nhiều năm. Ông thăng-cấp Thiếu-Tá trong chức-vụ, thường được coi như người đă đặt mẫu-mực cho Hải-Lực những năm về sau. Bộ Tư-Lệnh Hạm-Đội đặt trong ṿng thành của Hải-Quân Công-xưởng. Hạm-Đội là một đại-đơn-vị, có cấp-số rất lớn, được điều-động bởi: Tư-Lệnh (cấp-số Phó Đô-Đốc), Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Xuân-Sơn, Tư-Lệnh Hạm-Đội 1971-1975. Hạm-Đội gồm 3 Hải-đội: Hải-đội 1 Tuần-duyên, Hải-đội II Chuyển-vận, Hải-đội III Tuần-Dương. Thành-phần và nhiệm-vụ các Hải-đội được quy-định như sau: - Hải-đội I Tuần-Duyên gồm các loại: Tuần-Duyên-Hạm (PGM - Motor Gunboat), Giang-Pháo-Hạm (LSIL - Landing Ship, Infantry, Large), Trợ-Chiến-Hạm (LSSL - Landing Support Ship, Large)... Nhiệm-vụ tuần-tiễu, kiểm-soát địch vùng cận-duyên. - Hải-đội II Chuyển-Vận gồm các loại: Dương-Vận-Hạm (LST - Landing Ship, Tank), Hải-Vận-Hạm (LSM - Landing Ship, Medium), Giang-Vận-Hạm (LCU - Landing Craft, Utility), Hoả-Vận-Hạm (YOG - Gasoline Barge, Self-propelled)... Nhiệm-vụ hành-quân đổ-bộ, yểm-trợ tiếp-vận, y-tế, sửa-chữa. - Hải-đội III Tuần-dương gồm các loại: Hộ-Tống-Hạm (PCE - Patrol Craft Escort), Tuần-dương-Hạm (WHEC), Khu-Trục-Hạm (DER - Radar Picket Escort)... Nhiệm-vụ tuần-tiễu, ngăn-chặn, nghênh-chiến khi tàu địch xâm-nhập Hải-phận Việt-Nam. Các chiến-hạm Hạm-Đội được biệt-phái hoạt-động khắp bốn vùng chiến-thuật, từ Vĩ-tuyến 17 đến Cà-Mau, cả biển lẫn sông. Những ngày cuối-cùng của cuộc chiến, Hải-Quân Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê được bổ-nhiệm thay-thế Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Xuân-Sơn ở chức-vụ Tư-Lệnh Hạm-Đội. Hạm-Đội gồm các đơn-vị ṇng-cốt của Hải-Quân Việt-Nam với các chiến-hạm có khả-năng hoạt-động ngoài biển. Hạm-Đội VNCH được tổ-chức thành 3 Hải-Đội: Hải-Đội I, Hải-Đội II và Hải-Đội III. Nhiệm-vụ các Hải-Đội như sau:
Sơ-đồ Tổ-chức Hạm-Đội. - Hải-Đội I: Có nhiệm-vụ tuần-tiễu bảo-vệ lănh-hải và vùng cận-duyên, chống lại mọi hoạt-động bất-hợp-pháp; yểm-trợ Hải-pháo và phối-hợp hành-quân với các đơn-vị bạn. Hải-Đội I gồm có những loại chiến-hạm sau đây: * 20 Tuần-Duyên-Hạm: HQ-600 - HQ-619 * 04 Giang-Pháo-Hạm: HQ-328 - HQ-331 * 04 Trợ-Chiến-Hạm: HQ-228 - HQ-231.519 - Hải-Đội II: Có nhiệm-vụ chuyên-chở, đổ-bộ, tiếp-tế, yểm-trợ sửa-chữa các tiểu-đĩnh tại vùng hành-quân; yểm-trợ Hải-pháo và thực-hiện chương-tŕnh Quân-Y, Dân-Sự-Vụ. Hải-Đội này có hai Bệnh-Viện-Hạm trang-bị Quang-tuyến X; pḥng Nha-khoa; pḥng Thí-nghiệm và Điều-trị; hoạt-động thăm-viếng định-kỳ dọc theo miền duyên-hải và đồng-bằng sông Cửu-Long để giúp-đỡ dân-chúng tập-trung-ở những vùng đông dân-cư, thiếu-thốn thuốc-men hoặc không có Cơ-quan Y-tế địa-phương. Hải-Đội II gồm có những loại chiến-hạm sau đây: * 06 Dương-Vận-Hạm: HQ-500 - HQ-505 * 05 Hải-Vận-Hạm: HQ-402 - HQ-406 * 02 Bệnh-Viện-Hạm: HQ-400, HQ-401 * 06 Hoả-Vận-Hạm: HQ-470 - HQ-475 * 14 Giang-Vận-Hạm: HQ-533 - HQ546 * 01 Lương-Vận-Hạm: HQ-451 * 01 Thực-Vận-Hạm: HQ-490520 * 02 Yểm-Trợ-Hạm: HQ-800 - HQ-801521 * 01 Cơ-Xưởng-Hạm: HQ-802.
Chiến-hạm lớn nhất của Hải-Đội II Chuyển-Vận là các Dương-Vận-Hạm. - Hải-Đội III: Có nhiệm-vụ tuần-tiễu vùng viễn-duyên để phát-giác và ngăn-chặn kịp-thời các hoạt-động của địch; phối-hợp hành-quân và yểm-trợ Hải-pháo cho các đơn-vị bạn. Hải-Đội III gồm có những loại chiến-hạm sau đây: * 02 Khu-Trục-Hạm: HQ-1, HQ-4. * 07 Tuần-Dương-Hạm: HQ-2, HQ-3, HQ-5, HQ-6, HQ-15, HQ-16, HQ-17. * 08 Hộ-Tống-Hạm: HQ-7, HQ-8, HQ-9, HQ-11, HQ-12, HQ-13, HQ-14, HQ-10 (chiếc này hy-sinh tại Hoàng-Sa ngày 19-1-1974).
Hộ-Tống-Hạm Nhật-Tảo HQ-10. Trong khi chống quân xâm-lược TC, chiến-hạm này đă hy-sinh nằm lại tại Hoàng-Sa năm 1974.
Lực-Lượng Hải-Thuyền Thành-lập: Khởi-thuỷ, Lực-Lượng Hải-Thuyền là một lực-lượng bán-quân-sự, do Sĩ-Quan Hải-Quân tuyển-mộ, huấn-luyện và chỉ-huy. Thời-gian huấn-luyện cho quân-nhân hải-thuyền là ba tháng.
Theo Truyền-thống lịch-sử, quân Đại-Việt thời nhà Trần xâm hai chữ “Sát Đát” khi tử-chiến với quân Mông-Cổ, Đoàn-Viên Hải-Thuyền HQVN xâm trên ngực hai chữ "Sát Cộng". Khi mới thành-lập, mỗi đơn-vị của Lực-Lượng Hải-Thuyền được gọi là Đội Hải-Thuyền và Đoàn-Viên đều xâm trên ngực hai chữ "Sát-Cộng". Trung-tâm Huấn-luyện Hải-Thuyền trước đặt tại Phú-Quốc, đến tháng 2-1963 dời về Cam-Ranh. Thành-phần: Mỗi đội Hải-Thuyền được chỉ-huy bởi một Thiếu-Úy hoặc Trung-úy. Chiến-thuyền gồm có: 3 ghe Chủ-lực, 3 ghe Di-cư, 20 ghe Buồm.
Hải-thuyền có nhiều loại khá phức-tạp. H́nh trái: một trong những hải-thuyền đầu tiên (mang buồm tứ-giác). H́nh phải: một chiếc hải-thuyền cải-tiến, mang buồm cánh dơi.
Trang-bị: Mỗi loại ghe được trang-bị như sau: - Ghe Chủ-lực: một Đại-liên 50 trước mũi, một Đại-liên 30 sau lái và nhiều súng cá-nhân. - Ghe Di-cư: hai Đại-liên 30 và vũ-khí cá-nhân. - Ghe Buồm: súng cá-nhân. Y-phục của Đoàn-viên giai-đoạn đầu: bà-ba đen. Sau này, các quân-nhân mặc quân-phục Hải-Quân. Nhiệm-vụ và phạm-vi hoạt-động: Nhiệm-vụ của Lực-Lượng Hải-Thuyền là tuần-tiễu, kiểm-soát và ngăn-chặn sự xâm-nhập và trà-trộn của Việt-Cộng vào các làng ven biển thuộc các vùng Duyên-hải. Sau khi được sáp-nhập vào Hải-Quân, Đội Hải-Thuyền được đổi danh-xưng thành Duyên-Đoàn và Đoàn-viên mặc quân-phục Hải-Quân. Cấp-số của Duyên-Đoàn-Trưởng là Thiếu-Tá.
Vùng I Duyên-Hải Tổ-chức: Bộ Tham-Mưu của Vùng I Duyên-Hải gồm có: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải kiêm Chỉ-Huy-Trưởng Khu quân-sự Tiên-Sa. Khu Quân-sự này gồm tất cả các đơn-vị Hải, Lục, Không-Quân đồn-trú tại bán-đảo Sơn-Trà. Bộ Tư-Lệnh Vùng I Duyên-Hải đặt tại Tiên-Sa, Đà-Nẵng. Lực-Lượng Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải gồm các đơn-vị sau đây: - Các Giang-Đoàn: 32 Xung-Phong đóng tại Huế, 92 Trục-Lôi tại Thuận-An, 60 Tuần-Thám ở Thuận-An. - Các Duyên-Đoàn: DĐ11 tại Cửa-Việt, DĐ12 tại Thuận-An, DĐ13 tại Cửa Tư-Hiền, DĐ14 tại Hội-An, DĐ15 tại Chu-Lai, DĐ16 tại Quảng-Ngăi. - Hải-đội I Duyên-pḥng. - Bốn đài Kiểm-Báo: 101 tại núi La-Ngữ, Huế; 102 tại Sơn-Trà; 103 tại Cù-lao Ré: 104 tại Sa-Huỳnh. - Các Tiền-Doanh Yểm-Trợ Tiếp-Vận. - Ngoài ra, Vùng I Duyên-Hải c̣n có các chiến-hạm biệt-phái. Phạm-vị hoạt-động: Vùng Duyên-Hải và sông-rạch các tỉnh: Quảng-Trị, Thừa Thiên, Đà-Nẵng, Quảng-Ngăi. Tư-Lệnh cuối-cùng: Phó-Đề-Đốc Hồ-Văn-Kỳ-Thoại. Ông Hồ-Văn Kỳ-Thoại (mang cấp Trung-Tá) nhận quyền Tư-Lệnh Vùng 1 Duyên-hải, 1970. Đứng bên phải Ông là HQ Trung-Tá Nguyễn-Văn-Thông, Cựu Tư-Lệnh.
Vùng II Duyên-Hải Tổ-chức: Bộ Tham-Mưu Vùng II Duyên-Hải gồm: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng,. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải đặt tại trại Tây-Kết Nha-Trang, gồm các đơn-vị sau đây: - Các Duyên-Đoàn: DĐ 21 tại Quy-Nhơn, DĐ 22 tại Poulo-Gambir, DĐ 23 tại Sông-Cầu, DĐ 24 tại Tuy-Hoà, DĐ 25 tại Ḥn-Khói, DĐ 26 tại B́nh-Ba, DĐ 27 tại Phan-Rang, DĐ 28 tại Phan-Thiết. - Hải-đội II Duyên-pḥng đóng tại Quy-Nhơn. - Các Căn-Cứ Yểm-Trợ. - Các đài Kiểm-Báo: 201 Mũi Degi 202 Cù-lao Xanh (Poulo-Gambir) 203 Ḥn-Lớn, Nha-Trang 204 Mũi Dinh - Một số chiến-hạm biệt-phái. Tầm hoạt-động - Vùng II Duyên-Hải trách-nhiệm các vùng duyên-hải thuộc các tỉnh: B́nh-định, Phú-Yên, Khánh-Hoà, Cam-Ranh, Phan-Rang, Phan-thiết. Tư-Lệnh cuối-cùng: Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh.
Vùng III Duyên-Hải Tổ-chức: Bộ Tham-Mưu Vùng III Duyên-Hải gồm: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng III Duyên-Hải đóng tại Cát-Lở và gồm các đơn-vị sau đây: - Hải-đội 3 Duyên-pḥng đóng tại Cát-Lở. - Các Duyên-Đoàn: Duyên-đoàn 31 tại cửa Hàm-Tân Duyên-đoàn 32 tại Bến-Đ́nh Vũng-Tàu Duyên-đoàn 33 tại Rạch-Dừa Duyên-đoàn 34 và 37 tại Tiềm-Tôn Bến-Tre Duyên-đoàn 35 tại Hưng-Mỹ Trà-Vinh Duyên-đoàn 36 tại Long-Phú - Căn-Cứ Yểm-Trợ Cát-Lở. - Bệnh-xá Vũng-Tàu. - Các đài Kiểm-Báo: 301 tại Côn-Sơn, 302 tại Núi-Lớn, Vũng-Tàu, 303 tại núi Tà-Kú, B́nh-Tuy, 304 đặt trên Kiểm-Báo-Hạm HQ-460, nằm ngoài khơi Ba-Động. - Một số chiến-hạm biệt-phái. Phạm-vi hoạt-động: Miền duyên-hải thuộc Phước-Tuy, G̣-Công, Kiến-Hoà. Tư-Lệnh cuối-cùng: Phó-Đề-Đốc Vũ-Đ́nh-Đào.
H́nh Phó-Đề-Đốc Vũ-Đ́nh-Đào khi Ông mang cấp HQ Trung-Tá.
Vùng IV Duyên-Hải Tổ-chức: Bô Tham-Mưu gồm: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Bộ Tư-Lệnh Vùng IV Duyên-Hải được đặt tại An-Thới, Phú-Quốc.
Toàn cảnh An-Thới, Phú-Quốc, nơi có Bộ Tư-Lệnh Vùng IV Duyên-Hải.
Lực-Lượng: Hải-Quân Vùng IV Duyên-Hải gồm có: - Các Duyên-Đoàn: Duyên-đoàn 42 tại Ḥn Nam-Du, sau này di-chuyển về An-Thới 1 chi-đội, 1 chi-đội đóng tại Poulo-Panjang. Duyên-đoàn 43 tại Cửa Sông-Ông-Đốc, sau di-chuyển về đảo Ḥn-Tre, Rạch-Giá. Duyên-đoàn 44 tại Kiên-An Rạch-Giá. Duyên-đoàn 45 tại Bắc đảo Phú-Quốc, sau chuyển về Hà-Tiên. Duyên-đoàn 46 và 47 tại An-Thới. - Hải-đội IV Duyên-pḥng đóng tại An-Thới. - Một số chiến-hạm biệt-phái. - Căn-Cứ Yểm-Trợ Tiếp-Vận. - Các đài Kiểm-Báo: 402 Ḥn-Đốc (Ile des Pirates) 403 Ḥn Nam-Du (Poulo-Dama) 404 Núi An-Thới Phạm-vi hoạt-động: Từ mũi Cà-Mau đến biên-giới Miên - Việt trong vịnh Thái-Lan. Tư-Lệnh cuối-cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Văn-Thiện.
Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Văn-Thiện, Tư-Lệnh cuối-cùng V4 DH
Vùng V Duyên-Hải Vùng V Duyên-Hải là Vùng Duyên-Hải được thành-lập vào những năm sau cùng của cuộc chiến. Tổ-chức: Bộ Tham-Mưu Vùng V Duyên-Hải gồm: Tư-Lệnh, Tư-Lệnh-Phó và Tham-Mưu-Trưởng. Bộ Tư-Lệnh đặt tại Năm-Căn thuộc tỉnh An-Xuyên. Thành-phần: Lực-Lượng cơ-hữu Hải-Quân Vùng V Duyên-Hải gồm: - Hải-đội V Duyên-pḥng. - Giang-Đoàn 43 Ngăn-chặn. - Giang-Đoàn 53 Tuần-Thám. - Căn-cứ Hải-Quân. - Tiền-Doanh Yểm-Trợ. - Duyên-Đoàn 36 (tăng-phái) đóng tại cửa Định-An. - Duyên-Đoàn 41 đóng tại Poulo-Obi. - Đài Kiểm-Báo 401 đặt trên Ḥn-Khoai (Poulo-Obi). - Các chiến-hạm biệt-phái. Vùng hoạt-động: Vùng V Duyên-Hải trách-nhiệm miền duyên-hải các tỉnh Ba-Xuyên, Bạc-Liêu, An-Xuyên (Cà-Mau), một phần duyên-hải của tỉnh Kiên-Giang (Rạch-Giá) và các đảo Poulo-Obi, Fas Obi, v.v... Ngoài ra, hai Giang-Đoàn 43 Ngăn-chặn và 53 Tuần-Thám chịu trách-nhiệm sông Năm-Căn (giới hạn từ cửa Bồ-Đề đến cửa Bảy-Hạp), sông Đồng-Cùng và Chi-Khu Năm-Căn. Tư-Lệnh cuối-cùng: Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Văn-May. Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn-Văn-May, Tư-Lệnh Vùng V Duyên-Hải. Trong h́nh này, Ông mang cấp-bậc HQ Thiếu-Tá.
Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải522 (Coastal Security Service - CSS) được thành-lập vào năm 1964, trực-thuộc Nha Kỹ-thuật. Về phương-diện hành-quân, SPVZH làm việc hàng ngang với Phái-Bộ Cố-Vấn Hải-Quân (Naval Advisory Detachment - NAD) thuộc MACSOG của Hoa-Kỳ. Hai cơ-quan này đều đặt trụ-sở tại toà nhà Bạch-Tượng (White Elephant) Đà-Nẵng để dễ-bề hoạt-động phối-hợp hành-quân, và thường được gọi chung là NAD/CSS. Đa-số nhân-viên SPVZH là quân-nhân Hải-Quân, đôi khi có một số nhỏ thuộc Lục-quân. Chỉ-Huy-Trưởng SPVZH thường là Sĩ-Quan cao-cấp Hải-Quân. Các vị Chỉ-Huy-Trưởng SPVZH đều là những Sĩ-Quan thâm-niên, nhiều kinh-nghiệm; sau này có tới bốn cựu Chỉ-Huy-Trưởng được thăng đến cấp Phó-Đề-Đốc, đó là các vị Phó-Đề-Đốc Diệp-Quang-Thuỷ, Nguyễn-Thành-Châu, Nguyễn-Hữu-Chí và Hồ-Văn Kỳ-Thoại. Chỉ-Huy-Trưởng SPVZH sau cùng là HQ Đại-Tá Nguyễn-Viết-Tân. Ngoài một số cơ-cấu hành-chánh, SPVZH có hai đơn-vị trực-thuộc chính, đó là - Lực-Lượng Hải-Tuần (LLHT) và - Lực-Lượng Biệt-Hải (LLBH), đôi khi c̣n gọi tắt là Biệt-Hải.
Cơ-sở Lực-Lượng Hải-Tuần.
Lực-Lượng Hải-Tuần (LLHT) Lực-Lượng Hải-Tuần có nhiệm-vụ thi-hành những công-tác hành-quân đặc-biệt bằng đường biển trong vùng lănh-hải Bắc-Việt từ Vĩ-tuyến 17 Bắc trở lên. Doanh-trại LLHT nằm ngay dưới chân núi Khỉ (Monkey Mountain) thuộc bán-đảo Sơn-Trà, Đà-Nẵng, cạnh các cơ-sở thuộc BTL/HQ/V1DH. Tàu PTF và các công-xưởng sửa-chữa cũng như bảo-tŕ của MST nằm gần Deep Water Pier, đối-diện với khu doanh-trại qua con đường nhỏ. LLHT được trang-bị các loại Duyên-Tốc-Đĩnh (PCF - Patrol Craft Fast) c̣n gọi là "Swift" và Khinh-Tốc-Đĩnh (PTF - Patrol Torpedo Fast). "Swift" là loại Duyên-Tốc-Đĩnh mũi ngắn, sườn nhôm, dài chừng 50 bộ do hăng đóng tàu Seward Seacraft ở Burwick, Louisiana chế-tạo. Tàu trọng-tải 19 tấn, tầm-nước 3.5 bộ, gắn 2 máy diesel và có vận-tốc tối-đa chừng 28 gút. Vũ-khí trang-bị gồm có một đại-liên 50 (12 ly7) gắn trên nóc pḥng lái; sân sau có một súng cối 81 ly trực-xạ trên gắn đại-liên 50. Thuỷ-Thủ-Đoàn gồm có 5 người. Có ba loại PTF được dùng ở Việt-Nam: - PTF cũ thời Đệ-Nhị Thế-chiến, - PTF loại "Nasty" do Na-Uy chế-tạo và - PTF loại "Osprey" do Hoa-Kỳ đóng. Điểm đặc-biệt là tất cả các ống phóng ngư-lôi đều được tháo-gỡ. Thuỷ-Thủ-Đoàn PTF gồm khoảng 18 người. Hai PTF đầu-tiên được trang-bị cho LLHT là loại cũ từ thời Đệ-Nhị Thế-chiến (giống PT 109 của TT Kennedy), dùng máy Packard chạy bằng xăng máy-bay nên c̣n được gọi là "tàu xăng". Vũ-khí trang-bị nguyên-thuỷ gồm ống phóng ngư-lôi, 2 đại-bác 40 ly một ở trước mũi và một ở sân sau, 2 đại-bác 20 ly, 2 đại-liên 50 bên hông. Khi sang Việt-Nam, khẩu đại-bác 40 trước mũi được cắt-bỏ và thay bằng khẩu súng cối 81 ly trực-xạ gắn thêm đại-liên 50. Hai PT này được đổi tên là PTF-1 và PTF-2, Hai vị Hạm-Trưởng đầu-tiên của các PTF-1 và PTF-2 là Hải-Quân Đại-Úy Mai Mộng Liễn và Hải-Quân Đại-Úy Lưu-Chuyên (cùng khoá 8 SQHQ Nha-Trang). Sau đó, LLHT nhận thêm hai PTF tối-tân hơn thường được gọi là "Nasty" do Na-Uy chế-tạo. Hai Nasty đầu-tiên do các HQ Đại-Úy Trần-Văn-Lâm và Trịnh-Kim-Thanh (cùng khoá 5 SQHQ Nha-Trang) làm Hạm-Trưởng. Khinh-Tốc-Đĩnh Nasty có vỏ bằng ván ép nhiều lớp đặc-biệt, trọng-tải 75 tấn, dài khoảng 80 bộ, rộng 24.7 bộ, tầm nước 3.7 bộ phía trước, 6.10 bộ chỗ chân-vịt sau lái, có thể mang 18 tấn hay 6,100 gallons dầu cặn, tầm hoạt-động lên đến 1,000 hải-lư với tốc-độ tiết-kiệm. Máy tàu loại Napier & Deltic của Anh, 18 xy-lanh, vận-tốc đường-trường khoảng 35 gút, vận-tốc tác-chiến tối-đa có thể lên đến 50 gút khi tàu không mang nhiều nhiên-liệu. Về vũ-khí, Nasty được trang-bị 1 súng cối 81 ly trực-xạ gắn thêm đại-liên 50 trước mũi. Sau lái có khẩu đại-bác 40 ly, hai bên hông ngang đài chỉ-huy gắn đại-bác 20 ly.
Các Khinh-Tốc-Đĩnh tại tàu của Lực-Lượng Hải-Tuần. Khoảng giữa năm 1968, để thay-thế cho một số chiến-đĩnh Nasty vào công-xưởng sửa-chữa đại-kỳ hay bị hư-hại trong lúc tác-chiến, LLHT nhận thêm một số chiến-đĩnh mới cũng thuộc loại PTF nhưng có tên là "Osprey" do Hoa-Kỳ chế-tạo. Loại Khinh-Tốc-Đĩnh này do hăng đóng tàu John Trumpy and Sons of Annapolis, Maryland sản-xuất, tổng-cộng chỉ có 6 chiếc. Các chiến-đĩnh Osprey được đóng mô-phỏng theo loại Nasty của Na-Uy, nhưng vỏ bằng nhôm thay v́ bằng gỗ. Đặc-biệt, loại Osprey được trang-bị máy điều-hoà không-khí nên rất tiện-nghi khi đi công-tác. Nghe nói sườn và phần sau lái tàu được nhập-cảng "tiền-chế" từ Na-Uy. Khinh-Tốc-Đĩnh Osprey tuy vỏ bằng nhôm nhưng cũng hơi nặng hơn loại Nasty nên vận-tốc kém hơn khoảng 5 gút và mức-độ nhảy sóng cũng kém hơn. Vũ-khí trang-bị tương-tự như Nasty. Thuỷ-Thủ-Đoàn của các PTF và Swift đều là những quân-nhân Hải-Quân VNCH t́nh-nguyện. Việc điều-tra an-ninh rất gay-go với mức-độ "mật" hay "tối-mật".
Lực-Lượng Biệt-Hải (LLBH) Nhiệm-vụ của LLBH là thi-hành những công-tác đổ-bộ bằng đường biển để xâm-nhập, phá-hoại, khuấy-rối v.v... tại Bắc-Việt. Doanh-trại LLBH nằm dọc theo băi-biển Mỹ-Khê. Các toán Biệt-Hải sống và huấn-luyện trong những trại riêng-biệt, tương-đối nhỏ chỉ đủ cho vài ba chục người. Vào khoảng năm 1964, toán Người-Nhái Hải-Quân Hoa-Kỳ đảm-trách việc huấn-luyện các toán Biệt-Hải, dưới quyền chỉ-huy của Đại-Úy Cathal L. Flynn. Các toán Biệt-Hải được huấn-luyện về kỹ-thuật chèo xuồng cao-su, đổ-bộ, bơi ngầm dưới biển, sử-dụng chất nổ v.v... Vào tháng 3 năm 1964, Hải-Quân Đại-Úy Trịnh-Hoà-Hiệp thuộc Liên-Đoàn Người-Nhái HQVNCH được thuyên-chuyển ra làm Chỉ-Huy-Trưởng toán Biệt-Hải tại Mỹ-Khê.
Biệt-Hải thi-hành những công-tác đường biển để xâm-nhập, phá-hoại, khuấy-rối CS Bắc-Việt. Công-tác của Lực-Lượng Hải-Tuần Trong suốt thời-gian hoạt-động, các PTF thuộc LLHT đă thực-hiện khoảng trên dưới 1,000 chuyến công-tác xâm-nhập hải-phận Bắc-Việt với những thành-quả rất khả-quan trong khi thiệt-hải không đáng kể. Những chuyến công-tác này thường không kéo dài quá 24 tiếng đồng-hồ. Khoảng từ năm 1965 đến năm 1970 có nhiều công-tác nhất. Đặc-biệt trong thời-gian phi-cơ Hoa-Kỳ oanh-tạc Bắc Việt, có những Thuỷ-Thủ-Đoàn đi 5, 6 chuyến công-tác mỗi tháng.
Biệt-hải tập-dượt tại Đà-Nẵng.
Khi đi công-tác, Thuỷ-Thủ-Đoàn PTF cũng như nhân-viên Biệt-Hải không bận quân-phục, thường chỉ mặc quần-áo bà-ba đen. Đặc-biệt, SPVZH là đơn-vị duy-nhất không có Cố-Vấn Hoa-Kỳ đi theo trong những chuyến công-tác xâm-nhập hải-phận Miền-Bắc. Lực-Lượng Hải-Quân Bắc-Việt với những tiểu-đĩnh cũ-kỹ và yếu-kém hơn so với các PTF nên ít khi dám ra mặt nghênh-cản. Trong suốt thời-gian hoạt-động từ năm 1964 cho đến 1972 chỉ có dăm, ba cuộc đụng-độ giữa các chiến-đĩnh đôi bên. Các khẩu đại-bác pḥng-duyên của Bắc-Việt đặt trên những hải-đảo hay mỏm-núi cao dọc duyên-hải cũng thường bắn ra dữ-dội nhưng khó gây thiệt-hại cho những PTF, vừa nhỏ mà lại có vận-tốc cao.
Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến Trong diễn-tiến vừa thành-lập vừa trưởng-thành trong khói-lửa, lại vừa chiến-đấu chống Cộng-sản Việt-Nam, Binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam cũng đă tiến-triển vượt-bực về tổ-chức.523 Cấp-số của Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến cũng như của Sư-Đoàn Nhẩy Dù lớn hơn rất nhiều khi so-sánh với cấp-số các Sư-Đoàn Bộ-Binh tiêu-chuẩn. Quân-số lư-thuyết Sư-Đoàn TQLC lên tới 884 Sĩ-Quan và 13,188 Hạ-Sĩ-Quan và Binh-Sĩ524 (tổng-cộng 14,072 người). Theo một bài viết của Đại-Tá Phạm-Văn-Chung, khởi đi từ năm 1954, Binh-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến được chỉ-huy tuần-tự bởi nhiều vị Chỉ-Huy-Trưởng và Tư-Lệnh. Trung-Tướng Lê-Nguyên-Khang là vị Tư-Lệnh đầu-tiên và cũng là vị chỉ-huy lâu nhất525. Chen-kẽ giữa hai nhiệm-kỳ Tư-Lệnh của Ông Khang, Trung-Tá Nguyễn-Bá-Liên nắm quyền đó trong một thời-gian ngắn, từ ngày 16-12-1963 đến tháng 2 năm 1964.526
Lữ-Đoàn TQLC có Tư-Lệnh thứ nh́ sau Trung-Tá Khang: Trung-Tá Nguyễn-Bá-Liên. H́nh Ông Liên sau khi thăng-cấp Đại-Tá.
Thiếu-Tướng Bùi-Thế-Lân, vị Tư-Lệnh Sư-Đoàn cuối-cùng, đă nắm vững trách-nhiệm tác-chiến từ năm 1972 đến năm 1975. Giữa năm 1968 khi Thuỷ-Quân Lục-Chiến được nâng lên cấp Sư-Đoàn, 2 Bộ Chỉ-Huy Chiến-Đoàn trở-thành 2 Bộ Chỉ-Huy Lữ-Đoàn: 147 và 258. Các đơn-vị yểm-trợ tăng thành cấp Tiểu-Đoàn Yểm-Trợ Thuỷ-Bộ, Tiểu-Đoàn Truyền-Tin, Tiểu-Đoàn Vận-Tải, Tiểu-Đoàn Công-Binh, Tiểu-Đoàn Quân-Y v.v... Đại-đội Huấn-luyện trở-thành Trung-Tâm Huấn-luyện Sư-Đoàn, khả-năng cung-cấp hàng ngàn tân-binh cho các Tiểu-Đoàn tác-chiến sau khi được huấn-luyện thuần-thục căn-bản bộ-binh tác-chiến và hành-quân đặc-biệt Không, Thuỷ, Bộ.
Thiếu-Tướng Bùi-Thế-Lân, vị Tư-Lệnh Sư-Đoàn cuối-cùng.
Năm 1969, Tiểu-Đoàn 8 Ó Biển, Tiểu-Đoàn 9 Mănh Hổ, Tiểu-Đoàn 2 Pháo-Binh ra đời, Bộ Chỉ-Huy Lữ-Đoàn 369, Tiểu-Đoàn 3 Pháo-Binh thành-lập năm 1970. Bệnh-viện Lê-Hữu-Sanh thuộc Tiểu-Đoàn Quân-Y, một bệnh-viện 250 giường được thành-lập, trang-bị đầy-đủ để đáp-ứng nhu-cầu binh-sĩ Thuỷ-Quân Lục-Chiến cùng gia-đ́nh.
Một Sĩ-Quan TQLC trong quân-phục đại-lễ: Đại-Tá Lê-Đ́nh-Quế.
Quân-số lư-thuyết Sư-Đoàn TQLC lên tới 884 Sĩ-Quan và 13,188 Hạ-Sĩ-Quan và Binh-Sĩ527 (tổng-cộng 14,072 người). Năm 1974, Lữ-Đoàn 468 gồm các Tiểu-Đoàn 14 Tiểu-Đoàn 16, Tiểu-Đoàn 18 và 1 Pháo-Đội 105 ly được ra đời để chuẩn-bị lần cho việc tổ-chức Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến thứ hai.528 Các cấp chỉ-huy Thuỷ-Quân Lục-Chiến thường xuất-thân từ hai trường Sĩ-Quan, Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt hoặc Sĩ-Quan Trừ-Bị Thủ-Đức / Nam-Định. Có đến 80% Sĩ-Quan tốt-nghiệp các khoá Căn-Bản, Tham-Mưu Trung-Cấp hoặc Chỉ-huy Tham-Mưu Cao-Cấp, trường Thuỷ-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ. Sư-Đoàn TQLC có 1 Tiểu-Đoàn Tổng-hành-dinh, 9 Tiểu-Đoàn tác-chiến thuỷ-bộ và 3 Tiểu-Đoàn Pháo-binh. Toàn-bộ Sư-Đoàn đă tham-dự các cuộc hành-quân quy-mô lớn do Quân-Đoàn 1 chỉ-huy như: - Cuộc hành-quân Lam-Sơn 719 vượt-biên sang Hạ Lào 1971. - Cuộc hành-quân Lam-Sơn 72 tái-chiếm thị-xă Quảng-Trị 1972. Mỗi Tiểu-Đoàn tác-chiến của TQLC, theo lư-thuyết gồm có tổng-cộng 937 người, chia ra như sau: - Sĩ-Quan: 36 - Hạ-Sĩ-Quan: 112 - Binh-sĩ: 789.529 Danh-hiệu các Tiểu-Đoàn530 như sau: Tiểu-Đoàn 1 Quái-Điểu Tiểu-Đoàn 2 Trâu-Điên Tiểu-Đoàn 3 Sói-Biển Tiểu-Đoàn 4 Ḱnh-Ngư Tiểu-Đoàn 5 Hắc-Long Tiểu-Đoàn 6 Thần-Ưng Tiểu-Đoàn 7 Hùm-Xám Tiểu-Đoàn 8 Ó-Biển Tiểu-Đoàn 9 Mănh-Hổ. Để yểm-trợ hoả-lực cận-chiến, Pháo-binh TQLC được trang-bị các đại-bác 105 ly. Những Tiểu-Đoàn Pháo-binh mang tên như sau: Tiểu-Đoàn 1 Lôi-Hoả Tiểu-Đoàn 2 Thần-Tiễn Tiểu-Đoàn 3 Nỏ-Thần. Tập Hải-Sử này đặc-biệt ghi lại danh-sách các Lữ-Đoàn-Trưởng và Tiểu-Đoàn-Trưởng Thuỷ-Quân Lục-Chiến trong trận đánh lừng-danh tái-chiếm Quảng-Trị vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972531 như sau: - Lữ-Đoàn-Trưởng, Lữ-Đoàn 147 TQLC: Đại-Tá Nguyễn-Năng-Bảo, Sĩ-Quan Nam-Định. - Lữ-Đoàn-Trưởng, Lữ-Đoàn 258 TQLC: Đại-Tá Ngô-Văn-Định, Sĩ-Quan Trừ-Bị Khoá 4 Phụ, thụ-huấn và tốt-nghiệp tại Trường Vơ-Bị Đà-Lạt. - Lữ-Đoàn-Trưởng, Lữ-Đoàn 369 TQLC: Đại-Tá Nguyễn-Thế-Lương, Sĩ-Quan Thủ-Đức.
Sáng ngày 16/9/1972 TQLC tái-chiếm Quảng-Trị và Dựng Cờ (h́nh nguyên-bản.)
Các Tiểu-Đoàn từ 1 đến 9: - Tiểu-Đoàn-Trưởng Tiểu-Đoàn 1 TQLC: Trung-Tá Nguyễn-Đăng-Hoà, Sĩ-Quan Nha-Trang (cựu Thiếu-Sinh-Quân) - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 2 TQLC: Thiếu-Tá Trần-Văn-Hợp, Sĩ-Quan Đà-Lạt - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 3 TQLC: Trung-Tá Nguyễn-Văn-Cảnh, Sĩ-Quan Đà-Lạt - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 4 TQLC: Trung-Tá Trần-Xuân-Quang, Sĩ-Quan Thủ-Đức - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 5 TQLC: Trung-Tá Hồ-Quang-Lịch, Sĩ-Quan Thủ-Đức - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 6 TQLC: Trung-Tá Đỗ-Hữu-Tùng, Sĩ-Quan Đà-Lạt - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 7 TQLC: Thiếu-Tá Nguyễn-Văn-Kim, Sĩ-Quan Đà-Lạt - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 8 TQLC: Trung-Tá Nguyễn-Văn-Phán, Sĩ-Quan Thủ-Đức - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 9 TQLC: Trung-Tá Nguyễn-Kim-Đễ, Sĩ-Quan Đà-Lạt
Bức h́nh trên được vẽ lại, tô màu. “Biểu-tượng tinh-thần của TQLC Việt-Nam là h́nh-ảnh những chiến-sĩ TQLC dựng lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc-gia Việt-Nam trên cổ-thành Quảng-Trị”.
Các Tiểu-Đoàn Pháo-Binh - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 1 Pháo-Binh TQLC: Trung-Tá Đoàn-Trọng-Cảo - Sĩ-Quan Đà-Lạt. - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 2 Pháo-Binh TQLC: Trung-Tá Đặng-Bá-Đạt - Sĩ-Quan Thủ-Đức. - Tiểu-Đoàn-Trưởng, Tiểu-Đoàn 3 Pháo-Binh TQLC: Trung-Tá Trần-Thiện-Hiệu - Sĩ-Quan Thủ-Đức.
Giữa cảnh điêu-tàn đổ-nát, sau khi thăm hỏi TQLC, Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu đến cầu-nguyện tại Nhà thờ La-Vang (Quảng-Trị) năm 1972.
Vào năm 1974, dự-án tổ-chức Sư-Đoàn Thuỷ-Quân Lục-Chiến thứ hai bắt đầu. Sư-Đoàn này đă có một số đơn-vị trực-thuộc nhưng chưa kịp chính-thức ra đời th́ xảy ra biến-cố ngày 30-4-75.532 Đế đầu năm 1975, Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH đă chấp-thuận cho Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam được thành-lập một Đơn-vị Cơ-Giới. Đó là Tiểu-Đoàn Yểm-Trợ Thuỷ-Bộ. Trang-bị gồm có phần lớn là các Thuỷ-xa LVTP 5 của TQLC Hoa-Kỳ sử-dụng trước đây. 533 Quân-số của TQLC lên tới trên trên 16,000 người.
Thuỷ-Xa TQLC.
Thuỷ-Xa TQLC và Kiến-trúc căn-bản.
Một vài h́nh-ảnh Thuỷ-Xa Đổ-bộ (Trích tài-liệu từ một trang lưới điện-toán của TQLCVN).
Một Đơn-vị Thuỷ-Xa đang diễn-hành ngang qua Khán-đài Danh-Dự. Các Thuỷ-Xa của TQLC chạy ngang qua cổng chào.
Huy-hiệu Sư-Đoàn TQLC và một số Đơn-vị trực-thuộc. Một Huy-hiệu ghi sai là của TĐ10 (TQLCVN không có TĐ mang số này).
Sóng Thần, Căn-cứ chính của TQLCVN.
Chương 9 Những cái nh́n Sử-quan
Ư-chí vững-vàng Tiếp-tục cuộc Chiến Trong thời-gian h́nh-thành tập sách Hải-Sử này, một Tượng Đài Chiến-Sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà và Đồng-Minh đang được xây-dựng tại thành-phố Westminster, tiểu-bang California, Hoa-Kỳ Đây là công-tŕnh đầu-tiên trên thế-giới có tượng người Chiến-Sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà cùng Chiến-Sĩ Đồng-minh. Pho Tượng người Chiến-Sĩ Hoa-Kỳ tượng-trưng cho Khối Đồng-minh của VNCH. Tư-thế và h́nh-ảnh được cấu-trúc pho tượng này, người xem có thể h́nh-dung ra ư-nghĩa rằng chiến-sĩ Đồng-minh Hoa-Kỳ đă bỏ nón sắt, hạ tay súng ngưng chiến-đấu.
Một bản vẽ quảng-cáo trong giai-đoạn khởi-công xây-dựng tượng-đài.
Pho tượng Chiến-sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà đang trong tư-thế c̣n trang-bị như biểu-hiệu giữ vững ư-chí tiếp-tục cuộc chiến. Những chiến-sĩ Đồng-minh đă rút đi v́ lịnh của Quốc-gia họ, Nam-Nữ Dân-Quân Cán-chính VNCH phải lưu-vong. Nhưng trên Quê-Hương Việt-Nam thân-yêu, đồng-bào ruột-thịt đang c̣n trong cảnh lầm-than đau-khổ, nên người chiến-sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà vẫn chưa hạ tay súng. Họ c̣n miệt-mài tiếp-tục chiến-đấu cho Quê-Hương được vẹn-toàn, cho dân-tộc được Tự-Do, Ấm-No, Hạnh-Phúc, và cho các quyền căn-bản làm người. Tầm mắt pho tượng phóng nh́n vào tương-lai “Việt-Nam Không C̣n Cộng-Sản”, ngày đó Chiến-sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà mới ngừng chiến-đấu và cùng con cháu trở về xây-dựng non-sông. Nh́n lại hoạt-động xưa Theo lời phát-biểu của Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang: Trong khi nh́n lại thời-gian hoạt-động cũ, ta thấy rằng mặt đất là chiến-trường của Lục-Quân, Vùng trời là chiến-trường của Không-Quân. Sông, biển là trách nhiệm của chúng ta. Trong cuộc chiến, dù địch có lén-lút xuất-hiện, nhưng Hải-Quân chúng ta đă làm chủ được chiến-trường. Mặt biển đă được đan kín bằng những chiến-hạm lớn nhỏ. Trên các sông-rạch Miền-Nam, vùng đất trù-phú nhất của đất-nước, các chiến-đĩnh của chúng ta luôn-luôn là nỗi khiếp-hăi của địch, đồng-thời là sự tin-cậy mạnh-mẽ của các đơn-vị bạn trong các cuộc hành-quân tuần-tiễu đơn-phương hay hành-quân diệt địch hỗn-hợp. Khi nguy-hiểm nhất, lực-lượng chúng ta vẫn c̣n toàn-vẹn và đến lúc tan hàng, chúng ta tổ-chức ra đi thật hoàn-hảo và kỷ-luật. Ra tới hải ngoại, đa số các anh em đă xây-dựng lại gia-đ́nh nuôi-dạy các con được thành-tài. Trong lúc đó, anh em Hải-Quân, dưới nhiều h́nh-thức đă có những chương-tŕnh cưu-mang, gắn-bó, giúp-đỡ lẫn nhau. Chính anh em Hải-Quân là những tài-công đưa đồng-bào vượt biển, và cũng chính anh em Hải-Quân đă có mặt trong các công-tác cứu-vớt thuyền-nhân.534
Mong-ước Một cái Nh́n Công-bằng cho Cuộc-Chiến Các Cựu quân-nhân Hải-Quân Việt-Nam rất trân-trọng ư-kiến của Cựu Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng535 khi Ông viết rằng: “Hải-Sử trước hết sẽ giúp chúng ta biết thêm những điều về Hải-Quân mà (chính Cựu Hải-Quân) chúng ta chưa biết. Hải-Quân của chúng ta trong giai-đoạn chót có một quân-số trên 40,000. Một quân-số rất đáng kể trong tất cả các Hải-Quân lớn trên thế-giới. Hải-Quân Pháp, một quốc-gia có bờ-biển rất dài, có những quyền-lợi ở trên nhiều lục-địa và hải-đảo, mà cũng chỉ có 60,000 người.536 Chúng ta có những hoạt-động ngoài biển như tuần-dương, tuần-duyên, hải-tuần và đặc-biệt các hoạt-động trong sông mà không một Hải-Quân nào có. Tôi chắc là chỉ một số ít quân-nhân Hải-Quân biết được hết mọi khía-cạnh của Hải-Quân. Cuốn Hải-Sử trước hết sẽ giúp chúng ta biết thêm những điều về Hải-Quân mà chúng ta chưa biết. Con cháu chúng ta cũng sẽ có tài-liệu để t́m-hiểu cha ông chúng làm ǵ trong một chiều dài cuộc chiến hơn 20 năm, những thử-thách, cố-gắng, mệt-nhọc, hy-sinh của chúng ta; các gương anh-dũng tuyệt-vời của một số chiến-hữu chúng ta. Tài-liệu cũng phản lại các luận-điệu xuyên-tạc đầy-dẫy trong các thư-viện đại-học-đường về cuộc chiến của chúng ta. Những người ngoại-quốc khi đọc và suy-nghĩ sẽ có cái nh́n công-bằng về cuộc chiến hơn.”
Một chỗ đứng truyền-thống trong ḍng Việt-Sử Lược-duyệt những biến-chuyển của HQVNCH ǵn-giữ an-ninh thuỷ-lộ, bảo-vệ lư-tưởng tự-do cho đồng-bào, người ta có thể kể ra những đặc-điểm như sau: - Hải-Quân VNCH thực-sự là một Hải-Quân chính-thống, luôn-luôn mang nặng hoài-băo và nối-tiếp tinh-thần hàng-hải của tiền-nhân. Người lính thuỷ tin-tưởng một hồn “Nước” linh-thiêng, khởi đi từ thuở Hùng-Vương dựng nước, qua Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê, Nguyễn... Hải-Quân VNCH kính-ngưỡng Quốc-Tổ, suy-tôn Thánh-Trần cùng các anh-hùng cứu nước và giữ nước. Trong 23 năm, tồ-chức ấy đă đứng đối-đầu với quân xâm-lăng Cộng-Sản Vô-Thần, chỉ-đạo bởi Cộng-Sản Quốc-tế, soi đường bằng ánh sáng “ngoại-lai” Mác-Lê. - Hải-Quân VNCH là một Tổ-chức gồm những người có học-thức, chuyên-nghiệp cao, tin-tưởng ở truyền-thống dân-tộc. Trong khi đó Cộng-Sản tin-tưởng ở Quốc-tế Vô-sản, ở giai-cấp đấu-tranh, ở lư-thuyết vô-thần. - Hải-Quân VNCH là một Tổ-chức khá tiến-bộ, phân-nhiệm rơ-rệt giữa Hành-chánh và Đặc-nhiệm, giữa Tiếp-Vận và Chiến-đấu. - Hải-Quân VNCH bao-gồm một Giang-Lực lớn vào bậc nhất trong lịch-sử thuỷ-chiến của nhân-loại. - Hải-Quân VNCH phát-minh và sử-dụng nhiều kiểu-mẫu chiến-đĩnh, chiến-thuyền khác nhau bằng tre, bằng gỗ và ferro-cement. - Một Tổ-chức có sự phối-hợp nhịp-nhàng giữa những chiến-cụ tối-tân như Khu-Trục-Hạm Tiền-Thám (Radar Picket Destroyer) và phương-tiện tối-cổ như Hải-Thuyền sử-dụng Buồm và Cây Xiếm có từ thời Hùng-Vương/Đông-Sơn/Hoà-B́nh (4,000 năm trước). - Một Hải-Quân bị bó tay trong thế-thủ nhưng đă từng thực-hiện thế-công vào hậu-tuyến địch. Hải-tuần là Đơn-vị đánh xa tận Hải-pḥng, nơi sào-huyệt của Quân-Đội Cộng-Sản Bắc-Việt. Từ chỗ này, chúng xuất-phát các tàu-thuyền xâm-nhập VNCH. - H́nh-thành Thuỷ-Quân Lục-Chiến, một binh-chủng Hải-Quân thuỷ-vận và không-vận, tác-chiến trên bộ đă lừng-danh như một Lực-Lương Tổng-Trừ-bị của Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hoà. Quân-Đội Cộng-Sản Bắc-Việt chỉ thực-sự có binh-chủng này sau năm 1975. - Một Tổ-chức kỷ-luật, đứng-vững cho đến giờ phút cuối-cùng của cuộc chiến. Dù phải ép-buộc tan-ră, người ta vẫn c̣n thấy những thành-viên cũ của HQVNCH tiếp-tục cuộc chiến chống Cộng-Sản xâm-lược ngay trong nhà tù, trai giam cải-tảo, tổ-chừc lực-lượng đối-kháng ở trong nước hay ngoài nước... HQVN cũng chính là những người dẫn-đạo, đưa con thuyền ra khơi, vượt trăm ngàn hải-lư đưa đồng-bào đến bến bờ tự-do. - Hải-Quân VNCH, ngoài việc bảo-vệ chính-nghĩa ngăn-chặn làn sóng đỏ, giữ-ǵn tự-do cho đất-nước chống nội-thù Việt-Cộng; đă một lần anh-dũng chống ngoại-xâm Trung-Cộng ở Hoàng-Sa. Trong khi đó, Cộng-đảng Hà-Nội lấy ǵ biện-minh khi ra công-hàm chấp-nhận chủ-quyền hải-phận của đàn anh Bắc-Kinh? - Sinh ra trong thời quốc-biến, hiến-dâng cuộc đời trai-trẻ537 trong những công-tác nặng-nhọc và hiểm-nguy, coi thường mạng sống của chính ḿnh. Bên cạnh một thiểu-số vô-trách-nhiệm trong hàng loạt nhân-vật lănh-đạo VNCH thời đó538, những nhà hàng-hải trong quân-phục này xứng-đáng có một chỗ đứng vinh-dự trong ḍng sử dân-tộc.
Phù-hiệu và Quân-phục SQ, HSQ và Đoàn-Viên Hải-QuânViệt-Nam Cộng-Hoà trước năm 1965. Tài-liệu sưu-tầm trên Internet về Quân-Phục Thế-giới539.
Niềm-tin trong Tương-lai gần, Cộng-Sản sẽ đi về Hư-không Ai cũng biết Đảng Cộng-Sản Việt-Nam đă lợi-dụng ḷng yêu nước của dân-tộc Việt-Nam, núp dưới chiêu bài kháng-chiến chống Thực-Dân, để rồi cuối-cùng chiếm lấy đất-nước, áp-đặt ư-thức-hệ vong-bản lên trên đầu trên cổ nhân-dân Việt-Nam, xích-hoá cả dân-tộc chúng ta. Tuy một số người dân thiếu kiến-thức và kinh-nghiệm Cộng-sản đă bị lừa dối; nhưng người chiến-sĩ Quốc-gia lại khác. Khi vững tin vào chính-nghĩa trường-tồn, người Quốc-gia cũng nh́n ra rơ-ràng chuyện phải đến: Cộng-Sản Việt-Nam cũng sẽ sụp-đổ như các nước đàn anh của họ là Liên-Sô và các quốc-gia Đông-Âu mà thôi. Ngày nay, tuy Đảng CSVN vẫn c̣n duy-tŕ những tài-liệu lịch-sử đă được xây-dựng trên sự dối-trá và lừa-bịp để ngôn-ngữ, nhưng với những nhận-định sâu-sắc, những câu hỏi sau đây đă được đặt ra: 1.- Các nước trong vùng Đông-Nam-Á như Ấn-Độ, Mă-Lai, Indonesia, Singapore, Thái-Lan, Phi-Luật-Tân... có theo “chủ-nghĩa Mác – Lênin bách-chiến bách-thắng” đâu? Tại sao họ đă sớm thu-hồi độc-lập vào cuối thập-niên 1940 và đă xây-dựng được một quốc-gia tiến-bộ và dân-chủ hơn Việt-Nam ngày nay nhiều? 2.- Đảng Cộng-Sản Việt-Nam theo “chủ-nghĩa Mác – Lênin bách-chiến bách-thắng” đă gây ra một cuộc chiến tàn-khốc trên đất-nước kéo dài 30 năm với những chết-chóc tang-thương và tạo ra một nước Việt-Nam nghèo nhất thế-giới. Vậy có thể theo con đường đó để xây-dựng một nước Việt-Nam "Dân giàu nước mạnh, xă-hội công-bằng, dân-chủ, văn-minh" không? 3.- Các Đảng Cộng-Sản từng một thời theo “chủ-nghĩa Mác – Lênin bách-chiến bách-thắng” như ở Liên-Sô và và các nước Đông-Âu, nay đă đi về đâu? 4.- Dưới sự lănh-đạo của Đảng Cộng-Sản, bao-lâu nữa Việt-Nam mới có dân-chủ và tiến-bộ như các nước trong vùng? Tại sao dân-tộc Việt-Nam phải chịu đau-khổ kéo dài như vậy và c̣n phải chịu đau-khổ bao-lâu nữa? Chúng ta phải ghi lại tất cả cái tốt cũng như cái xấu, cái sang-suốt cũng như cái sai-lầm, cái anh-hùng cũng như cái hèn-nhát... để thế-giới và những thế-hệ mai sau thấy rằng chúng ta đă ghi lại lịch-sử một cách trung-thực, c̣n Cộng-Sản chỉ viết phịa sử. Không cần phải tố-cáo, chửi-bới hay nguyền-rủa, chỉ ghi lại đúng sự thật lịch-sử, chúng ta cũng đă đánh-bại Cộng-Sản rồi. Chỉ ít lâu nữa chế-độ Cộng-Sản sẽ đi về hư-không và lịch-sử sẽ ghi-nhận rằng việc đưa chủ-nghĩa Cộng-Sản vào áp-dụng tại Việt là một sai-lầm lớn của Đảng CSVN.
Xin tŕnh “Chiếc Áo Vải” này để Dùng Tạm Cũng như những đổng-ngũ cũ một thời cùng chung lư-tưởng, người viết tin rằng lịch-sử rồi ra sẽ rất công-bằng: Cuốn sách này chưa thực-sự là Hải-Sử HQVNCH. Sách chỉ ghi-nhận sơ-lược những diễn-biến thay-đổi về tổ-chức của HQVNCH theo tính-cách biên-niên540. Nếu độc-giả muốn đi t́m các chi-tiết hay nhận-định về những hoạt-động khác của HQVN th́ không thể t́m thấy ở cuốn sách nhỏ-bé tuy nhiều h́nh-ảnh, nhưng ít chữ này được. Tuy vậy, chúng ta nên đọc lại một đoạn văn sau đây để “tự an-ủi” và cũng để thông-cảm cho “hoàn-cảnh” của Sử-Gia Trần-Trọng-Kim khi Ông viết cuốn sách “Việt-Nam Sử-Lược” như sau: “Độc-giả cũng nên biết cho rằng bộ sử (Việt-Nam Sử-Lược) này là bộ Sử-lược cốt ghi chép những chuyện trọng-yếu để tạm giúp cho những người hiếu-học có sẵn quyển sách mà xem cho tiện. C̣n như việc làm thành ra bộ sử thật là đích-đáng, kê-cứu và phê-b́nh rất tường-tận, th́ xin để dành cho những bậc tài-danh sau này sẽ ra công mà giúp cho việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hăy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu-xí nhưng nó có thể làm ta đỡ rét. Nghĩa là ta hăy làm thế nào cho những thiếu-niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự-tích nước-nhà, cho khỏi tủi quốc-hồn. Ấy là cái mục-đích của soạn-giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục-đích ấy mà có thể tới được th́ tưởng bộ sách này là bộ sách có ích vậy.” “Việt-Nam Sử-Lược” là một chuyện lớn không giống chuyện nhỏ hoàn-thành cuốn “Lược-Sử Tổ-Chức HQVNCH” này. Người viết chúng tôi hiểu như vậy và chỉ dám “mượn hoa kính Phật” xin phép được học theo gương Sử-gia họ Trần mà tŕnh cuốn Lược-Sử Tổ-Chức HQVNCH này cùng đồng-bào và các bạn cựu HQVNCH. Chúng ta hăy tạm-thời mặc “chiếc áo vải xấu-xí này cho đỡ rét” trong khi chờ-đợi “những bậc tài-danh sẽ ra công mà làm ra bộ sử đích-đáng, giúp cho việc học hải-sử sau này” vậy. Vũ-Hữu-San
Tài-liệu Tham-khảo
- Anh-Thy. Hoa Biển, Sài-G̣n. 1968. - Ban Biên-Tập (Hải-Sử) Phỏng-vấn Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn, tháng 8 năm 1999. Hải-Sử Tuyển-Tập. California, 2003. - Ban Hải-Sử, Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà. Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương, Bài Phỏng-Vấn Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh ngày Thứ Bảy 2/1/1993 thực-hiện tại Virginia, Hoa-Kỳ, tháng 9/1993, trang 13-30. - Bản Thông-tin Toà Đại-Sứ VNCH tại Hoa-Kỳ, Press and Information Office, Vol. 5, No.13, August 14, 1959 - Barrow, John. A Voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793. London. 1906. - Bartholomew, C. A. [Mud, Muscle, and Miracles: Marine Salvage in the United States Navy]. Washington: Naval Historical Center/Naval Sea Systems Command. 1990. - BDM Corporation. [A Study of Strategic Lessons Learned in Vietnam]. Vol. 6, [Conduct of the War]. Washington: BDM. 1981. - Bergsma, Herbert L. Chaplains with Marines in Vietnam, 1962 - 1971. Washington: History and Museums Div., Headquarters, U.S. Marine Corps. 1985. - Bernard Estival. La Marine française dans la guerre d'Indochine. Marines Édition. 1998. - Bộ TTM/QLVNCH, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5. 1972. - Bộ Tư-lệnh Hải-Quân VNCH, Khối Hành-Quân. Tài-liệu căn-bản & linh-tinh. - Bộ Tư-lệnh Hải-Quân, Lịch-sử Hải-Quân Nhân-dân Việt-Nam, Hà-Nội. 1980. - Bộ Tư-lệnh Hải-Quân VNCH, Pḥng 3. Tài-liệu linh-tinh. - Bộ Tư-lệnh Hải-Quân VNCH / Pḥng Tâm-Lư-Chiến. Lướt-Sóng, Số Đặc-biệt Phát-hành Ngày Hải-Quân. Sài-G̣n. 1974. - Bond, Ray, ed. The Vietnam War: The Illustrated History of the Conflict in Southeast Asia. New York: Crown Publishers. 1979. - Bosiljevac, T. L. [SEALS: UDT/SEAL Operations in Vietnam]. Boulder, CO: Paladin Press. 1990. - Bowman, John S., ed. [The Vietnam War, An Almanac]. New York: World Almanac Publishing. 1985. - Beckett, Brian. Illustrated History of Vietnam War. Blandford Press. N.Y. 1985. Trang 28. - Brush, Peter. The Vietnamese Marine Corps. Trong cuốn sách Vietnam Generation. 1996, các trang 73-77. - Bùi-Diễm. Gọng-Ḱm Lịch-sử. Nhà xuất-bản Phạm-Quang-Khai, Paris phát-hành. 2000. - Bùi-Hữu-Thư, Các Lực-lượng Hải-Quân tại Việt-Nam trong Thời-kỳ Sơ-Khai. Báo Lướt-Sóng số 7 –Xuân Kỷ-Tỵ. 1989. Trang 68-86. - Bùi-Hữu-Thư, Hải-Quân Việt-Nam trong Giai-đoạn Thử Lửa. Báo Lướt-Sóng số 15 – Huư-nhật Hưng-Đạo-Vương. 1991. Trang 120-142. - Bùi-Hữu-Thư, Huấn-luyện Hải-Quân và nhiều bài viết khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Bùi-Tiến-Hoàn, "Từ 1955 đến 1975, Hải-Quân Việt-Nam có được đặt đúng chỗ của nó không?" và nhiều bài viết khác. Một số bài đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Bùi-Tiến-Rũng. Shipyards in Viet Nam. The Vietnam Council on Foreign Relations, Republic of Vietnam, Saigon. 1970. - Bùi-Tín. Mây-Mù Thế-kỷ - Bùi-Tín. Paris 1999. Mặt Thật. 1994. - Cao-Thế-Dung, "Mấy Nét Sơ-khảo về Hải-Quân Việt-Nam". Báo Bạch-Đằng, Xuân Nhâm-Tuất 1982, Virginia, USA, trang 12-16. - Cao-Văn-Viên. The Final Collapse. Washington, D.C. 20402, USA. 1983. - Cao-Xuân-Huy. Tháng Ba Găy Súng (hồi-kư). Văn-Khoa, Hoa-Kỳ. 1986. - Casey, Michael, Clark Dougan, Samuel Lipsman, Jack Sweetman, and Stephen Weiss. Flags into Battle. The Vietnam Experience. Boston: Boston Publishing Co. 1987. - Chemillier-Gendreau, Monique. La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys. Paris, Editions L'Harmattan. 1996. - Chief of Information. [The Navy in Vietnam]. Washington: GPO. 1968. - Clark, Paul W. [Riverine Operations in the Delta]. CHECO Report 67, U.S. Air Force. 1968. - Cổ-Tấn Tinh-Châu. Cựu Đại-Tá TQLC. Tài-liệu và H́nh-ảnh. Không xuất-bản. - Coletta, Paolo E. United States Navy and Marine Corps Bases, Overseas. Westport, CT: Greenwood Press. 1985. - Croizat, Victor. The Brown Water Navy: The River and Coastal War in Indo-China and Vietnam, 1948 - 1972. Poole, UK: Blandford Press. 1984. - Croizat, Victor. Vietnamese Naval Forces: Origin of the Species. In UU. S. Naval Proceedings, February. 1973:48-58. - Croizat, Victor. Vietnam River Warfare 1945-1975. Blandford; 1986; ISBN 0-7137-1830-7. - Cutler, Thomas J. Brown Water, Black Berets: Coastal and Riverine Warfare in Vietnam. Annapolis: U.S. Naval Institute Press. 1988. - Dougan, Clark; Fulghum David, and the Editors of Boston Publishing Companỵ The Vietnam Experience - The Fall of the South, The Communist Offensive of 1975. Boston Publishing Company, Boston, MA. 1985. - Doyle, Edward and Samuel Lipsman. [America Takes Over, 1965- 1967]. The Vietnam Experience. Boston: Boston Publishing Co. 1982. - Đại-Dương. "Mộng Viễn-Du", Website http://www.NamDuongI.com của Đệ-Nhất Nam-Dương. 2000. - Đặng-Cao-Thăng. Hoạt-động trong Sông của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. - Đặng-Cao-Thăng. Soạn-thảo Hải-Sử và nhiều bài viết khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Đặng-Cao-Thăng. "Những Năm tại trường Hải-Quân Pháp" trong “Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975”, Điệp-Mỹ-Linh, Texas. 1990, trang 313-325. - Đặng-Văn-Học. Tiểu-Đoàn 4 Thuỷ-Quân Lục-Chiến, Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến. 1997. - Điệp-Mỹ-Linh. Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975. Texas. 1990. - Đệ-Nhị Thiên-Xứng, Đặc-san Cựu SQHQ khoá 19. San José Xuân Mậu-Dần. 1998. - Đinh-Minh-Hùng. Các bài Sử-Liệu: Hoạt-động Giang-lực sau 1965 và các bài khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Đ́nh-Kính. Người Của Biển. Hà Nội. 2000. - Đoàn-Thêm. 1945-1964. Việc Từng Ngày. In tại Hoa-Kỳ. Thập-niên 1980. - Đoàn-Thêm. Tháng Ngày Chưa Quên. In tại Hoa-Kỳ. Xuân Thu. Los Alamitos, California. 1989. - Đỗ-Kiểm and Julie Kane. Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War. Naval Institute Press, Annapolis, Maryland. 1998. - Đỗ-Thúc-Vịnh. Những Người Đang Tới. Xuất-bản lần thứ nhất, Tủ Sách Người Dân, Sài-G̣n. 1964. Xuất-bản lần thứ hai, Nhà Xuất-Bản Đỗ-Đỗ, Hoa-Kỳ. 1990. - Edelman, Bernard, ed. [Dear America: Letters Home From Vietnam]. New York: Pocket Books. 1985. - Estival, Bernard. L'Enseigne dans le Delta. Versailles: Les 7 Vents. 1989. - Fall, Bernard. Two Vietnams. 1963. - Forbes, John and Robert Williams. [The Illustrated History of the Vietnam War]. Vol. 8, [Riverine War]. New York: Bantam Books. 1987. - Francillon, René J. Tonkin Gulf Yacht Club: US Carrier Operations Off Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press. 1988. - Friedman, Norman. [U.S. Small Combatants: Including PT-Boats, Subchasers, and the Brown-Water Navy: An Illustrated Design History]. Annapolis: Naval Institute Press. 1987. - Fulton, William B. [Riverine Operations 1966-1969], a Vietnam Studies Monograph. Washington: Department of the Army/GPO. 1973. - Gregory, Barry. [Vietnam Coastal and Riverine Forces Handbook]. Northamptonshire, UK. 1988. - Hagan, Kenneth J. This People's Navy: The Making of American Sea Power. New York: The Free Press. 1991. - Hanks, Dorrell T. [Riverine Operations in the Delta: May 1968-June 1969]. CHECO Report 121, U.S. Air Force. 1969. - Helm, Glenn E. Surprised at Tet: U.S. Naval Forces in Vietnam, 1968. Trong Pull Together, the Newsletter of the Naval Historical Foundation and the Naval Historical Center, Vol.36, No.1 (Spring/Summer 1997). - Hồ-Chí-Minh, Di-chúc, Hà-Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1969. - Hooper, Edwin B. Mobility, Support, Endurance: A Story of Naval Operational Logistics in the Vietnam War, 1965 - 1968. Washington: Naval History Division. 1972. - Hooper, Edwin B. United States Naval Power in a Changing World. New York: Praeger. 1988. - Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division. 1976. - Hubbell, John G. POW: A Definitive History of the American Prisoner of War Experience in Vietnam, 1964 - 1973. New York: Readers Digest Press. 1976. - James F. Dunnigan and Albert A. Nofi. Dirty Little Secrets of the Vietnam War. St. Martin's Press, New York. 1999. - Jane's Fighting Ships, 1955, 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1961, 1962, 1963, 1964, 1965, 1966, 1967, 1968, 1969, 1970, 1971, 1972, 1973, 1974, 1975, 1976... (Jane’s Fighting Ships là cuốn Kỷ-Yếu của tất cả các Hải-Quân trên thế-giới được xuất-bản hàng năm bởi Jane's Yearbooks, Paulton House, Shepherdess Walk, London, N1 England.) - Johnson, Raymond W. [Postmark: Mekong Delta]. Westwood, N.J.: Fleming H. Revell Co. 1968. - Kiem Do, Julie Kane. Counterpart: A South Vietnamese Naval Officer's War. US Naval Institute, Press, Annapolis, Maryland. 1998. - Kobee, E.F., S. Erickson, L. Lange, L. Sockard, and B. Vajakos. [Small Craft Counterinsurgency Blockade]. White Oak, MD: Naval Ordnance Laboratory. 1972. - Koburger, Charles W. Jr.. The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54, Praeger, New York. 1991. - Kreh, William R. Citizen Sailors: The U.S. Naval Reserve in War and Peace. New York: David McKay. 1969. - Larzelere, Alex. The Coast Guard at War, Vietnam 1965-1975, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland. 1997. - Lawson, Robert L., ed. The History of US Naval Air Power. New York: The Military Press. 1985. - Lâm-Nguơn-Tánh "Trường Cao-đẳng Hải-chiến Hải-Quân Hoa-kỳ" trong Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Điệp-Mỹ-Linh, Texas. 1990, trang 299-311. - Lê-Bá-Thông sưu-tầm:.Phần biên-khảo về Tổ-chức Hải-Quân sau 1972, căn-cứ vào tài-liệu của Bộ Tư-lệnh Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà thuyết-tŕnh cho các Sĩ-Quan Tùy-viên Quân-Sự trước khi đáo-nhậm nhiệm-sở tại các toà Đại-Sứ Việt-Nam Cộng-Hoà tại ngoại-quốc. - Lê-Quán. Lịch-sử Người-Nhái.Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. Trong Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương, thực-hiện bởi Ban Hải-Sử, Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà. Virginia, Hoa-Kỳ, tháng 9/1993, trang 32-35. - Levinson, Jeffrey L. Alpha Strike Vietnam: The Navy's Air War, 1964 to 1973. Novato, CA: Presidio Press. 1989. - Lịch-sử Hải-Quân Nhân-Dân Việt-Nam". Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân, Hà-Nội. 1980. (Ban soạn-thảo: Phạm-Hồng-Thụy, Phạm-Hồng-Đời và Vũ-Mạnh-Đoan). - Lịch-sử Xí Nghiệp Liên Hợp Ba-Son (1863-1998). Nhà Xuất-bản Quân-đội Nhân-Dân. Hà-Nội. 1998. - Marc Leepson with Helen Hannaford (edited). Dictionary of the VietNam War. Webster’s New World, New York. 1999. - Marolda, Edward J. [By Sea, Air, and Land: An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia]. Washington: Naval Historical Center. 1992. - Marolda, Edward J. The Illustrated History of the Vietnam War. Vol. 4, Carrier Operations. New York: Bantam Books. 1987. - Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 2, From Military Assistance to Combat, 1959 - 1965. Washington: Naval Historical Center. 1986. - Marolda, Edward J., and G. Wesley Pryce III. A Short History of the United States Navy and the Southeast Asian Conflict, 1950 - 1975. Washington: Naval Historical Center. 1984. - McClintock, Robert. River War in Indochina, U.S. Naval Institute Proceedings, December. 1954. - McMaster, H. R. Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, The Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam. USA. 1997. - McNamara, Robert S. with Brian VanDeMark. In Retrospect. The Tragedy and Lessons of Vietnam. Times Books. Random House, U.S.A. 1995. - Melson, Charles D. and Arnold, Curtis G. U.S. Marines in Vietnam, The War That Would not End 1971-1973. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C. 1991. - Mersky, Peter, and Norman Polmar. The Naval Air War in Vietnam: 1965-1975. Annapolis: Nautical and Aviation Publishing Co. of America. 1981. - Mesko, Jim. [Riverine: A Pictorial History of the Brown Water War in Vietnam]. Carrollton, TX: Squadron/Signal. 1985. - Michel, Jacque., Capitaine de Vaisseau. La Marine française en Indochine (1936 - 1956) Tome 2:Août 1945 - Décembre 1946. Paris. 1973 (2eme Tirage en 1992). - Michel, Jacque., Capitaine de Vaisseau. La Marine française en Indochine (1939 - 1956) Tome 1 (Septembre 1939 - Août 1945). Paris, Imprimerie de la Marine. 1972, 1991 - Miller, Robert Hopkins. The United States and Vietnam: 1787 - 1941. Washington: National Defense University Press. 1990. - Moeser, Robert D. [U.S. Navy: Vietnam]. Annapolis: Naval Institute Press. 1969. - Moore, Withers M. Navy Chaplains in Vietnam, 1954 - 1964. Washington: Chief of Chaplains, Department of the Navy. 1968. - Moore, Withers M., Herbert L. Bergsma, Timothy J. Demy. Chaplains with U.S. Naval Units in Vietnam, 1954 - 1975. Washington: History Branch, Office of the Chief of Chaplains. 1985. - Morrocco, John. Rain of Fire: Air War, 1969 - 1973. The Vietnam Experience. Boston: Boston Publishing Co. 1985. - Morrocco, John. Thunder From Above: Air War, 1941 - 1968. The Vietnam Experience. Boston: Boston Publishing Co. 1984. - Myer, Charles R. [Division-Level Communications, 1962-1973], a Vietnam Studies Monograph. Washington: Department of the Army/GPO, 1982. [Riverine Warfare, the U.S Navy's Operations on Inland Waterways]. Washington: GPO. 1968 - Naval Division, TRIM, Study, "Naval Forces of Vietnam" 10 Dec. 1955. - Naval Section, TRIM, Monthly Report. No. 4 of 1 June. 1955. - Nelson, Carl. The Advisor (Cố-Vấn). Turner Publishing Company, Kentucky. 1999. - Ngô-Đ́nh-Châu. Những Ngày Cuối-cùng của Đệ-Nhất Cộng-Hoà Việt-Nam. NHà Xuất-Bản Holly Graphics. Virginia 1999. - Ngô-Quang-Trưởng. Tại sao tôi bỏ Quân-Đoàn I. Báo Đoàn-Kết. 1999. - Nguyễn-Cao-Kỳ. How we lost the Vietnam War. Stein And Day Paperback Edition. New York. 1984. - Nguyễn-Hữu-Chí tức Hữu-Phương. Neo Tuổi Vàng. Sài-G̣n. 1967. - Nguyễn-Khắc-Ngữ. Những Ngày Cuối-cùng Của Việt-Nam Cộng-Hoà. Nhóm Nghiên-Cứu Sử-Địa. Canada. 1979. - Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. Sự Đào-luyện Sĩ-Quan Đoàn-Viên. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. Hồi-kư lănh tàu. Trong Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Điệp-Mỹ-Linh, Texas. 1990, trang 327-342. - Nguyễn-Ngọc-Quỳnh, Chuyến Bắc-Tiến đầu-tiên. California, Xuân Nhâm Ngọ 2002. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. Vấn-đề Hải-phận. Trong Lướt-Sóng số đặc-biệt, BTL/HQ, Sài-G̣n, phát-hành ngày Hải-Quân 1974.-Trang 12-23. - Nguyễn-Nhă. Một Thiên-tài Quân-sự. Trong Một Nhóm Học-giả. Vài Sử-Liệu về Bắc-B́nh-Vương Nguyễn-Huệ. Đại-Nam Xuất-bản. California. 1992. - Nguyễn-Tấn-Đơn Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Nguyễn-Tấn-Đơn. Tài-liệu VNCH & Hải-Quân. Sydney. 2002. - Nguyễn-Tư-Đương. Đường ṃn trên biển. Hà-Nội. 2002. - Nguyễn-Văn-Hiền. Hạ-tầng Cơ-sở Hải-Quân: các Đoàn-Viên. 2002. Tài-liệu riêng, không xuất-bản. - Nguyễn-Văn-Hoa. Hồi-Ức Khoá 7 Sĩ-Quan Hải-Quân. 2003. Tài-liệu riêng, không xuất-bản. - Nguyễn-Văn-Lịch. Bài Tiếp-Vận Hải-Quân Việt-Nam. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Nguyễn-Văn-Ơn. Liên-Đoàn 5 Tuần-Thám (Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.5). Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Nguyễn-Việt, Vũ-Minh-Giang, Nguyễn-Mạnh-Hùng. Quân Thuỷ Trong Lịch-Sử Chống Ngoại-Xâm, Nhà Xuất-bản Quân-đội Nhân-Dân, Hà-Nội. 1983. - Nhà Xuất-Bản Quân-Đội Nhân-Dân, Lịch-sử Hải-Quân Nhân-Dân Việt-Nam, Hà-Nội. 1985. - Nhà Xuất-Bản Quân-Đội Nhân-Dân. Lịch-sử nghệ thuật chiến-dịch Việt-Nam trong 30 năm chiến-tranh chống Pháp, chống Mỹ (1945-1975) (History of Vietnamese Operational Art during the 30 year war against France, against America, 1945-1975), vol. 2, Trong kháng-chiến chống Mỹ (1955-1975) (During the resistance war against America, 1955-1975). Hà-Nội. 1994. - Nichols, John B., and Barrett Tillman. On Yankee Station: The Naval Air War Over Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press. 1987. - Ortoli, P. La Marine Française en Indochine. La Revue Maritime, Décembre 1952. - Phạm-Kim-Vinh. Cái Chết Của Việt-Nam Cộng-Hoà, Những Trận Đánh Cuối-cùng. Nhà Xuất-bản Xuân-Thu. California. 1988. - Phạm-Phong-Dinh. Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà Trong Cơn Băo Lửa, Tủ Sách Vinh Danh. Canada. 1998. - Phạm-Văn-Chung. Binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam. Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến. 1997. - Phạm-Văn-Chung. Cờ Bay Trên Cổ-Thành Quảng-Trị. Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến. 1997. - Phạm-Văn-Sơn Chủ-biên. Lê-Văn-Dương soạn-thảo. Nguyễn-Ngọc-Hạnh h́nh-ảnh. Cuộc Tổng-Công-Kích Tổng-Khởi-Nghĩa của Việt-Cộng, Mậu-Thân 1968, Bộ Tổng-Tham-Mưu, Trung-tâm Ấn-Loát Ấn-phẩm, Sài-G̣n. 1968. - Phạm-Văn-Sơn. Việt-Sử Toàn-thư, Sài-G̣n. 1960. - Phan-Lạc-Tiếp. Một Ngày Với Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Phan-Lạc-Tiếp. Giang-Đoàn Hộ-tống và nhiều bài viết khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Phan-Văn-Cổn. Giang-Lực Những Ngày Tiên-khởi. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. Pissardy, Jean-Pierre; Flottilles Fluviales et Dinassaut. Militaria Magazine No.17; Feb. 1987; Histoire et Collections, Paris. - Reuters, News From Hà-Nội September 24, 1998: Đảng CS chỉ-huy quân-đội. - Rielly, Robin L. Mighty Midget At War: The Saga of the Lcs(L), Ships from Iwo Jima to Vietnam. PSI Research / The Oasis Press, May 2000. - Ross, David. An Aerial reconnaissance photo. Taken October 1972. - Rozier, William B. [To Battle a Dragon]. New York: Vantage Press. 1971. - Ryan, Paul B. First Line of Defense: The U.S. Navy Since 1945. Stanford, CA: Hoover Institution Press. 1981. - Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press. 1992. - Sharp, Ulysses S. Grant. Strategy for Defeat: Vietnam in Retrospect. San Rafael, CA: Presidio Press. 1978. - Stanton, Shelby L. [Green Berets at War: U.S. Army Special Forces in Southeast Asia, 1956-1975]. Novato, CA: Presidio. 1985. - Stephan, Charles R. Trawler! Institute's Proceedings magazine in September 1968. - Summers, Harry G., Jr. Vietnam War Almanac. New York: Facts on File Publications. 1985. - T. Walter Wallbank, Man's Story, World History in Its Geographic Setting, Scott, Foresman &Co, USA. 1961. - T. Walter Wallbank, Alastair M. Taylor; Civilization, Past and Present, Third Edition; Nels M. Bailkey; Illinois. 1967. - Tạ-Chí Đại-Trường. Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam từ 1771 đến 1802, Văn-Sử Học, Sài-G̣n. 1973. - Tensor Industries, Inc. Operation End Sweep: A History of Minesweeping Operations in North Vietnam, 8 May 1972 - 28 July 1973. Edited by Edward J. Marolda. Washington: Naval Historical Center. 1993. - Thái-Văn-A. Hạm-Đội Hải-Quân Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà - Hải-Chiến Hoàng-Sa. Bảo-Biển Đệ-Nhị Hải-Sư. Melbourne, Australia. 1990. - Tidman, Keith R. [The Operations Evaluation Group: A History of Naval Operations Analysis]. Annapolis: Naval Institute Press. 1984. - Tôn-Thất-Soạn. Cuộc hành-quân đổ-bộ Deck House V/Sóng Thần 1/67. Trong cuốn sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến. 1997. - Trần-Đỗ-Cẩm. Sở Pḥng Vệ Duyên-Hải và nhiều bài viết khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Trần-Ngọc-Nhuận. Đời Quân-Ngũ, Kư-Ức Niên-Dư Trần-Ngọc-Nhuận. NXB Xuân-Thu, California. 1992. - Trần-Nguơn-Phiêu. Quân-Y Hải-Quân Việt-Nam. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. - Trần-Trọng-Kim. Việt-Nam Sử-Lược, Quyển 1 & 2. Bộ Giáo-Dục, Trung-tâm Học-liệu, Sài-G̣n 1971. - Trần-Trọng-Kim. Một Cơn Gió-bụi. 1949. - Trần-Trung-Nghĩa (TTK Tổng-Hội HQHH/VNCH). Gặp-gỡ Niên-trưởng Nguyễn-Văn-Kinh ngày 28/7/98. Tài-liệu Tổng-Hội. - Trần-Văn-Hải. Bài giới-thiệu sách "Gọng-Ḱm Lịch-sử" của Bùi-Diễm tại Washington DC, ngày 17 tháng 12 năm 2000. - Tran Xuan Dung, ed., History of the Vietnamese Marine Corps, Army of the Republic of Vietnam/Chien su Thuy quan luc chien, Quan luc Viet nam Cong hoa. 1997. Bilingual volume, with Vietnamese and English text. - Tregaskis, Richard. Southeast Asia: Building the Bases: The History of Construction in Southeast Asia. Washington: Naval Facilities Engineering Command. 1975. - Tuley, G. H. and James Webb. The Easter Offensive: Vietnam. 1972 (Blue Jacket Books). Paperback - United States Naval Institute. October 1995. - Tulich, Eugene N. The United States Coast Guard in South East Asia During the Vietnam Conflict. Washington: Public Affairs Division, U.S. Coast Guard. 1975. - Uhlig, Frank Jr., ed. Vietnam: The Naval Story. Annapolis: Naval Institute Press. 1986. - U.S. Commander in Chief, Pacific and Commander U.S. Military Assistance Command, Vietnam. Report on the War in Vietnam as of 30 June 1968. Washington: GPO. 1969. - U.S. Department of Defense. United States Vietnam Relations, 1945 - 1967. 12 vols. Washington: GPO. 1971. - U.S. Naval History Division. Dictionary of American Naval Fighting Ships. 8 vols. Washington: Naval History Division. 1959. - U.S. Naval History Division. [Riverine Warfare, The U.S. Navy's Operations on Inland Waterways]. Washington: GPO. 1968. - U.S. Naval History Division. [Riverine Warfare: Vietnam]. Washington: GPO. 1972. - U.S. Naval Institute [Proceedings], nhiều số khác nhau viết về HQVNCH. - Vanuxem, Paul Fidele Felicien "La Mort Du Vietnam”. Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa. 2009. - Văn-Tân. Vai-tṛ của Thuỷ-quân Việt-Nam trong lịch-sử dân-tộc (Từ Thời-đại Hùng-Vương đến Thế-kỷ XIX), trong "Nghiên-cứu Sử-học số 5", Hà-Nội, tháng 9, 1977. - Vi-Vi Vơ-Hùng-Kiệt, Tem Bưu-Chính. http://www.freewebs.com/viviartist/index.htm. 2007. - Vietnam Bulletin No.25, A Weekly Publication of the Embassy of Vietnam, Washington, D.C. 3-1970. - Vơ-Nguyên-Giáp. Tổng-hành-dinh trong mùa Xuân toàn-thắng. Nhà Xuất-bản Chính-trị quốc-gia. 1974. - Vơ-Văn-Bảy. Đời Thuỷ-Thủ. Vơ-Văn-Bảy. Xuất-bản 1968 tại Sài-G̣n. - Vũ-Quốc-Công. Cơ-Xưởng-Hạm Vĩnh-Long, Những Ngày Cuối Trên Biển-Đông. - Vũ-Quốc-Công. Tổ-Chức Lực-Lượng Tuần-Thám. Nhiều bài viết khác của Ông có thể t́m thấy trên các mạng-lưới điện-toán toàn-cầu. - Vũ-Thư-Hiên, hội-viên Hội Nhà Văn ở trong nước, "Đêm Giữa Ban Ngày". Nhà Xuất-bản Văn-nghệ (Hoa-Kỳ) tháng 4-97. - Vương-Hồng-Anh tổng-hợp tài-liệu: Hải-pháo Việt-Mỹ và các trận hoả-công ở Vùng 1 Duyên-Hải, Việt-Báo Kinh-tế, California, 2/9/1999. - Westmoreland, William C. A Soldier Reports, Dell Publishing Co.. Inc. New York. 1976. - Wilcox, Robert K. Scream of Eagles: The Creation of Top Gun and the Vietnam War. Annapolis: Naval Institute Press. 1990. - Whitlow, Robert H. U.S. Marines in Vietnam, The Advisory & Combat Assistance Era 1954-1964. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C. 1977. - Wirtz, James. The Tet Offensive: Intelligence Failure in War. Ithaca. 1992. - Young, Darryl. The Element of Surprise: Navy SEALs in Vietnam. New York: Ivy Books. 1990. - Zumwalt, Elmo R., Jr. On Watch: A Memoir. New York: Quadrangle Press/The New York Times Book Co. 1976. - Zumwalt, Elmo R., Jr., Elmo Zumwalt III, and John Pekkanen. My Father, My Son. New York: Macmillan Publishing Co. 1986.
Phụ-Bản
Phần I - Lược-Sử Tổ-chức Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
1- Tên các Viên-Chức Dân-Sự và Quân-Sự Việt-Nam liên-hệ đến Hoạt-động của HQVNCH. 2- Những Chữ viết tắt thường dùng trong các Văn-thư Tổ-chức. 3- Đặc-tính, H́nh-ảnh Chiến-hạm, Chiến-đĩnh. 4- Các Chiến-đĩnh Giang-Lực tại Việt-Nam 1946-1953. 5- Văn-bằng Hải-Quân và Liên-Quân. 6- Huy-Hiệu các Đơn-Vị Hải-Quân và Liên-Quân. 7- Quân-phục, Cấp-Bậc, Phù-Hiệu Chuyên-Nghiệp HQVNCH. 8- Huân-Chương Và Huy-Chương QLVNCH & Hải-Quân. 9- Bối-cảnh khai-sinh QĐVN (Bài viết của BTTM/Pḥng 5 /Quân-Sử). 10- Hải-Quân Việt-Nam C̣n Mất thế nào ? (Bài nói chuyện của Tác-giả về Hải-Sử). 11- Danh-bạ một số Quân-nhân Hải-Quân VNCH.
Phụ-Bản 1
Viên-Chức Dân-Sự và Quân-Sự Việt-Nam liên-hệ đến Hoạt-động của HQVNCH
Quốc-Trưởng, Chủ-tịch Hôi-đồng Lănh-đạo, Tổng-Thống 14-06-1949 - 30-04-1955 Bảo-Đại 30-04-1955 - 26-10-1955 Ngô-Đ́nh-Diệm (quyền Tổng-Thống) 26-10-1955 - 02-10-1963 Ngô-Đ́nh-Diệm 02-10-1963 - 30-01-1964 Dương-Văn-Minh 30-01-1964 - 08-02-1964 Nguyễn-Khánh 08-02-1964 - 16-03-1964 Dương-Văn-Minh 16-03-1964 - 27-08-1964 Nguyễn-Khánh 27-08-1964 - 08-09-1964 Tam-Đầu-Chế: - Dương-Văn-Minh - Nguyễn-Khánh - Trần-Thiện-Khiêm 08-09-1964 - 26-10-1964 Dương-Văn-Minh 26-10-1964 - 14-06-1965 Phan-Khắc-Sửu 14-06-1965 - 21-04-1975 Nguyễn-Văn-Thiệu 21-04-1975 - 28-04-1975 Trần-Văn-Hương 28-04-1975 - 30-04-1975 Dương-Văn-Minh
Thủ-Tướng, Quyền Thủ-Tướng 21-01-1950 - 26-04-1950 Nguyễn-Văn-Long 27-04-1950 - 06-06-1952 Trần-Văn-Hữu 06-06-1952 - 17-12-1953 Nguyễn-Văn-Tâm 12-01-1954 - 16-06-1954 Bửu-Lộc 16-06-1954 - 26-06-1954 Phan-Huy-Quát 26-06-1954 - 26-10-1955 Ngô-Đ́nh-Diệm 04-10-1963 - 30-01-1964 Nguyễn-Ngọc-Thơ 08-02-1964 - 29-08-1964 Nguyễn-Khánh 29-08-1964 - 03-09-1964 Nguyễn-Xuân-Oánh 03-09-1964 - 04-10-1964 Nguyễn-Khánh 04-10-1964 - 28-01-1965 Trần-Văn-Hương 28-01-1965 - 15-02-1965 Nguyễn-Xuân-Oánh 16-02-1965 - 08-06-1965 Phan-Huy-Quát 19-06-1965 - 31-10-1967 Nguyễn-Cao-Kỳ 31-10-1967 - 17-05-1968 Nguyễn-Văn-Lộc 28-05-1968 - 01-09-1969 Trần-Văn-Hương 01-09-1969 - 04-04-1975 Trần-Thiện-Khiêm 04-04-1975 - 24-04-1975 Nguyễn-Bá-Cẩn 28-04-1975 - 30-04-1975 Vũ-Văn-Mẫu
Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng 541
Khi Ông Ngô-Đ́nh-Diệm Thủ-Tướng, kiêm chức Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng Phụ-Tá Quốc-Pḥng lần-lượt có các Ông: - Trần-Trung-Dung (Sắc-Luật Chinh-Phủ số 145, ngày 10-5-1955). - Nguyễn-Đ́nh-Thuần Ngày 28 tháng 5, 1961, ông Diệm cải-tổ chinh-phủ mới (Sắc-luật 124, Tổng-Thống-Phủ) Ông Nguyễn-Đ́nh-Thuần Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng Sau 1-11-1963 ít ngày, Trung-Tướng Trần-Thiện-Khiêm: Ủy-Viên Quân-Sự trong Hội-Đồng Quân-Nhân Cách-Mạng. Ngày 4 tháng 11, 1963, Trung-Tướng Trần-Văn-Đôn là Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng trong chánh-phủ lâm-thời. Ngày 7 tháng 2, 1964, Tướng Nguyễn-Khánh "chỉnh-lư," Tướng Trần-Thiện-Khiêm trở lại chức-vụ Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng. Ngày 4 tháng 11, 1964, trong Chính-phủ Trần-Văn-Hương, ông Hương kiêm Tổng-Trưởng Quân-Lực (Quốc-Pḥng). Ngày 16 tháng 2, 1965, trong Chánh-phủ Phan-Huy-Quát, Trung-Tướng Nguyễn-Văn-Thiệu là Tổng-Trưởng Quân-Lực. Ngày 19 tháng 6, 1965 (sau này, gọi là ngày Quân-Lực VNCH), trong Nội-các Nguyễn-Cao-Kỳ, Trung-Tướng Nguyễn-Hữu-Có là Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng. Trong Nội-các đầu-tiên của nền Đệ Nhị Cộng-Hoà ngày 9 tháng 11, 1967, Trung-Tướng Nguyễn-Văn-Vỹ là Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng (Nội-các của Thủ-tướng Nguyễn-Văn-Lộc). Ngày 24 tháng 5, 1968, Ông Trần-Văn-Hương thay Ông Nguyễn-Văn-Lộc làm Thủ-Tướng, Trung-Tướng Nguyễn-Văn-Vỹ, vẫn giữ Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng, thêm chức nữa là Tổng-Trưởng Bộ Cựu-Chiến-Binh. Ngày 3 tháng 9, 1969, Ông Trần-Thiện-Khiêm làm Thủ-Tướng, Ông Nguyễn-Văn-Vỹ vẫn là Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng cho đến khi ông Vỹ bị ra toà về vụ Quỹ Tiết-kiệm Quân-đội vào năm 1971. Ông Khiêm kiêm-nhiệm chức Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng từ đó. Khi ông Khiêm từ-chức (1975), ông Tôn-Thất-Chước giữ quyền Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng. Khi Cựu Trung-Tướng Trần-Văn-Đôn về làm Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng, Ông Tôn-Thất-Chước là Phụ-Tá Tổng-Trưởng Quốc-Pḥng. Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam
- HQ Thiếu-Tá Lê-Quang-Mỹ từ 20-8-1955 đến 11-1957 (thăng-cấp HQ Trung-Tá, rồi HQ Đại-Tá trong chức-vụ). - HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn từ 11-1957 đến 6-8-1959 (thăng-cấp HQ Trung-Tá khi được bổ-nhiệm). - HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền từ 6-8-1959 đến 1-11-1963 (thăng-cấp HQ Trung-Tá khi được bổ-nhiệm, thăng-cấp HQ Đại-Tá trong chức-vụ). - HQ Đại-Tá Chung-Tấn-Cang từ 11-1963 đến 4-1965 (thăng-cấp HQ Đại-Tá khi được bổ-nhiệm; thăng-cấp Phó-Đề-Đốc và Đề-Đốc trong chức-vụ). - HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn từ 26-4-1965 đến tháng 9-1966. - Trung-Tướng Cao-Văn-Viên từ 9-1966 đến tháng 10-1966. - HQ Đại-Tá Trần-Văn-Chơn từ 1-11-1966 đến tháng 1-11-1974 (thăng-cấp HQ Đại-Tá khi được bổ-nhiệm; thăng-cấp Phó-Đề-Đốc và Đề-Đốc trong chức-vụ). - Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh từ tháng 1-11-1974 đến tháng 3-1975. - Phó-Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang từ tháng 3-1975 đến 30-4-1975. Chỉ-Huy-Trưởng và Tư-Lệnh TQLC Việt-Nam Thiếu-Tá Lê-Quang-Trọng từ 01-10-1954 đến 17-06-1956 Thiếu-Tá Phạm-Văn-Liễu từ 18-01-1956 đến 22-08- 1956 Đại-Úy Bùi-Phó-Chí, XLTV từ 23-08-1956 đến 01-10-1956 Thiếu-Tá Lê-Nhữ-Hùng từ 02-10-1956 đến 23-05-1960 Thiếu-Tá Lê-Nguyên-Khang từ 24-05-1960 đến 15-12-1963 (thăng-cấp Trung-Tá 18-06-1962) Trung-Tá Nguyễn-Bá-Liên từ 16-12-1963 đến tháng 02-1964 Đại-Tá Lê-Nguyên-Khang từ tháng 02-1964 đến năm 1972 (thăng-cấp Chuẩn-Tướng 11-08-1964, Thiếu-Tướng 15-10-1964, Trung-Tướng tháng 11-1967). Chuẩn-Tướng Bùi-Thế-Lân từ năm 1972 đến 30-04 năm 1975 (thăng-cấp Thiếu-Tướng trong chức-vụ).
SQ/HQHK Chỉ-huy tại Việt-Nam - U.S. Naval Command in Republic Of Vietnam
Trưởng Pḥng Hải-Quân MAAG tại Việt-Nam - Chiefs of the Navy Section, Military Assistance Advisory Group, Vietnam Commander John B. Howland Tháng 8-1950 - 12-1950 Commander James B. Cannon Tháng 12-1950 - 2-1954 Captain Samuel Pattie Tháng 2-1954 Captain James D. Collett Tháng 3-1954 - 5-1955 Captain Harry E. Day Tháng 5-1955 - 4-1956 Captain Kenneth S. Shook Tháng 4-1956 - 3-1957 Captain Theodore T. Miller Tháng 3-1957 - 1-1958 Captain John J. Flachsenhar Tháng 1-1958 - 7-1960 Captain Henry M. Easterling Tháng 7-1960 - 12-1961 Captain Joseph B. Drachnik Tháng 12-1961 - 1-1964 Captain William H. Hardcastle Tháng 1-1964 - 5-1964
Cố-Vấn-Trưởng cạnh BTL/HQVN - Chiefs of the Naval Advisory Group, Vietnam Captain William H. Hardcastle 15-05-1964 - 10-05-1965 Rear Admiral Norvell G. Ward 10-05-1965 - 01-04-1966
Cố-Vấn-Trưởng kiêm Tư-Lệnh HQHK tại Việt-Nam - Chiefs of the Naval Advisory Group/Commanders Naval Forces, Vietnam Rear Admiral Norvell G. Ward 01-04-1966 - 27-04-1967 Rear Admiral Kenneth L. Veth 27-04-1967 - 30-09-1968 Vice Admiral Elmo R. Zumwalt, Jr. 30-09-1968 - 14-05-1970 Vice Admiral Jerome H. King 14-05-1970 - 05-04-1971 Rear Admiral Robert S. Salzer 05-04-1971 - 30-06-1972 Rear Admiral Arthur W. Price, Jr. 30-06-1972 - 25-08-1972 Rear Admiral James B. Wilson 25-08-1972 - 29-03-1973
Phụ-Bản 2 Những Chữ viết tắt thường dùng trong các Văn-thư Tổ-chức. Glossary of Abbreviations and Terms
ACTOV Accelerated Turnover to the Vietnamese, Chương-tŕnh chuyển-giao chiến-cụ Hoa-Kỳ cho Việt-Nam ACTOVLOG Accelerated Turnover to the Vietnamese, Logistics: Chương-tŕnh chuyển-giao, ngành tiếp-vận ACTOVRAD Accelerated Turnover to the Vietnamese, Radar Stations: Chương-tŕnh chuyển-giao hệ-thống Radar Duyên-Pḥng AFDL Small Auxiliary Floating Drydock (non-self-propelled), Ụ nổi loại nhỏ AKL Light Cargo Ship, Lương-Vận-Hạm APL Barracks Craft (non-self-propelled), Tạm-Trú-Hạm APSS Transport Submarine, Tiềm-Thuỷ-Đĩnh Chuyển-Vận AR Repair Ship, Cơ-Xưởng-Hạm ARL Auxiliary (Landing Craft) Repair Ship, Cơ-Xưởng-Hạm ARVN Army of Republic of Vietnam, Lục-Quân VNCH ASPB Assault Support Patrol Boat, Trợ-Chiến-Đĩnh ASW Antisubmarine Warfare, Chống Tiềm-Thuỷ-Đĩnh ATC Armored Transport Craft, Quân-Vận-Đĩnh Thuỷ-Bộ ATF Fleet Ocean Tug, Tàu ḍng Đại-dương AV Seaplane Tender, Thuỷ-phi-cơ Mẫu-Hạm BB Bộ-Binh, một binh-chủng của Lục-Quân BOM Bulletin Officiel de la Marine - Tập Hồ-sơ Điều-hành Căn-bản (Hải-Quân Pháp) BTL/HhQ/LĐ Biển Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân / Hành-Quân Lưu-Động Biển BTL/HhQ/LĐ Sông Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân / Hành-Quân Lưu-Động Sông BTL/HQ Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân BTTM/QLVNCH Bộ Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà CCHQ Căn-Cứ Hải-Quân CCYTTV Căn-Cứ Yểm-trợ Tiếp-Vận CEFEO Corps Expéditionnaire Français d'Extrême-Orient - Lực-lượng Pháp tại Viễn-Đông CGUB Coast Guard Utility Boat, Chiến-đĩnh Tuần-duyên CHT Chỉ-Huy-Trưởng CHP Chỉ-Huy-Phó CIA Central Intelligence Agency, Cơ-quan T́nh-báo Hoa-Kỳ CIC Combat Information Center - Trung-Tâm Chiến-Báo CINCPAC Commander in Chief, Pacific - Tư-Lệnh Lực-Lượng Thái-B́nh-Dương CINCPACAF Commander in Chief, Pacific Air Force - Tư-Lệnh Lực-Lượng Không-Quân Thái-B́nh-Dương CINCPACFLT Commander in Chief, U.S. Pacific Fleet - Tư-Lệnh Hạm-Đội Thái-B́nh-Dương CJ Command Junk, Ghe Chủ-lực CNO Chief of Naval Operations, Tư-Lệnh Hải-Quân (HQHK) COMNAVFORV Commander U.S. Naval Forces, Vietnam - Tư-Lệnh HQHK tại Việt-Nam COMUSMACV Commander U.S. Military Assistance Command, Vietnam - Tư-Lệnh Phái-Bộ Viện-trợ HK tại Việt-Nam CQ Cộng-Quân CSBV Cộng-Sản Bắc-Việt CSC Coastal Surveillance Center - Trung-Tâm Kiểm-Soát Duyên-Hải CSQG Cảnh-Sát Quốc-Gia CSS Coastal Security Service, Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải CTE Commander Task Element, CHT CĐĐN CTF Commander Task Force, CHT LLĐN CTG Commander Task Group, CHT LĐĐN CTU Commander Task Unit, CHT PĐĐN DAO U.S. Defense Attaché Office, Văn-pḥng Tùy-Viên Quân-Sự Hoa-Kỳ DĐ Duyên-Đoàn (ZĐ) DER Radar Picket Escort Ship, Khu-Trục-Hạm Tiền-Thám DINA Chữ viết ngắn-gọn của DINASSAUT (hay DINASSAU) DINASSAUT Division Navale Assaut, Hải-Đoàn Xung-Pḥng của HQ Pháp DK Duyên-Khu (ZK) DMZ Demilitarized Zone, Vùng Phi Quân-Sự (Vĩ-tuyến 17) DVH Dương-Vận-Hạm ĐKB Đài Kiểm-báo EOD Explosive Ordance Disposal, Toán Tháo-gỡ Đạn-Dược FOM hay STCAN/FOM Services Techniques des Constructions et Armes Navales France Outre Mer (French-designed River Patrol Craft) Tiểu-Giáp-Đĩnh (đôi khi c̣n gọi là Truy-Kích-Đĩnh) GA Garde Auxiliaire, Vệ-Binh Quốc-gia GAEF Garde Auxiliaire Escadrille Fluviale, Liên-Đoàn Tuần-Giang thuộc Vệ-Binh quốc-gia (SQ Hải-Quân Pháp chỉ-huy) GC Giang-Cảnh GĐHT Giang-Đoàn Hộ-Tống GĐNC Giang-Đoàn Ngăn-Chặn GĐXP Giang-Đoàn Xung-Phong GĐTL Giang-Đoàn Trục-Lôi GĐTT Giang-Đoàn Tuần-Thám GV Giang-Vận (Đoàn) GVH Giang-Vận-Hạm HĐDP Hải-Đội Duyên-Pḥng HĐĐN Hải-Đoàn Đặc-Nhiệm HĐXP Hải-Đoàn Xung-Phong HP Hạm-Phó HhQ Hành-Quân HQ Hải-Quân HQCX Hải-quân Công-Xưởng HQND Hải-Quân Nhân-Dân hay Hải-Quân Cộng-Sản Việt-Nam HQVN Hải-Quân Việt-Nam HQVNCH Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà HSAS Headquarters Support Activity, Saigon, BCH Tiếp-Vận HQHK tại Sài-G̣n HT Hạm-Trưởng HTH Hộ-Tống-Hạm HVH Hải-Vận-Hạm IFS Inshore Fire Support Ship, Hoả-Yểm-Hạm (HQHK) KTH Khu-Trục-Hạm JCS Joint Chiefs of Staff, Các Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân JGS Joint General Staff, Bộ Tham-Mưu Liên-Quân KB Kiểm-Báo (Đài) KBH Kiểm-Báo-Hạm KLVN Không-Lực Việt-Nam (VNAF, Vietnamese Air Force) KQVN Không-Quân Việt-Nam LCA Landing Craft Assault, Chiến-đĩnh Đổ-Bộ (HQ Anh) LCM Landing Craft, Mechanized: Quân-Vận-Đĩnh LCM(M) Landing Craft, Mechanized (Minesweeper) Quân-Vận-Đĩnh Trục-Lôi LCPL Landing Craft, Personnel, Large - Quân-Vận-Đĩnh LCU Landing Craft, Utility: Giang-Vận-Hạm LCVP Landing Craft, Vehicle and Personnel; Tiểu-Vận-Đĩnh LĐĐN Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm LĐNN Liên-Đoàn Người-Nhái LLĐN Lực-Lượng Đặc-Nhiệm LLDP Lực-Lượng Duyên-Pḥng (Có thể viết LLZP) LLGC Lực-Lượng Giang-Cảnh LLNC Lực-Lượng Ngăn-Chặn LLTB Lực-Lượng Thuỷ-Bộ LLTT Lực-Lượng Tuần-Thám LLTƯ Lực-Lượng Trung-Ương LSIL Landing Ship, Infantry, Large - Giang-Pháo-Hạm LSM Landing Ship, Medium, Hải-Vận-Hạm LSMR Landing Ship, Medium, Rocket - Hải-Vận Phóng-Tiễn-Hạm LSSL Landing Support Ship, Large, Trợ-Chiến-Hạm LST Landing Ship, Tank, Dương-Vận-Hạm LVT Landing vehicle Tracked, Thuỷ-Xa (TQLC) MAAG Military Assistance Advisory Group, Đoàn Cố-Vấn Quân-Sự MACSOG Military Assistance Command, Special Operations Group - Toán Nghiên-cứu và Quan-sát thuộc MACV MACV Military Assistance Command, Vietnam, BTL Cố-Vấn Quân-Sự HK tại Việt-Nam MAP Military Assistance Program, Chương-tŕnh Quân-Viện MiG Mikoyan-Gurevich, Russian-made Fighter Aircraft. Chiến-Đấu-Cơ Nga-Sô MLMS Minesweeping Launch, Trục-Lôi-Đĩnh MRB Mobile Riverine Base, Căn-Cứ của Mobile Riverine Force MRF Mobile Riverine Force, Lực-Lượng Lưu-Động Sông-Ng̣i (USN) MSB Minesweeping Boat, Trục-Lôi-Đĩnh MSC Mine Sweeper Coastal, Trục-Lôi-Hạm MSC Military Sealift Command (MSC) Tên mới của MSTS trong những năm cuối-cùng của trận chiến-tranh Việt-Nam MSF Minesweeper, Fleet - Trục-Lôi-Hạm Hạm-Đội MSO Minesweeper, Ocean - Trục-Lôi-Hạm Đại-Dương MSTS Military Sea Transportation Service, Cơ-Quan Hải-Vận Quân-Sự của Hoa-Kỳ NAD Naval Advisory Detachment Phái-Bộ Cố-Vấn Hải-Quân thuộc MACSOG của Hoa-Kỳ NAG Naval Advisory Group, Đoàn Cố-Vấn Hải-Quân NAVFORV Naval Forces, Vietnam, Lực-Lượng HQHK Tại Việt-Nam NC Nhiệm-Chức NILO Naval Intelligence Liaison Officer, SQ Liên-lạc T́nh-báo NMCB Naval Mobile Construction Battalion, Tiều-Đoàn Công-Binh Lưu-Động NSA Naval Support Activity, Căn-Cứ YTTV NVA North Vietnamese Army, Quân-Đội CSBV PACV Patrol Air Cushion Vehicle, Tàu tuần-tiễu đệm hơi PBR River Patrol Boat, Giang-Tốc-Đĩnh PC Patrol Craft (Submarine Chaser), Hộ-Tống-Hạm PCE Patrol Craft Escort, Hộ-Tống-Hạm PCER Patrol Craft Escort Rescue, Hộ-Tống-Hạm Tiếp-cứu PCF Fast Patrol Craft, Khinh-Tốc-Đĩnh PG Patrol Gunboat, Khinh-Tốc-Hạm PGM Patrol Motor Gunboat, Tuần-Duyên-Hạm POW Prisoner of War, Tù-Binh PT Motor Torpedo Boat Ngư-Lôi-Đĩnh PTHC Pḥng-thủ Hải-Cảng PTF Fast Patrol (Torpedo) Boat, Ngư-Lôi-Đĩnh QĐQGVN Quân-đội Quốc-Gia Việt-Nam QLVNCH Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hoà RAG River Assault Group, Giang-Đoàn Xung-Phong RAID Riverine Assault Interdiction Division, Giang-Đoàn Ngăn-Chặn RPC River Patrol Craft, Tuần-Giang-Đĩnh RPG Rocket Propelled Grenade, Phóng-Lựu kiểu Nga R&R Rest and Recuperation, Nghỉ Hồi-Dưỡng RVN Republic of Vietnam, Việt-Nam Cộng-Hoà RVNAF Republic of Vietnam Armed Forces, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà (QL/VNCH) SAM Surface to Air Missile, Hoả-tiễn Pḥng-Không SAR Search and Rescue, T́m-Kiếm Cứu-Cấp SC Submarine Chaser (Patrol Craft PC) Hộ-Tống-Hạm Diệt Tiềm-Thuỷ-Đĩnh SCATTOR Small Craft Assets, Training, and Turnover of Resources, Chương-Tŕnh Huấn-Luyện và Chuyển-Giao Tiểu-Đĩnh SEABEE Naval Construction Battalion, Tiểu-Đoàn Ong Biển - Công-Binh Kiến-Tạo HQHK SEAL Sea Air Land (Naval Commando), Hải-kích SEALORDS Southeast Asia, Lake, Ocean, River, Delta Strategy. Chiến-Dịch này sau đó chuyển-tiếp và trở-thành Chiến-dịch Trần-Hưng-Đạo SEATO Southeast Asia Treaty Organization, Liên-Minh Pḥng-Thủ Đông-Nam-Á SOG Special Operation Group or Studies and Observation Group -Toán Nghiên-Cứu và Quan-Sát (Nha Kỹ-Thuật) S.O.P Standard Operation Procedure, Quy-Luật Điều-Hành Căn-Bản SPVDH Sở Pḥng-Vệ Duyên-Hải SQHQ Sĩ-Quan Hải-Quân STAT Seabee Technical Assistance Team, Toán Trợ-Giúp Kỹ-Thuật Công-Binh HQHK Seabee STCAN/FOM Services Techniques des Constructions et Armes Navales France Outre Mer (French-designed River Patrol Craft) Tiểu-giáp-đĩnh (đôi khi gọi là Truy-Kích-Đĩnh) STS Strategic Technical Service SVSQ Sinh-Viên Sĩ-Quan T Tấn (đặc-tính Chiến-hạm hay Chiến-đĩnh) TDĐ Tuần-Duyên-Đĩnh (hay TZĐ) TDH Tuần-Dương-Hạm hay Tuần-Duyên-Hạm TD/YTTV Tiền-Doanh Yểm-trơ Tiếp-Vận TF Task Force, Lực-Lượng Đặc-Nhiệm TF 115 Task Force Market Time, Lực-Lượng ĐN 115 TF 116 Task Force Game Wardens, Lực-Lượng ĐN 116 TF 117 Task Force Mobile River Force, Lực-Lượng ĐN 117 TK/QY Trưởng Khối Quân-Y TL/HQ Tư-Lệnh Hải-Quân TL/HhQ Tư-Lệnh Hành-Quân TMT/HQ Tham-Mưu-Trưởng Hải-Quân TMT/HhQ Tham-Mưu-Trưởng Hành-Quân (Sông, Biển) TMP/CTCT Tham-Mưu-Phó Chiến-tranh Chính-trị TMP/HQ Tham-Mưu-Phó Hành-Quân (hay TMP/HhQ) TMP/QH Tham-Mưu-Phó Quân-Huấn TMP/TV Tham-Mưu-Phó Tiếp-Vận TQLC Thuỷ-Quân Lục-Chiến TRIM Training Relations Instruction Mission, Phái-bộ Huấn-Luyện Hỗn-hợp Mỹ-Pháp TT Thực-Thụ (Cấp-bậc) TTCB Trung-Tâm Chiến-Báo - CIC: Combat Information Center (trên các Khu-Trục-Hạm DER, và Tuần-Dương-Hạm WHEC) TTHL Trung-Tâm Huấn-Luyện TTHL/HQ Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân TTHQ Trung-Tâm Hành-Quân TTKSDH Trung-Tâm Kiểm-Soát Duyên-Hải (CSC) TTL (năm) trước Tây-lịch TTMT/QLVNCH Tổng-Tham-Mưu-Trưởng Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà TTT/HQ Tổng-Thanh-Tra Hải-Quân TTTL Trung-Tâm Tiếp-Liệu TVBQG/VN Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tại Đà-Lạt UDT Underwater Demolition Team, Biệt-hải USA U.S. Army, Lục-Quân Hoa-Kỳ USAF U.S. Air Force, Không-Quân (Không-Lực) Hoa-Kỳ USCG U.S. Coast Guard, Tuần-Duyên Hoa-Kỳ USMACV U.S. Military Assistance Command, Vietnam USMC U.S. Marine Corps, Thuỷ-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ USN U.S. Navy, Hải-Quân Hoa-Kỳ USNR U.S. Naval Reserve, Hải-Quân Hoa-Kỳ Trừ-Bị USNS U.S. Naval Ship V1DH Vùng 1 Duyên-Hải (hay V1ZH) V3SN Vùng 3 Sông-Ng̣i VC Việt-Cộng VCNO Vice Chief of Naval Operations- Tư-Lệnh-Phó Hải-Quân VM Việt-Minh VNAF Vietnamese Air Force - Không-Quân Hay Không-Lực Việt-Nam VN Việt-Nam VNCH Việt-Nam Cộng-Hoà VNN Vietnamese Navy - Hải-Quân Việt-Nam VP Patrol Squadron VT 17 Vĩ-Tuyến 17 (Vùng Phi Quân-Sự) WPB Patrol Boat, 82-Foot Coast Guard Cutter, Tuần-Duyên-Đĩnh WHEC Coast Guard High Endurance Cutter. Tuần-Dương-Hạm XLTV Xử-Lư Thường-Vụ YFU Harbor Utility Craft (self-propelled) YMS Yard Minesweeper, Trục-Lôi-Hạm YOG Yard Oil Gasoline Barge, Self-propelled, Hoả-Vận-Hạm YRBM Yard Repair, Berthing, and Messing Barge (non-self-propelled), Tạm-Trú-Hạm YTB Large Harbor Tug YTL Small Harbor Tug ZD Duyên-Đoàn (DĐ) ZH Duyên-Hải (trường-hợp như V1ZH – V1DH)
Cấp-bậc và chuyên-nghiệp HQVN: HQ.Đ/Tá, HQ.Tr/Tá, HQ.Th/Tá, HQ.Đ/Úy, HQ.Tr/Úy, HQ.Th/Úy, HQ.Ch/Úy. CK (Cơ-Khí), CB (Chiến-Binh), ĐV (Đoàn-Viên), HCTC (Hành-chánh Tài-chánh) Y-Sĩ HQ (Bác-sĩ). ThS.I, ThS, TrS.I, TrS, HS.I, HS, TT.I, TT. BT (Bí-Thư), CK (Cơ-Khí), CB (Chiến-Binh), Điện-Khí (ĐK), ĐP (Điện-Pháo), ĐT (Điện-Tử), GL (Giám-Lộ), KT (Kế-Toán), PT (Pḥng-Tai), QK (Quản-Kho), TP (Trọng-Pháo), TV (Tiếp-Vụ), TX (Thám-Xuất), VC (Vận-chuyển), VT (Vô-Tuyến), YT (Y-Tá).
Phụ-Bản 3
Đặc-tính, H́nh-ảnh Chiến-hạm, Chiến-đĩnh CỦA HẢI-QUÂN VIỆT-NAM
Nhiều dữ-kiện trong phụ-bản này được trích ra từ quyển “ĐẶC-TÍNH CÁC LOẠI CHIẾN-HẠM CHIẾN-ĐĨNH CỦA HẢI-QUÂN VIỆT-NAM” do BTL/HQ/Khối Hành-Quân/Pḥng Ba phát-hành năm 1973.
Khu-Trục-Hạm DER - Destroyer Escort and Radar Picket
HQ-1 - Trần-Hưng-Đạo HQ-4 - Trần-Khánh-Dư
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 1,740 T Trọng-tấn tối-thiểu: 1,200 T Chiều dài: 92.83 m Chiều rộng: 11.30 m Tầm nước tối-đa: 4.60 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 15 Hạ-Sĩ-Quan: 54 Đoàn-Viên: 97 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 21 gút Tầm hoạt-động: 4,643 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 19 gút Vận-tốc tiết-kiệm:10.5 gút Tầm hoạt-động: 8,435 hải-lư MÁY CHÁNH Số-lượng: 4 Hiệu: Fairbanks-Morse 38D8 1/8 Mă-lực mỗi máy: 1,800 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 3 General Motors 8-268A 1 General Motors 3-268A Công-xuất mỗi máy: 200 kw - 100 kw MÁY CẤT-NƯỚC Số-lượng: 1 Solo Shell Double Effect NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 378.106 T Nước ngọt: 46.053 T
DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 MK 23 Loran: 1 Nelco Autofix 500 ĐIỆN-TỬ Radar hải-thám: 1 AN/SPS-10 1 AN/SPA-4B Radar không-thám: 1 AN/SPS-28 Sonar: 1 AN/UQN-1A 1 AN/SQS-31A IFF: 1 AN/UPX-12 1 AN/UPM-7C Máy đo chiều sâu: 1 AN/UQN-1B VŨ-KHÍ Đại-bác 76.2 ly: 1 MK.34 Mod.2 (Trước) 1 MK.34 Mod.0 (Sau) Giàn thuỷ-phi-đạn: 1 MK.15 Mod.0 Giàn ngư-lôi: 2 MK.32 Mod.2 BKP 81 ly: 1 MK.2 Mod.0 Đại-liên 50: HQ-1- 6 khẩu HQ-4- 4 khẩu Hệ-thống kiểm-xạ: 1 MK.63 Mod.22 (Trước) 1 MK.51 (Sau) Hệ-thống kiểm-soát phóng-ngư-lôi:1 MK.105 Mod..9 TRUYỀN TIN 4 R-390/URR 4 AN/URC-58 1 AN/URR-27 2 AN/VRC-46 2 AN/URR-35A 6 CV-591 6 CV-591 Converter 3 AN/URR-13 1 URT-7 1 AN/URT-7 1 TBK-4A 2 TED-9 2 AN/WRT-2 1 TED-7 2 AN/PRC-25 1 AN/URA-8A 1 WRR-3
Sơ-đồ tổng-quát Khu-Trục-Hạm DER
Tuần-Dương-Hạm HEC - High Endurance Cutter
HQ-2 - Trần-Quang-Khải HQ-3 - Trần-Nhật-Duật HQ-5 - Trần-B́nh-Trọng HQ-6 - Trần-Quốc-Toản HQ-15 - Phạm-Ngũ-Lăo HQ-16 - Lư-Thường-Kiệt HQ-17 - Ngô-Quyền
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 2,800 T Chiều dài: 94.40 m Chiều rộng: 12.50 m Tầm nước tối-đa: 4.60 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 14 Hạ-Sĩ-Quan: 47 Đoàn-Viên: 93 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 19 gút Tầm hoạt-động: 8,000 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 11 gút Tầm hoạt-động: 22,000 hải-lư MÁY CHÁNH Số-lượng: 4 Hiệu: Fairbanks-Morse 38D8 1/8 Mă-lực mỗi máy: 6,080
MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 General Motors 8-268A 2 General Motors 3-268A Công-xuất mỗi máy: 200 kw 100 kw MÁY CẤT-NƯỚC Số-lượng: 1 Solo Shell Double Effect NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 630.416 T Nước ngọt: 66.087 T DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 MK 14 Loran: 1 SPN-25 ĐIỆN-TỬ Radar: 1 AN/SPS-53E (HQ-2 có thêm 1 Raytheon 1900) 1 AN/SPS-29 1 AN/SPA-66 1 IP-306-SPS (HQ-5) Máy đo chiều-sâu: 1 AN/UQN-1C VŨ-KHÍ Đại-bác 127 ly đơn: 1 MK.30 Mod.70 Đại-bác 40 ly đơn: 2 MK.3 Mod.4 Đại-bác 40 ly đôi: 1 MK.3 Mod.4 Đại-bác 20 ly đơn: 2 MK.68 Mod.1 Đại-liên 50: 4 MK.26 BKP 81: 2 MK.2 Mod.0 Hệ-thống kiểm-xạ : 1 MK.52 Mod.3 TRUYỀN-TIN HQ-2 HQ-3 HQ-5 HQ-6 1 AN/SPA-66 9 R-390/URR 4 R-390/URR 2 WRR-3 4 AN/URR-35A 3 URT-23 3 AN/URR-27 2 AN/URR-22 2 TED-9 2 AN/VRC-46 3 TED-9 1 AN/URC-58 3 URT-23 2 AN/URC-58 2 AN/VRC-46 4 AN/URR-35A 1 AN/SRC-29 1 AN/UPN-12 6 R-1051 2 URT-7 1 AN/SGC-1A 2 R-389/URR 2 TED-7 3 AN/VRC-46 2 AN/PRC-59 2 TED-9 2 URT-7 3 AN/URR-27 1 AN/SPA-52 3 AN/PRC-25 3 AN/URC-59 2 URT-20 10 R-390/URR 3 TT WRITERS 4 AN/URR 35A 2 AN/URC-4 2 TED-4 4 AN/URR-35A 3 URT-23
HQ-2 HQ-3 HQ-5 HQ-6 2 AN/VRC-46 2 TED-7 1 AN/URC-58 2 AN/URT-20 1 AN/URC-59 1 AN/WRR-3 1 AN/UQN-1C 1 AN/UQN-1A 2 R-389/URR 2 URT-7 2 AN/URC-58 2 AN/URA-17 3 AN/URR-21A
HQ-15 HQ-16 HQ-17 1 AN/URC-58 2 AN/URC-58 2 AN/PRC-25 1 AN/URT-7 2 AN/VRC-46 2 AN/VRC-46 2 TED-9 2 AN/URT-23 2 AN/URC-58 1 AN/URR-27 1 AN/URT-20 4 R-390A/URR 2 AN/URR-35 3 TED-7 2 AN/URR-35 1 AN/URT-20 3 TED-9 2 AN/URR-27 1 AN/URT-23 4 R-390A/URR 2 AN/WRR-3 3 AN/UGC-6 2 AN/WRR-3B 2 R-1051 1 AN/WRR-3B 2 AN/URR-35C 2 TED-9 7 R-390/URR 2 AN/URR-27 2 AN/URT-7 2 AN/PRC-59 2 AN/R1051B/URR 2 AN/URT-20 1 AN/CRT-3 3 AN/URR-22 2 AN/URT-23 3 AN/URR-22 2 R-1051/13-URR 3 CTT-28-ASR-AUX VIỄN-ẤN-TỰ 1 Teletype Terminal Set AN/SGC-1A (HQ-16) 1 Telewriter CTT-28-ASR-AUX (HQ-16) 1 Teletype TT-48A/UG (HQ-16) LOA PHÓNG-THANH CẦM TAY 2 AN/PIC-2 (HQ-16)
Hộ-Tống-Hạm PCE - Patrol Craft Escort
Biến-cải từ PCER: HQ-07 - Đống-Da Biến-cải từ MSF: HQ-08 - Chi-Lăng II HQ-12 - Ngọc-Hồi HQ-09 - Kỳ-Hoà HQ-14 - Vạn-Kiếp II HQ-10 - Nhựt-Tảo HQ-11 - Chí-Linh HQ-13 - Hà-Hồi TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC HQ-07 - 12- 14 HQ-08 - 09 - 10 - 11- 13 Trọng-tấn tối-đa: 900 T 944 T Trọng-tấn tối-thiểu: 640 T 633 T Chiều dài: 55.5 m 55.37 m Chiều rộng: 10.40 m 10.10 m Tầm nước tối-đa: 3 m 2.89 m Tầm nước tối-thiểu: 2.10 m 2.10 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 8 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 77 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG HQ-07 - 12- 14 HQ-08 - 09 - 10 - 11- 13 Vận-tốc lư-thuyết: 16 gút Vận-tốc thực-hiện: 14 gút 14.8 gút Tầm hoạt-động: 4,300 hải-lư Vận-tốc đường-trường:14 gút Tầm hoạt-động:4,500 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 11 gút 12 gút Tầm hoạt-động: 6,600 hải-lư 6,800 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh 2 - 3 cánh Đường kính: 1.95 m 1.95 m Bánh-lái: 2 2 MÁY CHÁNH HQ-07 HQ-12 - 14 HQ-09 - 10 - 11 - 14 Số-lượng: 2 2 2 Hiệu: GM 12-278A GM 12-567ATL Cooper Bessemer GSB-8DR Mă-lực mỗi máy: 900 900 900 MÁY ĐIỆN HQ-07 - 08- 14 HQ-09 11 HQ-12 HQ-13 Số-lượng : 2- GM-71RC7 3- GM-71RC7 2- CUMMINS 2- CUMMINS 1- Fairbank- 1- Fairbank- HSGAD-602 HSGAD-602 Morse 38E 5 1/4 Morse 38E 5 1/4 1-GM 3-268A MÁY CẤT-NƯỚC HQ-07 - 14 HQ-08 - 09 - 10 - 11 - 13 HQ-12 Số-lượng: 1 Aqua Fresh HJ-20 2 Aqua Fresh HF-20 2 Badger Vapor Compression XI NHIÊN-LIỆU HQ-07 - 12 - 14 HQ-08 - 09 - 10 - 11 - 13 Dầu cặn: 113.636 T 159.090 T
DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 Sperry MK.18 MOD.1 Loran: 1 DAS-3 (HQ-07 - 12 - 13 -14) ĐIỆN-TỬ HQ-07 - 08 - 09 - 11 HQ-12 HQ-13 HQ-14 Radar: 1 SPS-55 1 SPS-5D 1 Raytheon 1 SPS-21D 1500 HQ-07 - 08 - 09 - 10 - 11 - 12 - 14 HQ-13 Máy đo chiều sâu: 1 DE-721 1 NK-9 VŨ-KHÍ HQ-07 - 12 - 14 HQ-08 - 09 - 10 - 11 - 13 Đại-bác 76.2 ly: 1 1 Đại-bác 40 ly đơn: 2 2 Đại-bác 20 ly đôi: 4 4 BKP 81 ly: 1 Đại-liên 30: 2 TRUYỀN-TIN HQ-07 1 KWM-2 2 R-390/URR 1 AN/CRT-3 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46 1 AN/PRC-25 1 TCS-12 2 TED-2 1 AN/URR-44 1 AN/SRR-13A 1 AN/SRR-11 1 TDE 1 AN/URC-32 1 AN/URR-35
HQ-08 2 R-390/URR 1 RAL 1 RBO 1 RBC 1 RBB 3 AN/URR-35 1 TBL-7 2 TED-7 1 AN/CRT-3 1 AN/PRC-25 1 KWM-2A 2 TCS-14 2 AN/URC-58
HQ-09 3 AN/URR-35 3 R-390/URR 1 RBO-2 1 TBL-7 1 TED-1 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 2 AN/PRC-25 1 TCS-14 1 KWM-2A 1 AN/CRT-3
HQ-10 2 AN/URR-35 1 RBO 1 TBL-7 2 TED-7 1 AN/CRT-3 2 TCS-14 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46 2 AN/PRC-25
HQ-11 1 DAS-3 2 R-390/URR 1 AN/URR-35 1 RBB-1 2 TED-8 1 TBL-7 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-32 2 TCS-14 1 KWM-2 1 AN/CRT-3
HQ-12 1 KWM-2 2 R-390/URR 1 AN/CRT-3 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46 2 AN/PRC-25 1 TCS-12 2 TED-2 2 TED-3 1 AN/URR-35 1 TBL-13
HQ-13 1 R-390/URR 1 AN/URR-35 1 TED-9 1 TBL-7 1 TCS-14 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 AN/CRT-3
HQ-14 1 KWM-2 2 R-390/URR 1 AN/CRT-3 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46 2 AN/PRC-25 1 TSC-12 2 TED-2 1 AN/URR-13 1 TDE
Hộ-Tống-Hạm PC - Patrol Craft
Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04. Hộ-Tống-Hạm Vân-Đồn HQ-06
Giang-Pháo-Hạm LSIL - Landing Ship Infantry Light
HQ-329 - Thiên-Kích HQ-330 – Lôi-Công HQ-331 - Tầm-Sét
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa : 393 T Trọng-tấn tối-thiểu :210 T Chiều dài : 48.025 m Chiều rộng :7.40 m Tầm nước tối-đa : 2.13 m Tầm nước tối-thiểu :1.22 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 7 Hạ-Sĩ-Quan: 19 Đoàn-Viên: 29 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết :15.5 gút Vận-tốc thực-hiện :12.5 gút Tầm hoạt-động :5,600 hải-lư Vận-tốc đường-trường:10 gút Vận-tốc tiết-kiệm :9 gút Tầm hoạt-động :8,000 hải-lư Chân-vịt :2 - 3 cánh Đường kính :0.97 m Bánh-lái :2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 8 Mă-lực mỗi máy: 250 Hiệu: General Motors 6-71 MOD 24003.A MÁY ĐIỆN HQ-330 HQ-329 - 331 Số-lượng :2 General Motors 6-71RC 2 General Motors 3-71 MOD 41-A NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 89.645 T Nước ngọt: 47.727 T TRỌNG-TẢI 100 T hoặc 76 binh-sĩ trang-bị cá-nhân DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 Sperry MK 18 MOD 1 ĐIỆN-TỬ Radar:1 Raytheon 1500B Máy đo chiều sâu:1 DE-721 VŨ-KHÍ Đại-bác 76.2 ly đơn:1 Đại-bác 40 ly đơn: 1 Đại-bác 20 ly đôi: 2 Đại-liên 50 đơn: 2 Đại-liên 30 đơn: 2 Đại-liên M-60: 1 BKP 81 ly: 2 BKP 60 ly: 1 Súng phóng-lựu M-79: 2 TRUYỀN-TIN 2 TCS-12 1 RBO-2 2 AN/PRC-25 1 R-390-A/URR 1 TED-2-9 1 KWM-2A 1 AN/URR-35C 1 AN/CRT-3 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 TCS-14
Trợ-Chiến-Hạm LSSL - Landing Ship Support Large
HQ-228 - Đoàn-Ngọc-Tảng HQ-229 - Lưu-Phú-Thọ HQ-230 - Nguyễn-Ngọc-Long HQ-231 - Nguyễn-Đức-Bổng
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 387 T Trọng-tấn tối-thiểu: 230 T Chiều dài: 48.025 m Chiều rộng: 7.21 m Tầm nước tối-đa: 1.89 m Tầm nước tối-thiểu: 1.25 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 7 Hạ-Sĩ-Quan: 20 Đoàn-Viên: 29 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 13 gút Tầm hoạt-động: 1,900 hải-lư Vận-tốc đường-trường:10 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 6 gút Tầm hoạt-động: 5,000 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.97 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH HQ-228 - 229 HQ-230 - 231 Số-lượng: 8 8 Hiệu: General Motors 6-71 MOD 24003A General Motors 6-71 MOD 6051 Mă-lực mỗi máy: 250 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng 2 General Motors 6-71RC7 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 104.102 T Nước ngọt: 49.716 T TRỌNG-TẢI 100 T hoặc 60 binh-sĩ trang-bị cá-nhân DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 Sperry MK 1 MOD 1 ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1500 Máy đo chiều sâu: 1 DE-721 VŨ-KHÍ Đại-bác 76.2 ly đơn:1 Đại-bác 40 ly đôi: 2 Đại-bác 20 ly đơn: 4 Đại-liên 50: 3 BKP 81 ly: 2 TRUYỀN-TIN 2 TCS-12-14 2 AN/PRC-25 1 R-390-A/URR 1 TED-2 1 KWM-2A 1 AN/URR-35 1 AN/CRT-3 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58
Tuần-Duyên-Hạm PGM - Patrol Gunboat Motor
HQ-600 – Phú-Dự HQ-601 - Tiên-Mới HQ-602 - Minh-Hoa HQ-603 - Kiến-Vàng HQ-604 – Kèo-Ngựa HQ-605 - Kim-Quy HQ-606 – May-Rút HQ-607 - Nam-Du HQ-608 - Hoa-Lư HQ-609 - Tổ-Yến HQ-610 - Định-Hải HQ-611 - Trường-Sa HQ-612 - Thái-B́nh HQ-613 - Thị-Tứ HQ-614 - Song-Tử HQ-615 - Tây-Sa HQ-616 - Hoàng-Sa HQ-617 - Phú-Quư HQ-618 - Ḥn-Trọc HQ-619 - Thổ-Châu TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 143.4 T Chiều dài: 30.83 m Chiều rộng: 6.43 m Tầm nước tối-đa: 2.13 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 3 Hạ-Sĩ-Quan: 12 Đoàn-Viên: 11 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 17 Vận-tốc đường-trường: 16.5 gút Tầm hoạt-động: 1,100 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 11 gút Tầm hoạt-động: 1,400 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 1.35 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH HQ-600 - 611 HQ-612 - 619 Số-lượng: 2 8 Hiệu: Mercedes Benz MB 820-12 General Motors 6-71 Mă-lực mỗi máy: 950 250 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 General Motors 2-71 MÁY CẤT-NƯỚC HQ-600 - 611 HQ-612 - 619 Số-lượng: 1 Badger Vapor Compression XI 1 Aqua Fresh HJ-20 Special NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 18.065 T DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 MK.22 MOD.0 ĐIỆN-TỬ Radar: Decca 303 và Raytheon 1900 (HQ600, 603, 604, 611, 612, 613) SPS 53 (HQ-602,607, 608, 618) Raytheon 1500 và 1900 (HQ-605) Raytheon 1500 A (HQ-606, 609) Decca 303 (HQ-610) Decca 404 và Raytheon 1900 (HQ-615, 619) Decca 404 (HQ-614, 616, 617) Máy đo chiều sâu: 1 DE-121 hoặc 721, hoặc 726 VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly đơn: 1 Đại-bác 20 ly đôi: 1 Đại-liên 50: 2 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 2 TCS-13 1 AN/PRC-25 2 R-390/URR 1 TED-9 1 KWM-2A 1 AN/URR-35 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58
Trục-Lôi-Hạm
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 370 T Trọng-tấn tối-thiểu: 320 T Chiều dài: 43 m Chiều rộng: 8.5 m Tầm nước : 2.5 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 6 Hạ-Sĩ-Quan & Đoàn-Viên: 41 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 13 gút Vận-tốc đường-trường: 12 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 7 gút Chân-vịt: 3 cánh Bánh-lái: 2
MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Hiệu: Packard Diesels Mă-lực mỗi máy: 1,200
Sơ-đồ tổng-quát Trục-Lôi-Hạm MSC – Bluebird Class
Dương-Vận-Hạm LST - Landing Ship Tank HQ-500 - Cam-Ranh HQ-501 - Đà-Nẵng HQ-502 - Thị-Nại HQ-503 - Vũng-Tàu HQ-504 - Quy-Nhơn HQ-505 - Nha-Trang TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 3,640 T Trọng-tấn tối-thiểu: 1,780 T Chiều dài: 99.44 m Chiều rộng: 15.20 m Tầm nước tối-đa: 4.17 m Tầm nước tối-thiểu: 2.44 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 8 Hạ-Sĩ-Quan: 36 Đoàn-Viên: 63 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 12 gút Vận-tốc thực-hiện: 11.5 gút Vận-tốc đường-trường: 10.8 gút Tầm hoạt-động:19,800 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 8.1 gút Tầm hoạt-động: 24,900 hải-lư Chân-vịt: 2 - 4 cánh Đường kính: 2.13 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH HQ-500, 501 HQ-502, 503, 504, 505 Số-lượng: 2 2 Hiệu: General Motors 12-567ATL General Motors 12-567ATL 12.278A 12.567 EATL (HQ-504) Mă-lực mỗi máy: 900 MÁY ĐIỆN HQ-500, 501, 502 HQ-503, 504 Số-lượng: 3 General Motors 3-268A 1 General Motors 3-268A 3 Superior DGB-8 3 Superior DGB-8 HQ-500 2 Fairbank Morse AC 3 Superior DGB-8 MÁY CẤT-NƯỚC Số-lượng: 2 Badger Vapor Compression X2 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 678.030 T Nước ngọt: 321.969 T TRỌNG-TẢI 1,500 T hoặc 1,000 binh-sĩ trang-bị cá-nhân DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 MK 13 Sperry ĐIỆN-TỬ HQ-500 HQ-500, 501, 502, 503 HQ-501-502 Radar: SPN-5 1 Raytheon 1500 1 AN/SPS-21
HQ-504 HQ-505 1 AN/SPS-53 1 AN/SPS-21D
HQ-500 HQ-501 HQ-502,503 Máy đo chiều sâu: 1 DE-102 1 NGB-8 1 UQN-1
HQ-504 HQ-505 1 UQN-14 1 UQN-10
VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly đôi :2 Đại-bác 40 ly đơn :4 Đại-bác 20 ly đơn :4 Đại-liên 50 :2 TRUYỀN-TIN HQ-500, 502 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 TED-14 1 TED-7 1 TED-2 1 AN/URR-35 1 R-390 1 TCS-14 1 KWM-2A 1 591A/URR 1 CRT-3
HQ-501 1 VRC-46 1 AN/URC-58 1 TED-14 1 TED-7 1 TED-2 1 AN/URR-35 1 R-390 1 TCS-14 1 KWM-2A 1 591A/URR 1 CRT-3 1 AN/URR-13
HQ-503 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 TED-14 1 TED-7 1 TED-2 1 AN/URR-35 1 R-390 1 TCS-14 1 KWM-2A 1 591A/URR 1 CRT-3 1 AN/URC-32 1 SRR-11 1 WRT-1 1 WRT-2
Hệ-thống viễn-ấn-tự gồm các máy: RT-SBC-1 RT/TT-47 RT/TT-253A/UG RT/AN/UGC-20 RT/TT-187A RT/159B/URC-4 AN/URA-8
HQ-504 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 TED-14 1 TED-7 1 TED-2 1 AN/URR-35 1 R-390 1 TCS-14 1 KWM-2A 1 591A/URR 1 CRT-3 1 AN/URC-32 HQ-505 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 TED-14 1 TED-7 1 TED-2 1 AN/URR-35 1 R-390 1 TCS-14 1 KWM-2A 1 591A/URR 1 CRT-3 1 AN/URC-32 1 URR-13
Yểm-Trợ-Hạm AGP - Auxiliary General Purpose
Biến-cải từ LST loại 542 HQ-800 - Mỹ-Tho HQ-801 - Cần-Thơ
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 3,064 T Trọng-tấn tối-thiểu: 1,780 T Chiều dài: 99.96 m Chiều rộng: 15.25 m Tầm nước tối-đa: 2.44 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 12 Hạ-Sĩ-Quan: 59 Đoàn-Viên: 69 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 12 gút Vận-tốc thực-hiện: 11.5 gút Vận-tốc đường-trường: 10.8 gút Tầm hoạt-động: 19,800 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 8.1 gút Tầm hoạt-động: 28,240 hải-lư Chân-vịt: 2 - 4 cánh Đường kính: 2.23 m MÁY CHÁNH HQ-800 HQ-801 Số-lượng: 2 General Motors 12-567ATL General Motors 12-567EATL Mă-lực mỗi máy: 900 900 MÁY ĐIỆN HQ-800 HQ-801 Số-lượng: 5 General Motors 3-268 3 General Motors 3-268A 3 Superior GDB 100 KW AC/DC Điện thế: 240V AC, 120V DC MÁY CẤT-NƯỚC HQ-800 HQ-801 Số-lượng: 3 Badger Vapor Compression X2 2 Badger Vapor Compression X2 1 Solo Shell Double Effect NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 590 T DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 MK. 14 Loran: 1 Nelco Autofix 500 ĐIỆN-TỬ Radar: 1 AN/SPS-53 1 AN/SPA-4 Máy đo chiều sâu: 1 AN/UQN-1 VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly đôi: 2 MK.1 MOD. 2 Đại-bác 40 ly đơn: 4 MK.3 MOD.4 Đại-bác 20 ly đôi: 4 MK.24 MOD.5 Đài kiểm-soát hệ-thống tác-xạ ĐB 20 ly: 2 MK.51 MOD.2 Ống nhắm tác-xạ ĐB 20 ly: 2 MK.14 MOD.4 TRUYỀN-TIN 1 AN/CRT-3 1 AN/WRR-2 1 RF-302R TUNER 1 AN/VRC-46 1 RF-301 1 RF-3-5 TUNER 1 AN/PRC-25 1 AN/WRT-1 1 AN/SRR-11 1 AN/URR-35 1 AN/URC-58 1 AN/WRA-8 1 R-390/URR 1 AN/WRT-2 1 TED-1
Yểm-Trợ-Hạm HQ-801 - Cần-Thơ.
Cơ-Xưởng-Hạm ARL - Landing Craft Repair Ship
Biến-cải từ LST loại 542 HQ-802 - Vĩnh-Long
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 4,325 T Chiều dài: 100.03 m Chiều rộng:15.25 m Tầm nước tối-đa: 4.57 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 12 Hạ-Sĩ-Quan và ĐViên: 178 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết :12 gút Vận-tốc thực-hiện :11.8 gút Chân-vịt :2 - 4 cánh Bánh-lái :2 Vận-tốc đường-trường:9 gút Tầm hoạt-động: 39,966 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm :8 gút Tầm hoạt-động: 56,743 hải-lư MÁY CHÁNH Số-lượng :2 General Motors 12-567ATL Mă-lực mỗi máy : 900 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 4 General Motors 3-268A 5 Superior GDB-8 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 712.730 T TRỌNG-TẢI 300 Tấn ĐIỆN-TỬ Radar:1 AN/SPS-53, 1 AN/SPA-25 VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly đôi: 2 MK.2 MOD.18 Đài kiểm-soát hệ-thống tác-xạ: 2 MK.51 MOD.2 Ống nhắm tác-xạ: 2 MK.14 MOD.8 TRUYỀN-TIN 1 AN/URC-13 2 AN/URA-8 1 AN/URT-17 1 R-390 Hải-Vận-Hạm LSM - Landing Ship Medium
HQ-405 - Hải-Vận-Hạm Tiền-Giang
HQ-402 - Lam-Giang HQ-403 - Ninh-Giang HQ-404 - Hương-Giang HQ-405 - Tiền-Giang HQ-406 - Hậu-Giang TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 1,095 T Trọng-tấn tối-thiểu: 743 T Chiều dài: 62.20 m Chiều rộng: 10.66 m Tầm nước tối-đa: 2.98 m Tầm nước tối-thiểu:1.89 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 7 Hạ-Sĩ-Quan: 22 Đoàn-Viên: 42 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 13 gút Vận-tốc thực-hiện: 13 gút Tầm hoạt-động: 4,500 hải-lư Vận-tốc đường-trường:12.5 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 6.5 gút Tầm hoạt-động: 10,000 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 1.40 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH HQ-402, 403, 405 HQ-404, 406 Số-lượng: 2 Fairbanks Morse 38D8 1/8 2 General Motors 16-278A Mă-lực mỗi máy: 1,420 1,420 MÁY ĐIỆN HQ-402, 403 HQ-404, 405, 406 Số-lượng: 3 General Motors 3-268A 2 General Motors 3-268A 1 General Motors 6-71RC7 MÁY CẤT NƯỚC Số-lượng :1 Badger Vapor Compression X2
NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 190.303 T Nước ngọt: 48.636 T TRỌNG-TẢI 250 T hoặc 400 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 Sperry MK.18 Loran: 1 DAS ĐIỆN-TỬ HQ-402, 403, 404 HQ-405, 406 Radar: 1 Raytheon 1500 1 SPS-21D VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly đôi: 1 MK.1 MOD. 2 Đại-bác 20 ly đơn: 6 MK.10 MOD.2 Hệ-thống kiểm-xạ: 1 MK.51 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/URR-35 1 AN/URC-58 1 TCS-12-14 1 AN/VRC-46 1 KWM-2A 2 TED-7 1 R-390/URR 1 RBO-2 1 AN/CRT-3 1 AN/URR-35
Sơ-đồ Tổng-quát Hải-Vận-Hạm LSM.
Bệnh-Viện-Hạm LSM-H Landing Ship Medium Hospital
HQ-400 - Hát-Giang HQ-401 - Hàn-Giang
Bệnh-Viện-Hạm HQ-401 - Hàn-Giang
Bệnh-Viện-Hạm được biến-cải từ Hải-Vận-Hạm và được trang-bị: 4 toa xe cứu-thương, toa tiểu giải-phẫu, toa nha-khoa, toa điện-tuyến và toa khám-bệnh. Các toa trên có thể được di-chuyển lên bờ mỗi khi chiến-hạm ủi băi. Bệnh-Viện-Hạm có thể hoạt-động dọc theo duyên-hải, các hải-đảo, trong sông-ng̣i để thi-hành các công-tác quân-y dân-sự-vụ và tâm-lư-chiến..
VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly đôi :1 MK.1 MOD. 2 Đại-bác 20 ly đơn :6 MK.10 MOD.0 Hệ-thống kiểm-xạ :1 MK.51 GHI-CHÚ Các đặc-tính khác đều giống Hải-Vận-Hạm. Mỗi chiến-hạm có thể chở thêm một toán Chiến-tranh Chính-trị gồm 50 người.
Hoả-Vận-Hạm YOG - Yard Oiler
HQ-470 HQ-471 HQ-472 HQ-473 HQ-474 HQ-475
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 1,400 T Trọng-tấn tối-thiểu: 440 T Chiều dài: 53.07 m Chiều rộng: 10.06 m Tầm nước tối-đa: 3.96 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 4 Hạ-Sĩ-Quan: 14 Đoàn-Viên: 12 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 10 gút Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 2,000 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm :6 gút Tầm hoạt-động: 3,000 hải-lư Chân-vịt: 1 - 3 cánh Đường kính:1.92 m hoặc 2.28 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH HQ-470, 472, 473 HQ-471 HQ-474, 475 Số-lượng: 1 General Motors 8-278A 1 Fairbank Morse 37F12 1 Union Diesel Mă-lực mỗi máy: 640 MÁY ĐIỆN HQ-470, 472, 475 HQ-471, 473, 474 Số-lượng: 2 3 Hiệu: General Motors 6-71RC7 DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 Sperry MK.18 MOD.1 hoặc MK.22 ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1500 Máy đo chiều sâu: 1 DE-721
VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly đơn: 2 Đại-liên 50: 2 Đại-liên 30: 2 TRUYỀN-TIN HQ-470 1 AN/PRC-25 1 TCE 1 TCS-14 1 RBH 1 AN/VRC-46 1 RBO 1 TED-9 1 R-390/URR 1 TED 1 AN/URC-58 HQ-471 2 TCS-12 1 AN/PRC-25 1 TCE 1 RBH 1 TED-9 1 R-390/URR 1 AN/URC-58 1 TCS-14 1 AN/VRC-46 HQ-472 2 TCS-12 1 AN/PRC-25 1 TCE 1 RBH 1 TCS-14 1 TED-9 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-35C 1 R-390/URR 1 TED 1 AN/URC-58 HQ-473 2 TCS-12 1 AN/PRC-25 1 TCE 1 RBH 1 AN/VRC-46 1 RBO 1 TED-9 1 AN/URC-35C 1 R-390/URR 1 AN/URC-58 1 TED HQ-474, 475 1 AN/PRC-25 1 TCE 1 RBH 1 TED-9 1 R-390/URR 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46
Thực-Vận-Hạm YFR - Refrigerated Covered Lighter
HQ-490
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 600 T Trọng-tấn tối-thiểu: 300 T Chiều dài: 45.75 m Chiều rộng: 9.15 m Tầm nước tối-đa: 2.74 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 4 Hạ-Sĩ-Quan: 11 Đoàn-Viên:14 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Chân-vịt: 2 Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 8-268A Mă-lực mỗi máy: 300 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 1 60KW GEN 120VDC 1 30KW GEN 120VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 44.424 T TRỌNG-TẢI 350 T ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1500 Máy đo chiều sâu: 1 DE-721 VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/VRC-46 1 AN/PRC-25
Duyên-Vận-Hạm UB - Utility Boat 100 FT.
HQ-454 HQ-455 HQ-456 HQ-458
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 325 T Trọng-tấn tối-thiểu: 200 T Chiều dài: 29.89 m Chiều rộng: 7.31 m Tầm nước tối-đa: 2.74 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 3 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 17 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 13 gút Tầm hoạt-động: 100 hải lư Chân-vịt: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 16-V-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 600 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 General Motors 3-71 30KW 120VAC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 79.545 T Nước ngọt: 113.636 T TRỌNG-TẢI 90 T ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1500 Máy đo chiều sâu: 1 DE-721 VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2 Đại-liên 30: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Giang-Vận-Hạm LCU - Landing Craft Utility
HQ-533 HQ-534 HQ-535 HQ-536 HQ-537 HQ-538 HQ-539 HQ-540 HQ-541 HQ-542 HQ-543 HQ-544 HQ-545 HQ-546 HQ-547 HQ-548
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 360 T Trọng-tấn tối-thiểu: 194.7 T Chiều dài: 36.44 m Chiều rộng: 10.58 m Tầm nước tối-đa: 1.58 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 2 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 18 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 10 gút Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 630 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 6 gút Tầm hoạt-động: 1,100 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm :5 gút Tầm hoạt-động: 1,250 hải-lư Chân-vịt: 3 - 3 cánh Đường kính: 0.95 m Bánh-lái: 3 MÁY CHÁNH Số-lượng: 3 General Motors 6-71 64YTL23 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 General Motors 2-71 120VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 13.352 T Nước ngọt: 36.152 T
TRỌNG-TẢI 155 T Khả-năng chở quân: 120 người (trung-b́nh) 170 người (tối-đa) 750 người (đi gần) DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 MK. E1 ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1900 VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly đơn: 2 Đại-liên 50: 2 BKP 60 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/URR-35 1 TCS-12-14 1 RBO 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 1 TED-7 1 R-390/URR GHI-CHÚ HQ-537 được cải-biến thành Cơ-Xường Nổi và gồm có những đặc-tính sau đây: Từ sống tầu đế nóc pḥng lái: 7.00 m Chiều cao của cột radar: 7.92 m Chiều cao của c̣i sân mũi: 7.46 m Chiều cao của cột cờ chánh: 12.20 m Cần trục: 50 T
Giang-Vận-Hạm YFU - Harbor Utility Craft
HQ-546 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 375 T Chiều dài: 38.06 m Chiều rộng: 10.98 m Tầm nước tối-đa: 1.52 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 1 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 17 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện :9 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 3 General Motors 6-71 64YTL23 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 General Motors 2-71 120VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 528.455 T TRỌNG-TẢI 334 T hoặc 350 đến 400 người VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2
Trục-Vớt-Hạm YLLC - Salvage Light Lift Craft
Biến-cải từ LCU HQ-560 HQ-561 HQ-562 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC HQ-560, 562 HQ-561 Trọng-tấn tối-đa: 415 T 417 T Trọng-tấn tối-thiểu: 370 T 372 T Chiều dài: 35.13 m 43.41 m Chiều rộng: 9.91 m 9.98 m Tầm nước tối-đa: 1.74 m 1.37 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 2 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 21 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG HQ-560, 562 HQ-561 Vận-tốc thực-hiện: 8 gút 7.5 gút Chân-vịt: 3 - 3 cánh 3 - 3 cánh Đường kính: 0.975 m 0.95 m Bánh-lái: 3 3 MÁY CHÁNH HQ-560, 562 HQ-561 Số-lượng: 3 General Motors 6-71 64YTL23 3 Gray Marine 6-71 Mă-lực mỗi máy: 225 225 MÁY ĐIỆN HQ-560, 562 Số-lượng: 2 20KW/120VDC GMC Diesel/ Delco Generator 2 200KW/440VAC GMC 8-268A/ Westinghouse Generator HQ-561 Số-lượng: 2 60KW/440VAC GMC 6-71 Diesel/ Delco Generator 2 200KW/440VAC GMC 8-268A/ Westinghouse Generator NHIÊN-LIỆU HQ-560 HQ-561 HQ-562 Dầu cặn: 69.772 T 78.518 T 73.151 T Nước ngọt: 27.015 T 55.322 T 27.015 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 TRUYỀN-TIN 1 AN/VRC-46 1 AN/URC-58 GHI-CHÚ Chiều cao từ làn nước tới nóc pḥng lái: 6 m Chiều cao của đèn hướng: 9.76 m Chiều cao của đèn mũi: 7.32 m Cột antenna cao nhất: 12.20 m Cần trục: 25 T
Kiểm-Báo-Hạm WLV - Lights Ship HQ-460
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 630 T Chiều dài: 40.60 m Chiều rộng: 9.14 m Tầm nước tối-đa: 3.90 m (trước mủi) 4.20 m (sau lái) VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 6,600 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 6 gút Tầm hoạt-động: 7,715 hải-lư MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Double Unit Mă-lực: 175 ĐIỆN-TỬ Radar: 2 SPS-53J Tầm hoạt-động lư-thuyết: 32 hải-lư Tầm hoạt-động thực-hiện: 15 hải-lư
Tuần-Duyên-Đĩnh WPB - Patrol Boat
HQ-700 - Lê-Phước-Đức HQ-701 - Lê-Văn-Ngà HQ-702 - Huỳnh-Văn-Cự HQ-703 - Nguyễn-Đào HQ-704 - Đào-Thức HQ-705 - Lê-Ngọc-Thanh HQ-706 -Nguyễn-Ngọc-Thạch HQ-707 - Đặng-Văn-Hoành HQ-708 - Lê-Đ́nh-Hưng HQ-709 – Trương-Tiên HQ-710 - Phan-Ngọc-Châu HQ-711 - Đào-Văn-Danh HQ-712 - Lê-Ngọc-An HQ-713 - Nguyễn-Văn-Ngàn HQ-714 - Trần-Lợi HQ-715 - Bùi-Viết-Thanh HQ-716 - Nguyễn-An HQ-717 - Nguyễn-Han HQ-718 - Ngô-Văn-Quyên HQ-719 – Văn-Diệm HQ-720 - Hồ-Đăng-La HQ-721 – Đàm-Thoại HQ-722 - Huỳnh-Bộ HQ-723 - Nguyễn-Kim-Hưng HQ-724 - Hồ-Duy HQ-725 – Trương-Ba.
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 67 T Trọng-tấn tối-thiểu: 57.5 T Chiều dài: 25.31 m Chiều rộng: 5.48 m Tầm nước tối-đa: 1.83 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 2 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 9 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 18 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 12 gút Tầm hoạt-động: 1,000 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Cummins Diesel VT12-600M Mă-lực mỗi máy: 600 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 25KW/ 450VAC Delco Model 1562M2 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 6.967 T Nước ngọt: 5.587 T ĐIỆN-TỬ Radar: 1 AN/SPS-53 Máy đo chiều sâu: 1 AN/SQN-13 VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 BKP 81 ly: 1 (gắn với khẩu đại-liên sân mũi) TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/URC-9 1 AS/390 SRC-UHF 1 AM-215 A/U Amplifier 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46
Trên: 5 chiếc Tuần-duyên-Đĩnh WPB đang nghỉ bến. Dưới: Tuần-duyên-Đĩnh mang quốc-kỳ Việt-Nam.
Duyên-Tốc-Đĩnh PCF - Patrol Craft Fast 03 Chiến-đĩnh - Từ HQ-3800 đến HQ-3937
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 22 T Chiều dài: 15.28 m (Mark I) Chiều rộng: 4.14 m 5.34 m (Mark II) Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 1 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 28 gút Vận-tốc đường-trường: 25 gút Tầm hoạt-động: 200 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 9.5 gút Tầm hoạt-động: 780 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.70 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 12V71N Diesels Mă-lực mỗi máy: 425 MÁY ĐIỆN Số-lượng:1 3KW/ 115VAC Onan Model 30JA 1 Alternator 1117096-24 VAC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 3.030 T Nước ngọt: 0.114 T ĐIỆN-TỬ Máy đo chiều sâu: 1 DE-736 VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/URC-58 1 AN/VRC-46
Duyên-Kích-Đĩnh CR/FC - Coastal Raider/ Ferro Cement
71 Chiến-đĩnh - Từ HQ-3200 trở lên Đóng tại Hải-Quân Công-Xưởng Sài-G̣n TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Vỏ tầu: Cement Trọng-tấn tối-đa: 31 T Chiều dài: 19.97 m Chiều rộng: 4.20 m Tầm nước tối-đa: 1.34 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 14 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesels Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng :2 12VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 4.193 T Nước ngọt:1.500 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 3 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Ghe Chủ-Lực - CJ - Command Junk
76 Chiến-đĩnh - Từ HQ-10000 đến 10085 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 19 T Chiều dài: 16.68 m Chiều rộng: 5.00 m Tầm nước tối-đa: 1.40 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 1 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 9 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 12 gút Tầm hoạt-động: 1,050 hải-lư Chân-vịt : 1 Đường kính: 0.76 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Gray Marine 6-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 225 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.984 T Nước ngọt: 0.454 T TRỌNG-TẢI 19.4 T hoặc 25 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 1 Đại-liên 30: 1 BKP 60 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Ghe Thiên-Nga - Junk Yabuta
151 Chiến-đĩnh - Từ HQ-12000 đến 12180 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 12 T Chiều dài: 16.01 m Chiều rộng: 3.23 m Tầm nước tối-đa: 1.40 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8.5 gút Tầm hoạt-động: 750 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 7.5 gút Chân-vịt : 1 Đường kính: 0.593 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 General Motors 3-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 68 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.189 T Nước ngọt: 0.397 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 1 Đại-liên 30: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Ghe Kiên-Giang - Junk Kiên-Giang
HQ-11104 HQ-11112 HQ-11121 HQ-11173 HQ-11237 HQ-11238 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 10 T Chiều dài: 11.43 m Chiều rộng: 2.59 m Tầm nước tối-đa: 0.79 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 10 gút Vận-tốc đường-trường: 8 gút Tầm hoạt-động: 1,000 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Gray Marine Diesel 4D277 hoặc Yanmar 2LE22 Mă-lực mỗi máy: 50 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.208 T Nước ngọt: 0.757 T TRỌNG-TẢI 8 T hoặc 12 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân VŨ-KHÍ Đại-liên 30: 1
Soái-Đĩnh Xung-Phong CDT - Commandement
Biến-cải từ LCM-6 13 Chiến-đĩnh - Từ HQ-6000 đến HQ-6013 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 65 T Chiều dài: 19.67 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.37 m Tầm nước tối-thiểu: 1.11 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan: 2 Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 165 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 6 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút Tầm hoạt-động: 400 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesels Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 4 20KW/ 115VAC General Motors 2-71 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 3.125 T Nước ngọt: 0.284 T ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1900 VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly: 2 Đại-liên M60: 2 Súng phóng-lựu: 1 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/URC-34 2 TCS-12
Soái-Đĩnh Thuỷ-Bộ CCB - Command Communication Boat
HQ-6100 HQ-6101 HQ-6102 HQ-6103 HQ-6104 HQ-6105 HQ-6106 HQ-6107 HQ-6108 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 90 T Chiều dài: 18.45 m Chiều rộng: 5.32 m Tầm nước tối-đa: 1.06 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 11 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 165 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 6 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Diesel Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 12VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.705 T Nước ngọt: 0.284 T ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon 1900 La-bàn điện: 1 MK-27 VŨ-KHÍ HQ-6100, 6101, 6103, 6104 HQ-6102, 6105, 6106, 6107, 6108 Đại-bác 40 ly: 1 Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 1 Đại-liên MK-16: 2 2 Đại-liên M-60: 2 Súng phóng-lựu: 1 1 TRUYỀN-TIN 2 AN/PRC-25 4 AN/VRC-46 1 AN/GRC-106 1 AN/PRC-41 GHI-CHÚ: Chỉ riêng pḥng chỉ-huy của HQ-6102, 6103, 6106, 6107 và 6108 được trang-bị hệ-thống điều-hoà không-khí.
Tiền-Phong-Đĩnh - LCM - Monitor
Biến-cải từ LCM-6 23 Chiến-đĩnh: Từ HQ-6500 đến HQ-6523 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 56.5 T Trọng-tấn tối-thiểu: 47 T Chiều dài: 17.23 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.31 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 10 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Vận-tốc đường-trường: 7.5 gút Tầm hoạt-động: 165 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 12VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 3.125 T Nước ngọt: 0.189 T VŨ-KHÍ Đại-bác 40 ly: 1 Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 1 Đại-liên 30: 2 Súng phóng-lựu: 1 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 TCS-12 Tiền-Phong-Đĩnh Thuỷ-Bộ - Monitor
Biến-cải từ LCM-6 HQ-6524 HQ-6526 HQ-6527 HQ-6528 HQ-6529 HQ-6530 HQ-6531 HQ-6532 HQ-6536 HQ-6537 HQ-6538 HQ-6539 HQ-6540 HQ-6543 HQ-6544 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 86 T (90 T với Đại-bác HOWITZER) Trọng-tấn tối-thiểu: 55 T Chiều dài: 18.45 m Chiều rộng: 5.32 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 11 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện :8 gút Tầm hoạt-động: 165 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 24 Volt Alternator NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 3.257 T Nước ngọt: 0.189 T VŨ-KHÍ HQ-6530, 6531, 6536, 6538 HQ-6524, 6526, 6527, 6528 6539, 6540, 6543, 6544 6529, 6532, 6537 Đại-bác 105 ly: 1 Đại-bác 40 ly: 1 Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 1 Đại-liên M-60: 2 Súng phóng-lựu: 1 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 2 AN/VRC-46
Phóng-Hoả-Đĩnh - Zippo
HQ-6525 HQ-6534 HQ-6535 HQ-6541 HQ-6542 HQ-6545 Phóng-Hoả-Đĩnh Thuỷ-Bộ là loại Tiền-Phong-Đĩnh-Thuỷ Bộ, trên đó, dàn súng trước mũi được thay-thế bởi 2 ống phóng-hoả.
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 90 T Chiều dài: 18.45 m Chiều rộng: 5.32 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 8 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện :8 gút Tầm hoạt-động: 165 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 24 Volt Alternator NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 3.257 T Nước ngọt: 0.189 T VŨ-KHÍ HQ-6525, 6535 HQ-6534, 6541, 6542, 6545 Đại-bác 40 ly: 1 Đại-bác 20 ly: 1 2 Đại-liên 50: 2 (1 khẩu được gắn cùng với đại-bác 40 ly) Đại-liên M-60: 4 2 Hệ-thống phóng-hoả: 1 1 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 2 AN/VRC-46 GHI-CHÚ Hầm NAPALM: 5.117 T Giới-hạn thời-gian phóng-hỏa: 225 giây Tầm phóng-hoả với 90% nhiên-liệu: 140m Tầm phóng-hoả với 10% nhiên-liệu: 160m
Phóng-Hỏa-Đĩnh đang phun lửa hoả-thiêu một đoạn bờ-sông nghi-ngờ có địch ẩn-trú.
Phóng-Thuỷ-Đĩnh ATC - Douche and Dredge
HQ-1273 HQ-1299
Phóng-Thuỷ-Đĩnh được biến-cải từ loại Quân-Vận-Đĩnh Tác-chiến trang-bị thêm 1 máy 12V-71 Diesel, 1 bồn chứa nước và 1 máy bơm ly-tâm. Với tốc-độ 2,100 ṿng/phút, trong 1 phút, khoảng 7,578 T nước được bơm tới một đầu ống phân chia ḍng nước thành 2 ṿi bắn xa tới 200 thước. Phóng-Thuỷ-Đĩnh có thể khai-quang cây cối trong khoảng cách 75 thước, phá-huỷ các pháo-đài trong khoảng 100 thước, và các ḿn-bẫy trong khoảng 200 thước.
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC HQ-1273 HQ-1299 Trọng-tấn tối-đa: 90 T 100 T Tầm nước tối-đa: 1.52 m 1.83 m Chiều dài: 17.08 m Chiều rộng: 5.32 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 7 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG HQ-1273 HQ-1299 Vận-tốc thực-hiện: 7 gút 5 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 24 Volt Alternator NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.704 T VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly đơn: 1 Đại-liên 50: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 2 AN/VRC-46
Những hầm-hố tương-tự loại này bị Phóng-Thuỷ-Đĩnh làm sụp-đổ dễ-dàng
Trợ-Chiến-Đĩnh ASPB - Assault Support Patrol Boat 81 Chiến-đĩnh: Từ HQ-5100 đến HQ-5183
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 29.5 T Chiều dài: 15.31 m Chiều rộng: 4.78 m Tầm nước tối-đa: 1.13 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 15 Vận-tốc thực-hiện: 14.8 gút Tầm hoạt-động: 200 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.75 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Detroit Diesels 12V71N Mă-lực mỗi máy: 425 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 2KW 24 Volt DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH La-bàn điện: 1 Magnesyn Máy đo chiều sâu: 1 ĐIỆN-TỬ Radar: 1 Raytheon Pathfinder 1900N NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 2.348 T Nước ngọt: 0.100 T VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 2 Súng phóng-lựu: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 2 AN/VRC-46
Tiểu-Giáp-Đĩnh - STCAN (FOM)
41 Chiến-đĩnh: Từ HQ-5000 đến HQ-5045 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 13 T Trọng-tấn tối-thiểu: 11 T Chiều dài: 10.61 m Chiều rộng: 3.01 m Tầm nước tối-đa: 0.91 m VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 10 gút Tầm hoạt-động: 125 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 8 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút Chân-vịt: 1 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 General Motors 6-71 Diesel hoặc 1 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.758T Nước ngọt: 0.038 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 1 Đại-liên 30: 3 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/URC-34
Tuần-Giang-Đĩnh RPC - River Patrol Craft
27 Chiến-đĩnh: Từ HQ-7000 đến HQ-7028 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 14.6 T Trọng-tấn tối-thiểu: 11.6 T Chiều dài: 10.94 m Chiều rộng: 3.17 m Tầm nước tối-đa: 1.06 m VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 13 gút Tầm hoạt-động: 200 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.568 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesel hoặc 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.704T Nước ngọt: 0.038 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 Có thể trang-bị thêm 1 Đại-liên 50 trên nóc pḥng lái. TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Giang-Tốc-Đĩnh PBR - Patrol River Boat
300 Chiến-đĩnh: Từ HQ-7500 đến HQ-7825 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC MARK I MARK II Trọng-tấn: 7.2 T 8.3 T Tầm nước tối-đa: 0.67 m 0.61 m Chiều dài: 9.45 m 9.52 m Chiều rộng: 3.26 m 3.50 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 4 hoặc 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 25 gút Tầm hoạt-động: 100 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút Tầm hoạt-động: 250 hải-lư MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6V53N Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 24 Volt DC MÁY ĐẨY Số-lượng: 2 Jacuzzi Water Jet MK.4 Model 14WH NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.606 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 3 Đại-liên M-60: 2 Súng phóng-lựu M-79: 2 PBR MARK II: BKP 61 ly hoặc súng phóng-lựu MK-19 có thể được thay-thế cho đại-liên 50 sau lái. TRUYỀN-TIN 2 AN/PRC-25 2 AN/VRC-46
Quân-Vận-Đĩnh 6 - LCM-6 Landing Craft Mechanized-6 Combat
108 Chiến-đĩnh - Từ HQ-1500 đến HQ-1630 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Loại thường Loại tác-chiến Trọng-tấn tối-đa: 62 T 51 T Trọng-tấn tối-thiểu: 28 T 28 T Chiều dài: 17.11 m 17.11 m Chiều rộng: 4.27 m 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.22m 1.31 m NHÂN-VIÊN Loại thường Loại tác-chiến Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 7 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Loại thường Loại tác-chiến Vận-tốc thực-hiện: 9 gút 8 gút Tầm hoạt-động: 130 hải-lư 160 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m 0.61 m Bánh-lái: 2 2 MÁY CHÁNH Loại thường Loại tác-chiến Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 2 General Motors 6-71 Diesels Mă-lực mỗi máy: 225 225 MÁY ĐIỆN Số-lượng: 2 - 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Loại thường Loại tác-chiến Dầu cặn: 1.765 T 3.125 T Nước ngọt: 0.189 T TRỌNG-TẢI ە Loại thường: 30.840 T hoặc 80 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. Loại thường: 30 T hoặc 50 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. VŨ-KHÍ Loại thường Loại tác-chiến Đại-bác 20 ly: 3 Đại-liên 50: 4 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46 GHI-CHÚ Đặc-tính của Quân-Vận-Đĩnh loại thường. Cần trục: 23.648 T Kích-thước của hầm chứa hàng: - Chiều dài: 11.83 m - Chiều ngang: 3.32 m - Chiều sâu: 1.89 m - Chiều ngang của cửa đổ-bộ: 3.32 m
HQCX cải-biến rất nhiều LCM cho Giang-lực
Quân-Vận-Đĩnh 3 - LCM-3 Landing Craft Mechanized-3
25 Chiến-đĩnh - Từ HQ-1016 đến HQ-1041 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 56 T Chiều dài: 15.28 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.40m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 9.5 gút Tầm hoạt-động: 130 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.704 T Nước ngọt: 27.3 T TRỌNG-TẢI 27.127 T hoặc 1 Chiến-xa 30 T hoặc 60 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
GHI-CHÚ Khả-năng nâng hàng: 22.906 T Kích-thước của hầm chứa hàng: - Chiều dài: 9.76 m - Chiều ngang: 3.32 m - Chiều sâu: 1.92 m - Chiều ngang của cửa đổ-bộ: 3.32 m
Các thành-phần LCM 3 theo tiếng Anh. Sau khi cải-biến, h́nh-dạng chiến-đĩnh hoàn-toàn đổi khác, rất khó nhận ra.
Quân-Vận-Đĩnh Tác-chiến ATC - Armored Troop Carrier
94 Chiến-đĩnh - Từ HQ-1200 đến HQ-1299 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 58 T Chiều dài: 17.08 m Chiều rộng: 5.32 m Tầm nước tối-đa: 1.37 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 7 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8.5 gút Tầm hoạt-động: 165 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 6 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút Tầm hoạt-động: 400 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.704 T Nước ngọt: 0.189 T TRỌNG-TẢI 11 T hoặc 40 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 2 Đại-liên M-60: 4 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 2 AN/VRC-46
Quân-Vận-Đĩnh 8 - LCM-8 Landing Craft Mechanized 8
50 Chiến-đĩnh - Từ HQ-8000 đến HQ-8050 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 141 T Trọng-tấn tối-thiểu: 67 T Chiều dài: 22.44 m Chiều rộng: 6.39 m Tầm nước tối-đa: 1.58 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 12 gút (9 gút khi đă chở hàng) Vận-tốc đường-trường: 10 gút Tầm hoạt-động: 190 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.85 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 dàn Diesel Propulsion, mỗi dàn gồm 2 General Motors 6-71 Model 12005A và 12006A Mă-lực mỗi trục láp: 300 MÁY ĐIỆN 2- 1KW 24VDC Alternators NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 4.356 T Nước ngọt: 1.003 T TRỌNG-TẢI 60 T hoặc 150 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly: 2 Đại-liên 50: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 GHI-CHÚ Kích-thước của hầm chứa hàng: - Chiều dài: 12.96 m - Chiều ngang: 4.36 m - Chiều sâu: 1.37 m - Chiều ngang của cửa đổ-bộ: 4.32 m
HQ-8048, 8049 và 8050 được biến-cải thành Trục-Vớt-Đĩnh và có thêm các đặc-tính dưới đây. - Chiều dài: 23.36 m - Từ sống tầu đến nóc pḥng lái: 5.18 m - Từ sống tầu đến nóc sườn tầu: 4.88 m - Từ sống tầu đến chót cột ăng-ten: 7.61 m - Cần trục: 50 T
Tiểu-Vận-Đĩnh LCVP - Landing Craft Vehicle Personnel
61 Chiến-đĩnh - Từ HQ-2000 trở lên TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Loại vỏ gỗ Loại vỏ gỗ bọc sắt Trọng-tấn tối-đa: 13.3 T 15 T Trọng-tấn trung-b́nh: 8.2 T Trọng-tấn tối-thiểu: 11 T Chiều dài: 10.85 m 10.91 Chiều rộng: 3.20 m 3.20 T Tầm nước tối-đa: 1.03 m 1.28 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 4 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Loại vỏ gỗ Loại vỏ gỗ bọc sắt Vận-tốc thực-hiện: 9 gút 7 gút Tầm hoạt-động: 110 hải-lư 120 hải-lư Chân-vịt: 1 - 3 cánh 1 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m 0.61 m Bánh-lái: 1 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Gray Marine 64HN9 Mă-lực: 225 MÁY ĐIỆN 1- 12 Volt DC hoặc 1- 24 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.685 T Nước ngọt: 0.038 T TRỌNG-TẢI ە Loại vỏ gỗ: 4 T hoặc 36 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. Hầm chứa hàng: - Chiều dài: 5.555 m - Chiều rộng: 1.93 m - Chiều cao: 1.42 m ە Loại vỏ gỗ bọc sắt: 4.2 T hoặc 36 binh-sĩ với đồ trang-bị tác-chiến cá-nhân. TRUYỀN-TIN: 1 AN/PRC-25 1 AN/URC-34
Hoả-Vận-Đĩnh - LCM-Recharger
Biến-cải từ LCM-6 HQ-9173 HQ-9174 HQ-9175 HQ-9176 HQ-9177 HQ-9178 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 62 T Chiều dài: 17.11 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 9 gút Tầm hoạt-động: 130 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2 TRUYỀN-TIN: 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46
Hoả-Vận-Đĩnh - LCM-Refueler
Biến-cải từ LCM-6 10 Chiến-đĩnh: Từ HQ-9150 đến HQ-9172 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 77.5 T Chiều dài: 17.11 m Chiều rộng: 5.32 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 7 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Các Hoả-Vận-Đĩnh HQ-9153, 9154 và 9155 không có động-cơ Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 4.545 T Nhớt: 1.136 T Hầm chứa hỗn hợp: 1.894 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Trục-Vớt-Đĩnh CSB - Combat Salvage Boat
Biến-cải từ LCM HQ-1400 HQ-1401 HQ-1402 HQ-1403 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 98 T Chiều dài: 21.01 m Chiều rộng: 5.57 m Tầm nước tối-đa: 2.28 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 9 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 7 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 5 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 1 115 KW Bushless 3 Phases 1 15 KW Bushless 2-53 Diesel BƠM CỨU HỎA Hercules 6 cylinders, 3.789 T/Phút VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 TRUYỀN-TIN 1 AN/VRC-46 CẦN TRỤC 12 T
Hải-Kích-Đĩnh HSSC - Heavy Seal Support Craft
Biến-cải từ LCM-3 và LCM-6 7 Chiến-đĩnh: Từ HQ-1617 đến HQ-1624
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 65 T Chiều dài: 17.11 m Chiều rộng: 4.36 m Tầm nước tối-đa: 1.70 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 1 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 8 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc lư-thuyết: 6 gút Vận-tốc thực-hiện: 6 gút Vận-tốc đường-trường: 4 gút Chân-vịt: 2 Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 3- 24 Volt Alternators, cường độ 60 Amperes VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 6 Đại-liên M-60: 1 Súng phóng-lựu: 2 BKP 81 ly: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/VRC-46
Cứu-Hoả-Đĩnh - LCM – Fire
Biến-cải từ LCM-6 HQ-1014 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Chiều dài: 17.11 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.18 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 4 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 9 gút Tầm hoạt-động: 130 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC TRUYỀN-TIN 1 AN/URC-34
Duyên-Vận-Đĩnh UB 50 Ft. - Utility Boat
HQ-4000 HQ-4001 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 21.587 T Chiều dài: 15.26 m Chiều rộng: 4.45 m Tầm nước tối-đa: 1.23 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 4 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 11 gút Tầm hoạt-động: 150 hải-lư Chân-vịt: 1 Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.643 T
Trợ-Vận-Đĩnh Trung-Hạng YTM - Medium Harbor Tug
HQ-9550 HQ-9551 HQ-9552
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 340 T Trọng-tấn tối-thiểu: 240 T Chiều dài: 30.80 m Chiều rộng: 8.50 m Tầm nước tối-đa: 3.30 m VẬN-TỐC Vận-tốc tối-đa: 11 gút Chân-vịt: 1 Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Fairbanks Morse Mă-lực mỗi máy: 800 MÁY ĐIỆN 1 20 KW DC Generator, 120 Volt NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 68.939 T
Trợ-Vận-Đĩnh Tiểu Hạng YTL - Small Harbor Tug
HQ-9500 -HQ-9501-HQ-9502-HQ-9503-HQ-9504 HQ-9507-HQ-9508-HQ-9509-HQ-9510-HQ-9511 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 80 T Trọng-tấn tối-thiểu: 70 T Chiều dài: 20.16 m Chiều rộng: 5.48 m Tầm nước tối-đa: 2.44 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 1 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 4 VẬN-TỐC Vận-tốc thực-hiện: 10 gút Vận-tốc đường-trường: 8 gút Chân-vịt: 1- 4 cánh Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Cooper Bessemer Mă-lực mỗi máy: 450 MÁY ĐIỆN 2 20 KW AC Generator, 120 Volt NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.757 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 2
Quân-Vận-Đĩnh Đẩy LCM - Pusher
Biến-cải từ LCM-6 HQ-1002 HQ-1004 HQ-1013 HQ-1015
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 62 T Chiều dài: 17.11 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 9 gút Tầm hoạt-động: 130 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Tiểu-Vận-Đĩnh Đẩy LCVP/P - LCVP Pusher
HQ-2002-HQ-2008-HQ-2009-HQ-2013-HQ-2067
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Chiều dài: 10.85 m Chiều rộng: 3.20 m Tầm nước tối-đa: 1.03 m NHÂN-VIÊN Nhân-viên: 1 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 9 gút Chân-vịt: 1 - 3 cánh Đường kính: 0.55 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.685 T
Trục-Lôi-Đĩnh Trợ-Chiến MSR - Minesweeper River
Biến-cải từ ASPB HQ-1900 HQ-1901 HQ-1902 HQ-1903 HQ-1904 HQ-1905 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 37.5 T Chiều dài: 15.25 m Chiều rộng: 5.23 m Tầm nước tối-đa: 1.31 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 6 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 12 gút Tầm hoạt-động: 96 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 12-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 400 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 2.385 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46
Trục-Lôi-Đĩnh Trung-Hạng MSM - Minesweeper Mechanized
Biến-cải từ LCM HQ-1701 HQ-1702 HQ-1703 HQ-1704 HQ-1705 HQ-1706 HQ-1707 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 62 T Trọng-tấn tối-thiểu: 26 T Chiều dài: 17.08 m Chiều rộng: 5.63 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 4 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 90 hải-lư Vận-tốc tiết-kiệm: 6 gút Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.761 T Nước ngọt: 0.227 T VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 1 Súng phóng-lựu M-79: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25 1 AN/VRC-46
Trục-Lôi-Đĩnh Quân-Vận LCMMS - Landing Craft Mechanized Minesweeper
Biến-cải từ LCM HQ-1800 HQ-1801 HQ-1802 HQ-1803 HQ-1804 HQ-1805 TR NG TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 61 T Chiều dài: 17.11 m Chiều rộng: 4.27 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 6 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 8 gút Tầm hoạt-động: 130 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 3.125 T Nước ngọt: 0.189 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 3 Đại-liên M-60: 1 Súng phóng-lựu M-79: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Trục-Lôi-Đĩnh MLMS - Motor Launch Minesweeper
10 Chiến-đĩnh: Từ HQ-150 đến HQ-160 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 25 T Trọng-tấn tối-thiểu: 11.5 T Chiều dài: 15.28 m Chiều rộng: 3.96 m Tầm nước tối-đa: 1.22 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 12 gút Tầm hoạt-động: 300 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 10 gút Vận-tốc tiết-kiệm: 8 gút Chân-vịt: 1 - 3 cánh Đường kính: 0.73 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 General Motors 6-71 Diesel hoặc 1 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 12 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.910 T VŨ-KHÍ Đại-liên 30: 1 Súng phóng-lựu M-79: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Cảng-Thám-Đĩnh - Picket Boat
24 Chiến-đĩnh: Từ HQ-3100 đến HQ-3125 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 16.9 T Trọng-tấn tối-thiểu: 15 T Chiều dài: 13.99 m Chiều rộng: 4.20 m Tầm nước tối-đa: 1.15 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 5 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 20 gút Tầm hoạt-động: 200 hải-lư Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.525 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 Gray Marine 64HN9 Mă-lực mỗi máy: 225 MÁY ĐIỆN 2- 24 Volt DC Alternators NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 1.420 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/VRC-46
Cảng-Pḥng-Đĩnh LCCPL - Landing Craft Personnel Large
23 Chiến-đĩnh: Từ HQ-2900 đến HQ-2923
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 10 T Chiều dài: 10.98 m Chiều rộng: 4.11 m Tầm nước tối-đa: 1.18 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 1 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 7 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 19 gút Tầm hoạt-động: 160 hải-lư Vận-tốc đường-trường: 17 gút Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 1 MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 General Motors 6121T Diesel Mă-lực mỗi máy: 300 MÁY ĐIỆN 1- 24 Volt DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.606 T Nước ngọt: 0.038 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 1 Đại-liên 30: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/VRC-46 1 AN/PRC-25
Truy-Kích-Đĩnh - Vedette
4 Chiến-đĩnh: Từ HQ-3000 trở lên 15 Chiến-đĩnh: Từ HQ-3600 trở lên 1 Chiến-đĩnh: HQ-3700 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC HQ-3000 HQ-3600 HQ-3700 Trọng-tấn tối-đa: 10 T 16 T 27 T Chiều dài: 12.04 m 13.42 m 16.47 m Chiều rộng: 3.35 m 3.23 m 3.59 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 7 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG HQ-3000 HQ-3600 HQ-3700 Vận-tốc lư-thuyết: 18 gút 10 gút 12 gút Chân-vịt: 2 - 3 cánh Đường kính: 0.61 m Bánh-lái: 2 MÁY CHÁNH Số-lượng: 2 General Motors 6-71 Diesel Mă-lực mỗi máy: 225 VŨ-KHÍ Đại-bác 20 ly: 1 Đại-liên 50: 1 Đại-liên 30: 2 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Khinh-Tuần-Đĩnh - Boston Whaler
52 Chiến-đĩnh: Từ HQ-3500 đến HQ-3551 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 1.316 T Chiều dài: 5.09 m Chiều rộng: 1.89 m Tầm nước tối-đa: 0.65 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 2 hoặc 3 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 42 gút Vận-tốc đường-trường: 25 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 hoặc 2 máy Johnson hoặc Evinrude Outboard Mă-lực mỗi máy: 40 DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH 1 La-bàn nam-châm Ritchie VŨ-KHÍ Đại-liên M-60: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Xung-Kích-Đĩnh - VIPER
6 Chiến-đĩnh
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 4.2 T Chiều dài: 8 m Chiều rộng: 2.80 m Tầm nước tối-đa: 0.50 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 3 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc khi chở đầy: 20.5 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 6V53 Diesel, bơm phản-lực Jacuzzi NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 0.265 T
Xuồng Đồng-Nai - Skimmer
33 Chiến-đĩnh: Từ X800 đến X812, và từ X814 đến X833
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 1.316 T Chiều dài: 5.09 m Chiều rộng: 1.89 m Tầm nước tối-đa: 0.65 m NHÂN-VIÊN Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 2 hoặc 3 VẬN-TỐC VÀ TẦM HOẠT-ĐỘNG Vận-tốc thực-hiện: 42 gút Vận-tốc đường-trường: 25 gút MÁY CHÁNH Số-lượng: 1 hoặc 2 máy Johnson hoặc Evinrude Outboard Mă-lực mỗi máy: 40 DỤNG-CỤ HẢI-HÀNH 1 La-bàn nam-châm Ritchie VŨ-KHÍ Đại-liên M-60: 1 TRUYỀN-TIN 1 AN/PRC-25
Cơ-Xưởng Nổi YR - Floating Repair
HQ-9601 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 720 T Chiều dài: 45.75 m Chiều rộng: 10.98 m Tầm nước tối-đa: 1.83 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 11 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 124 MÁY ĐIỆN 3 Cummins HSGAD-602 2 General Motors 4-71RC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 164.587 T Nước ngọt: 113.636 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 Đại-liên M-60: 2
Cơ Xưởng Nổi YR – Chessman
HQ-9602 Biến-cải từ một phà chở xe
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 650 T Chiều dài: 54.90 m Chiều rộng: 15.25 m Tầm nước tối-đa: 2.89 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 11 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 124 MÁY CHÁNH 1 Union Diesel Z-6 Mă-lực: 800 Chân-vịt: 1 Đường kính: 1.95 m MÁY ĐIỆN 2 25KW Generator 120V DC Columbia Electric
Câu-Lạc-Bộ Nổi FNC - Floating Naval Club HQ-9603 Câu lạc Bộ Nổi HQ-9603 được biến-cải từ một LST. Động-cơ và các đồ trang-bị đều được tháo-gỡ. Phần boong chánh trở lên được cắt-bỏ và kiến-trúc thành Câu-Lạc-Bộ nổi để dùng vào việc hội-họp hoặc tiếp-tân.
KÍCH-THƯỚC Chiều dài: 75 m Chiều rộng: 15.10 m Tầm nước: 1.20 m Pḥng hội: 34 m dài, 12.50 m rộng
Tạm-Trú Nổi APL - Auxiliary Personnel Lighter HQ-9050 HQ-9051 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 2,580 T Chiều dài: 79.60 m Chiều rộng: 14.60 m Tầm nước tối-đa: 3.40 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 3 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 49 MÁY ĐIỆN Máy chánh: 2 Máy cấp-cứu: 1 MÁY CẤT-NƯỚC : 2 NỒI HƠI : 1 NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 253.500 T Nước ngọt: 946.984 T GHI-CHÚ Không động-cơ Có hệ-thống điều-hoà không-khí Khả-năng cung-cấp Tiện-nghi: 600 người. Cơ-Xưởng Nổi YRBM - Repair, Berthing and Messing Barge
HQ-9610 HQ-9611 HQ-9612 HQ-9613
TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 2,211 T Trọng-tấn tối-thiểu: 1,125 T Chiều dài: 79.60 m Chiều rộng: 14.64 m Tầm nước tối-đa: 2.34 m Tầm nước tối-thiểu: 1.28 m NHÂN-VIÊN Sĩ-Quan: 6 Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên: 93 MÁY ĐIỆN 4 200KW 450V General Motors 8-268A 1 60KW MG 240V DC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 587.121 T Nước ngọt: 295.454 T VŨ-KHÍ Đại-liên 50: 4 Đại-liên M-60: 6 BKP 81 ly: 4 TRUYỀN-TIN 4 AN/VRC-46 4 AN/PRC-25 LINH TINH Cần trục: 20 T Tiện-nghi: 278 người
Thuỷ-Thành AFDL - Small Auxiliary Floating Drydock
HQ-9600 HQ-9604 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 800 T Chiều dài: 61 m Chiều rộng: 19.39 m Tầm nước tối-đa: 1.06 m GHI-CHÚ Không động-cơ và bánh-lái Khả-năng nâng hàng trung-b́nh: 1,000T Xưởng máy: 1 Cần trục: 117.93T Khả-năng chứa nhiên-liệu: 23.484T.
Cần Trục Nổi YD - Floating Crane HQ-9650 TRỌNG-TẤN VÀ KÍCH-THƯỚC Trọng-tấn tối-đa: 1,845 T Trọng-tấn tối-thiểu: 1,000 T Chiều dài: 43.31 m Chiều rộng: 17.69 m Tầm nước tối-đa: 1.55 m Tầm nước tối-thiểu: 1.07 m MÁY CHÁNH 1 Chicago Pneumatic Mă-lực: 250 MÁY ĐIỆN Máy chánh: 1 150KW 120/240 VDC Máy phụ: 1 Nordberg 4FS2 10KW 120/240 VDC NHIÊN-LIỆU Dầu cặn: 6.932 T Nước ngọt: 2.272 T CẦN-TRỤC Khả-năng: 60 T. tại khoảng 22.23 m Tầm hoạt-động: Từ khoảng 12.94 m đến 22.23 m Ṿng hoạt-động: 360 độ. Phụ-
Các Chiến-đĩnh Giang-Lực tại Việt-Nam 1946-1953.
Loại chiến-đĩnh Hải-quân) 12/46 10/47 6/48 12/48 6/49 12/50 12/51 12/52 12/53 LCT Mk.4 4 4 6 9 9 10 11 13 13 LCT (6) 4 5 5 5 5 4 4 4 3 LCI 6 9 9 9 10 10 9 7 4 LSIL - - - - - 3 3-5 4-5 11 LCG - - - 1 1 1 1 1 1 LSSL - - - - - 6 6 6 6 LCM Monitor - - - - - - 2 9 14 LCM Command Boat - - - - - - - 8 5 LCM 3 & LCM 6 28 28 29 38 37 51 82 78 91 LCM Mk.1 8-10 ? ? ? - - - - - LCVP & EA (from 1950) 32 32 34 46 28 91 89 90 88 LCA 26 23 21 21 20 13 2 - - LCS(M) 2 2 - - - - - - - VP 8 8 11 11 13 16 17 17 19 MFV 6 5 6 6 6 6 6 - - YTL - - - - - - - 14 14 Y Cutter - - - - - - - 18 18 Armoured Barge 6 5 6 4 4 2 2 1 - Armed Junk 5 2 2 2 1 - - - - Chiến-đĩnh (Lục-quân)
Vedette FOM 8m - - - - ? ? ? ? 44 Vedette FOM 11m - - - - ? ? ? ? 45 Vedette Vietnam (V.V.). - - - - 24 24 24 - - CB (Chaland Blindé) Công-Binh - 1 5 5 5 - - - - PB (Pinasse Blindée) Công-Binh - 2 5 5 5 - - - -
H́nh-ảnh các chiến-đĩnh này được tŕnh-bày theo thứ-tự trong những trang dưới đây.
Phụ-Bản 5 Văn-Bằng Hải-Quân và Liên-Quân
hụ-Bản 6
Huy-Hiệu các Đơn-Vị Hải-Quân và Liên-Quân
Bộ Huy-Hiệu QL Việt-Nam Cộng-Ḥa
Phù-Hiệu QLVNCH Quân-Huy VNCH Bộ TTM
Cục Công-Binh Cục Mai-Dịch Cục Quân-Cụ Cục Quân-Nhu Cục Quân-Nhu 2 Cục Quân-Y
Cục Truyền-Tin Nha Động-Viên Nha HCTC Nha Quân-Pháp Nha Động-Viên Hành-Chánh Tài-Chánh
BTL/KQ Hải-Quân TQLC Địa-Phương-Quân Nhẩy-Dù LLDB
TCCTCT TCCH Công-Giáo Phật-Giáo Tin-Lành QTV
Xă-Hội Tổng-Quản-Trị Nha Kỹ-Thuật Vơ-Bị QG Đà-lạt Vơ-Khoa Thủ-Đức Đồng-Đế
Quân-Đoàn I Quân-Đoàn II Quân-Đoàn III Quân-Đoàn IV
Biệt-Động-Quân Công-Binh Công-Binh Chiến-Đấu (NKT) Hắc-Long Phù-Hiệu KQ Kepi KQ
NKT Lôi-Hổ MAC SOG Pháo-Binh Quốc-Gia Nghiă-Tử Quân-Cảnh Quân-Nhạc
Bằng RNSL TD 93/BDQ BKTD Biệt-Hải Beret BDQ Beret LLDB
Người-Nhái Sở PV Duyên-Hải
Quân-Vận Quân-Viện Quân-Y Cảnh-Sát QG Cảnh-Sát Dă-Chiến CTCT/HQ
LD81/BCD SD 1 SD 2 SD 3 SD 5 SD 7
SD 9 SD 18 SD 21 SD 22 SD 23 SD 25
Thần-Phong SD 2 (KQ) Căn-Cứ 92 TQLC TQLC Beret TQLC
Đại-Học Quân-Sự (CHTM) Trường CSQG ĐH CTCT Trường SQ/HSQ Trường Nữ-Quân-Nhân Trường Pháo-Binh
Trường Quân-Báo Trường QY Trường Sinh-Ngữ QD Trường TG Trường TSQ Trường TQT
TTHL Dống-Đa Trường TT TTHL Quang-Trung TTHL Vạn-Kiếp TTHL Hải-Quân TTHL Không-Quân TTHL DD
Quân-Chủng Không-Quân
6 Sư-Đoàn Không-Quân QLVNCH
Phụ-Bản 7 Quân-phục, Cấp-bậc, Phù-Hiệu Chuyên-nghiệp HQVNCH Bài viết chính: Trần-Chấn-Hải, H́nh-ảnh phụ: graphic Vũ-Hữu-San
Quân-phục HQVNCH thay-đổi qua từng giai-đoạn. Chúng ta có thể chia những giai-đoạn sau đây: I - Giai-đoạn H́nh-thành: Quân-phục Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan, Thuỷ-Thủ của Hải-Quân Việt-Nam ảnh-hưởng của quân-phục Hải-Quân Pháp gồm quân-phục làm việc, dạo-phố mùa hè, giao-mùa, mùa đông, dạ-hội. Quân-phục lúc tầu ra khơi, về bến, dạo phố thường là tiểu-lễ cho cả SQ, HSQ, Thuỷ-Thủ, v́ Việt-Nam nằm trong vùng khí-hậu nhiệt-đới. Quân-phục Làm Việc: Sĩ-Quan: áo ngắn hoặc dài tay, quần dài màu tím xám, thắt lưng đen, nón trắng, giầy đen. Hạ-Sĩ-Quan: mặc giống như Sĩ-Quan. Thuỷ-Thủ: mặc áo xám, cổ vuông có viền trắng, đội nón tṛn trắng, ngù đen. Khi hải-hành thường đội mũ lưỡi trai bằng vải hoặc nỉ. Về quân-phục mùa Đông, Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan có áo dạ dài (manteau), mỗi bên 4 nút đồng trước 1955, sau đó đổi lại c̣n 3 nút đồng. Thuỷ-Thủ mặc áo dạ dày ngắn khoảng đầu gối, nút đen lớn (giống như áo peacoat của HQ Mỹ). Thuỷ-Thủ mặc áo nỉ đen có vạt sau vuông viền hai sọc trắng, thắt ca-vát đen, quần vải khaki trắng cho quân-phục giao-mùa, quần nỉ ống rộng đen cho mùa Đông, với nón polo trắng. Thuỷ-Thủ mặc quân-phục làm việc xám xanh và cũng đội nón màu xám hoặc trắng. Khác với nón Thuỷ-Thủ Mỹ, nón Thuỷ-Thủ Việt-Nam có thêu phù-hiệu hai mỏ neo bắt chéo trong viền lúa xanh nước biển Quân-phục Tiểu-lễ: Sĩ-Quan áo ngắn tay trắng, quần dài, hoặc quần soọc trắng, các Sĩ-Quan các khoá 1, 2, 3 đội mũ lưỡi trai, vành mũ có thêu rồng kim-tuyến vàng, giầy vải trắng, đế nâu. Nếu mặc quần soọc th́ đi vớ cao đến đầu gối. Quần soọc thường được cài bằng khoen đánh xi bạc. Hạ-Sĩ-Quan mặc giống Sĩ-Quan, khác-biệt ở chỗ đi giầy đen. Thuỷ-Thủ mặc áo trắng cổ vuông có viền xanh nước biển, đội mũ tṛn trắng, ngù bằng cao-su màu đen, vành mũ màu đen để tên chiến-hạm đang phục-vụ, sau này đổi lại hàng chữ Hải-Quân Việt-Nam bằng kim-tuyến vàng. Quân-phục Đại-Lễ Về mùa hè, Sĩ-Quan mặc áo veston trắng có bốn túi, cổ bẻ, đeo cà-vạt đen, quần dài trắng, giầy vải trắng, đế nâu, lon đeo vai, tùy theo nghi-thức hành-lễ có hoặc không đeo kiếm. Hạ-Sĩ-Quan mặc giống Sĩ-Quan, đi giầy đen. Thuỷ-Thủ mặc áo trắng có vạt (vareille) màu xanh nước biển, viền trắng, thắt cà-vạt đen, giầy đen, đeo lon, phù-hiệu chuyên-nghiệp bên vai trái. Đại-Lễ Giao Mùa: Áo dạ xanh Hải-Quân, cài mỗi bên 4 nút đồng, Sĩ-Quan có bệt vàng trên vai, lon đeo ống tay áo, quần trắng, giầy trắng. Hạ-Sĩ-Quan mặc giống Sĩ-Quan, chỉ khác là đi giầy đen. Thuỷ-Thủ: Áo vareille dạ xanh Hải-Quân, quần trắng, giầy đen. Đại-Lễ Mùa Đông: Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan mặc áo veston dạ xanh Hải-Quân, quần dạ, hoặc gabardine đồng mầu, giầy đen. Thuỷ-Thủ mặc áo vareille dạ xanh Hải-Quân, quần dạ đen, giầy đen. Dạ-Hội: Áo veston ngắn màu trắng ngà, quần gabardine đen, lon vai, giầy đen, huy-chương loại nhỏ, mũ trắng.
Cấp-hiệu Hải, Lục, Không-Quân thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà (1955-1963)542 II- Giai-đoạn Trưởng-Thành và Bành-trướng: Hải-Quân Việt-Nam đi vào truyền-thống Hải-Quân quốc-tế trong việc ăn-mặc cũng như các tập tục trên biển và bờ. Tuy-nhiên Hải-Quân Việt-Nam vẫn giữ được những sự cá-biệt cho riêng ḿnh bằng cách vẽ lại hay thay-đổi kiểu cách trên mũ, nón, phù-hiệu và cấp-bậc. Mũ: Phù-hiệu trên mũ thay-đổi theo từng chế-độ chính-trị và từng thời Tư-Lệnh Hải-Quân, từ Khoá 8 trở đi, phù-hiệu trên mũ thay-đổi. Sĩ-Quan mang phù-hiệu trên mũ nhánh lúa kim-tuyến đan vào nhau thành hai lớp, hai mỏ neo bắt chéo nằm giữa. Hạ-Sĩ-Quan nhánh lúa đơn một lớp. Đai mũ bằng kim-tuyến vàng cho Sĩ-Quan, bằng nhựa đen cho Hạ-Sĩ-Quan. Khoảng năm 1963 phù-hiệu trên mũ lưỡi trai được đúc bằng đồng, có mỏ neo nằm chính giữa hai nhánh lúa, phù-hiệu này tồn-tại không được bao-lâu, sau đó được thay-thế bằng phù-hiệu có mỏ neo đứng bằng kim-tuyến vàng, nằm giữa năm nhánh lúa cũng được thêu bằng kim-tuyến vàng viền quanh cho Sĩ-Quan, mỏ neo bằng kim-tuyến bạc ba nhánh lúa kim-tuyến vàng cho Hạ-Sĩ-Quan, phù-hiệu này được duy-tŕ cho đến lúc hạm-đội ra khơi di-tản năm 1975. Sĩ-Quan từ cấp Thiếu-Tá trở lên, trên mũ lưỡi trai có thêu bông lúa giao nhau bằng kim-tuyến vàng. Sĩ-Quan cấp Đô-Đốc vành lưỡi trai có thêm viền kim-tuyến vàng, sợi đai mũ bằng kim-tuyến to bản hơn. Những chi-tiết này cũng được dùng trên mũ đi biển, chỉ khác là không có vành đai bằng kim-tuyến trên chiếc mũ này. Thuỷ-Thủ đội nón trắng hoặc tím xám có phù-hiệu màu xanh trên nón trắng và màu trắng trên nón đi biển màu xanh xám. Cấp-bậc: Cấp-bậc Sĩ-Quan theo tiêu-chuẩn Hải-Quân hàng-hải quốc-tế, lon màu kim-tuyến vàng trên nền dạ xanh cho ngành chỉ-huy, đen cho ngành cơ-khí, xanh lơ cho quân-nhạc, đỏ cho quân-y. Quân-phục Gần giống như trong giai-đoạn h́nh-thành Tiểu-lễ: Áo ngắn tay trắng, quần dài trắng, giầy trắng, thắt lưng trắng, khoá thắt lưng mạ vàng, cho Sĩ-Quan, mạ bạc, giầy đen cho Hạ-Sĩ-Quan và Thuỷ-Thủ, mũ trắng, đặc-biệt quần rộng ống cho Thuỷ-Thủ. Giai-đoạn này không mặc quần soọc trắng. Đại-lễ: Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan mặc áo cao cổ màu trắng, nút vàng cài chính giữa, đeo cấp-bậc trên vai áo, quần trắng, giầy trắng cho Sĩ-Quan, giầy đen cho Hạ-Sĩ-Quan và Thuỷ-Thủ. Áo trắng có vạt phía sau, viền hai viền xanh, ca-vát đen, quần ống rộng, giầy đen.
Áo Đại-Lễ Hải-Quân (Ảnh HQ Trung-Tá Trần-Văn-Lâm).
Quân-phục làm việc: Quần-áo tím xám cho Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan, thắt lưng đen, giầy đen, nón lưỡi-trai màu đen. Trong giai-đoạn 1965-1967, Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan mặc quân-phục làm việc bằng kaki vàng. Thắt lưng cùng màu, mũ cát-két, mũ ca-lô cũng bằng kaki vàng. Thuỷ-Thủ mặc áo dài hay ngắn tay màu xanh nhạt, quần vải jean xanh đậm, ống quần rộng, nón trắng, giầy đen. Sau này nón trắng của Thuỷ-Thủ có thêu thêm huy-hiệu nhánh lúa tṛn, ở giữa có hai mỏ neo bắt-chéo màu xanh Hải-Quân. Nữ-Quân-Nhân Hải-Quân: Áo sơ-mi và váy ngắn màu xanh da trời, nón ca-lô cùng mầu, lon đeo vai. Hải-Thuyền: Quần-áo bà-ba đen, mũ nồi đen. Sau ngày cải-tuyển chính-quy, Hải-thuyền mặc giống như Hải-Quân. Người-Nhái: Quân-phục Hải-Quân, mũ nồi đen và huy-hiệu Người-Nhái trong quân-phục làm việc, áo lặn b́nh hơi khi đi công-tác. Hải-Tuần: Quân-phục Hải-Quân. Sử-dụng quân-phục tác-chiến Bộ Binh khi đi hành-quân, trên mũ đi biển có thêu phù-hiệu mỏ neo và nhánh lúa màu đỏ Biệt-Hải: Mũ nồi đen, khi đi hành-quân giả-trang thành địch quân trong những công-tác đặc-biệt. Quân-phục tác-chiến tại các Giang-Đoàn: Trang bị quân-phục làm việc Hải-Quân hoặc mặc quân-phục tác-chiến như bộ-binh, quần-áo treillis đội nón vải rộng vành, hoặc nón sắt, áo giáp, Thuỷ-Thủ thường hay đi dép trên giang-đĩnh. Một vài Nhận-xét về Quân-phục HQVN Một số lớn thanh-niên t́nh-nguyện gia-nhập Hải-Quân, một phần v́ muốn thoả mộng hải hồ, mà một phần cũng do bộ quân-phục trắng thất đẹp của quân-chủng. Quân-phục đẹp và toát ra hùng-khí phải biết mặc đúng cách và đồng-nhất. Trong các Quân-đội trên thế-giới th́ Quân-đội Hoa-Kỳ có quân-phục vào hạng đẹp nhất; thứ nhất là giản-dị, thứ hai là may-cắt khéo và đồng-nhất. HQVN trang-bị quân-phục cho SQ, HSQ và đoàn-viên có nét tương-tự như Hải-Quân Hoa-Kỳ cũng v́ lẽ đó. Đa số quân-nhân HQVN đều nhận ra cái đẹp và hănh-diện khi mang quân-phục Hải-Quân. Đặc-biệt trên các chiến-hạm lớn, Thuỷ-Thủ-Đoàn coi trọng quân-phong quân-kỷ, ăn-mặc đúng cách. Nhất là trên các chiến-hạm mới chuyển giao hay khi viễn-du, nhân dịp trời trở lạnh, Sĩ-Quan và Nhân-viên trực hạm-kiều mặc quân-phục giao-mùa làm mọi người, đặc-biệt phụ-nữ và cả đồng-đội, trầm-trồ khen-ngợi. 3- Các Chuyên-nghiệp Của Hải-Quân Như liệt-kê trong một đoạn ở trên, Chuyên-nghiệp của Đoàn-Viên HQVN gồm 15 ngành-nghề: 1- Kế-Toán, 2- Tiếp-Vụ, 3- Trọng-Pháo, 4- Vô-Tuyến, 5- Giám-Lộ, 6- Vận-Chuyển, 7- Điện-Khí, 8- Điện-Tử, 9- Thám-Xuất, 10- Quản-Kho, 11- Y Tá, 12- Bí-Thư, 13- Cơ-Khí, 14- Pḥng-Tai, 15- Điện-pháo.
Phù-hiệu chuyên-nghiệp Hải-Quân được đeo bên vai áo trái và nằm phía trên cấp-bậc. Các đoàn-viên Hải-Quân khi lên đến cấp Sĩ-Quan th́ không c̣n đeo phù-hiệu chuyên-nghiệp nữa. Nhờ có văn-hoá tương-đối cao và được huấn-luyện chu-đáo về chuyên-nghiệp đồng-thời thực-tập tay nghề nhuần-nhuyễn trên các chiến-hạm, chiến-đĩnh, các anh em đoàn-viên Hải-Quân khi giải-ngũ có tay nghề vững-chăi, họ dễ kiếm được việc làm hợp với khả-năng. Nhất là các anh em có chuyên-nghiệp cơ điện-khí, điện-tử, y-tá rất thành-công trên đất Mỹ. Trần-Chấn-Hải Người viết chân-thành cảm-ơn các Ông Nguyễn-Văn-May, Phan-Lạc-Tiếp, Lê-Văn-Ngàn, Phạm-Trăi, Nguyễn-Đ́nh-Nghị, Lê-Phát-Ân, Trương-Văn-Quang, Cố Hoạ-Sĩ Nguyễn-Thi và một số bạn-bè HQVN đă giúp-đỡ để hoàn-tất bản tài-liệu này.
Cấp-hiệu SQ Hải-Quân trên tay áo thời Đệ-Nhị Cộng-Hoà.
Thuỷ-thủ HQVN trong Quân-phục làm việc (hai h́nh trái), quân-phục mùa đông và quân-phục đại-lễ.
Quân-phục Nữ-Quân-Nhân HQVN.
Hạ-Sĩ-Quan với quân-phục Giao-mùa (trái), quân-phục Đại-Lễ và quân-phục Mùa Đông.
Quân-phục Hạ-Sĩ-Quan: tiểu-lễ, quân-phục làm việc trên bờ và dưới chiến-hạm, chiến-đĩnh.
Sĩ-Quan với Quân-phục giao-mùa (trái), quân-phục Đại-Lễ và quân-phục Mùa Đông. Sinh-Viên Sĩ-Quan (phải) trong Quân-phục Đại-Lễ (có mang kiếm).
Các loại mũ Sĩ-Quan và Hạ-Sĩ-Quan của Hải-Quân Việt-Nam.
Quân-phục đặc-biệt của SVSQ/HQVN khi thụ-huấn tại Hoa-Kỳ.
Quân-phục Thuỷ-Thủ (trái qua) trong Toán Danh-Dự Liên-Quân TTM (chào tay), trong Toán Danh-Dự của Quân-Chủng HQVN (có ghệt và không ghệt) trong các thế chào súng.
Quân-phục Thuỷ-Thủ và cách chào tay.
Vào Ngày Hải-Quân, cũng là huư-nhật Đức Thánh-tổ Trần-Hưng-Đạo, Chiến-hạm kéo Đại-kỳ rực-rỡ, có Thánh-kỳ ngũ-sắc nơi cột cờ mũi, phất-phới bay. Những cuộc diễn-hành trên sông Sài-G̣n gây nhiều ấn-tượng đẹp-đẽ và hùng-tráng, khó quên nơi ḷng người dân Thủ-Đô nước Việt.
Trong những dịp lễ hay kỷ-niệm quan-trọng, các Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên HQVN mặc quân-phục Đại-lễ, đứng nghiêm-chỉnh chào-kính. Chiến-đĩnh và Chiến-hạm sơn phết tươi sáng.
Một “mốt” quân-phục thời mới thành-lập “cởi trần giống Tây” mà sau này Hải-Quy không chính-thức cho phép.
H́nh-ảnh xem thêm về Quân-phục, Cấp-bậc và Phù-Hiệu Hải-Quân Pháp & Việt-Nam
a- Quân-phục Đoàn-Viên & HSQ của HQ Pháp đă thay-đổi nhiều trong quá-khứ. Đây là một số mẫu quân-phục sau Thế-chiến II. Cấp Thượng-Sĩ được mang kiếm.
Quân-phục Hải-Quân Pháp, trong một giai-đoạn nào đó không có cấp Quartier Maitrancier.
Thuỷ-Thủ Pháp phục-vụ bờ mang hàng chữ “Marine Nationale” trên mũ. Thuỷ-Thủ phục-vụ chiến-hạm mang tên chiến-hạm.
b- Mũ nón và Lon-lá Thuỷ-thủ Chuyên-nghiệp HQVN
Đầu thập-niên 1950, Thuỷ-thủ chuyên-nghiệp (trái) mang một vạch đỏ trên vai khi làm việc (giống HQ Pháp thời đó) với ngù đen trên mũ. H́nh phải là ngù đỏ trên mũ và vạch đỏ trên tay áo của các Thủ-thủ chuyên-nghiệp HQ Pháp. * * * Sau dây là một số h́nh-ảnh t́m thấy trong những mẫu vẽ của Pḥng 5 Bộ Tổng-Tham-Mưu. Một số quân-phục dành cho Hải-Quân VNCH ít thấy hay chưa bao giờ được mang ra sử-dụng cũng như thực-hiện việc may cắt.
Trong giai-đoạn Quân-đội nắm quyền điều-hành guồng máy quốc-gia, nhiều nhân-vật trong chính-phủ mặc quân-phục. H́nh-ảnh Trung-Tướng Nguyễn-Văn-Thiệu trong quân-phục đại-lễ,huy-chương tḥng mang cây gậy chỉ-huy; thời-gian Ông làm Chủ-Tịch Hội-Đồng Quân-nhân Lănh-dạo Quốc-Gia.
Sau đây là một số h́nh-ảnh về quân-phục của TQLC/VNCH
Quân-phục của TQLC/VNCH qua ca’c thời-kỳ
Phụ-Bản 8
Huân-Chương và Huy-Chương QLVNCH & Hải-Quân
Bảo-quốc Huân-Chương Bảo-quốc Huân-chương là huy-chương cao-quư nhất của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà, dành tưởng-thưởng cho các quân-nhân trong tất cả binh-chủng hay thường-dân đă có chiến-tích xuất sắc trong công-cuộc giữ-ǵn bờ-cơi, và là vinh-dự cao-quư nhất của Việt-Nam Cộng-Hoà. Bảo-quốc Huân-chương được thành-lập năm 1950, phải được đeo cao hơn trên tất cả các huân, huy-chương khác, và có năm hạng: • Đệ-Nhất-Đẳng là huân-chương quư nhất trong các hạng Bảo-quốc Huân-chương và rất hiếm người có; được đeo bằng dây choàng trên vai phải và một ngôi sao Bảo-quốc trên ngực trái • Đệ-Nhị-Đẳng, được đeo bằng ruy-băng màu đỏ viền vàng với một nơ Bảo-quốc h́nh tṛn trên ngực trái và một ngôi sao Bảo-quốc trên ngực phải • Đệ-Tam-Đẳng, được đeo bằng dây choàng dài trên cổ • Đệ-Tứ-Đẳng, được đeo bằng ruy-băng (ribbon) và một nơ Bảo-quốc h́nh tṛn trên ngực trái • Đệ-Ngũ-Đẳng, được đeo bằng ruy-băng trên ngực trái. Bảo-Quốc Huân-Chương Đệ-Ngũ-Đẳng Bảo-Quốc Huân-Chương Đệ-Nhất-Đẳng Bảo-Quốc Huân-Chương Đệ-Tam-Đẳng
Huy Chương tḥng QLVNCH
Phụ-Bản 9 Bối-cảnh Khai-sinh Quân-Đội VN &
Những Cảm-nghĩ về các Tổ-chức Quân-đội Việt-Nam ở giữa Thế-kỷ 20 (Trích từ "Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4" Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972.)
Về việc Phát-sinh một Tổ-chức Quân-Lực Dầu ở trong hoàn-cảnh nào, việc phát sinh ra một tổ-chức quân-lực cũng là một dấu-tích lịch-sử, và việc ghi chép thành sử-liệu là một điều cần-thiết, để ôn lại những ǵ đă xảy ra. Trên mảnh đất Việt-Nam đầy cam-go và than-yêu này, công-việc ghi chép lại sự h́nh-thành tổ-chức của Quân-đội Quốc-gia tất-nhiên, cũng là một nỗ-lực hết sức hữu-ích. Xét một cách sâu-xa, một quân-đội không thể tự nó phát-sinh và tự-tồn. bởi v́, quân-đội chỉ là một thứ vũ-khí của chính-trị và là thành-tŕ bảo-vệ cho chính-trị. Những Căn-nguyên Phát-xuất Quân-Đội Quốc-Gia ...Thế mới biết, một quốc-gia khi có biến từ bên ngoài đưa vào, mà nội-bộ của quốc-gia này không được nhất-trí, lại c̣n chia-rẽ bằng nhiều xu-hướng chính-trị, bằng những thù-hiềm riêng-tư, bằng những quyền-lợi khác-biệt, th́ đại-hoạ phải xảy đến. Đây là một kinh-nghiệm lịch-sử chứng-minh câu nói "đoàn-kết là sống", chia-rẽ là chết", một chân-lư đơn-giản nhưng vẫn là ánh-sáng soi-chiếu cho muôn-đời. Sự phát-xuất của Quân-đội Quốc-gia có nhiều căn-nguyên do hoàn-cảnh tạo ra, thành-h́nh sau quân-đội Việt-Minh, đáp-ứng cho những đ̣i-hỏi của thời-cuộc. Quân-đội Việt-Minh ra đời từ năm 1945, tuy-nhiên chỉ là một lực-lượng vũ-trang thiếu-thốn mọi thứ, nên không đủ mạnh để ngăn-chặn kịp-thời đoàn quân xâm-lăng tân-tiến của Pháp. V́ vậy, Pháp đă trở lại Việt-Nam một cách dễ-dàng. a. Căn-nguyên thứ nhất - Pháp lợi-dụng những thành-phần cộng-tác-viên cũ. Pháp đă lợi-dụng ngay những thành-phần cộng-sự cũ như quan-lại, công-chức, hương-chức, kỳ-hào v.v... để thiết-lập nhanh-chóng một chánh-quyền thân Pháp. Đây là những thành-phần dễ-dàng theo Pháp v́ Việt-Minh nghi-kỵ không dùng. Ngay khi cướp chính-quyền, Việt-Minh đă dùng hầu-hết một lớp cán-bộ đảng để nắm các guồng-máy chính-quyền, khiến cho thành-phần trên sợ-sệt và bất-măn, nên đă tạo nên những lực-lượng đầu-tiên chống lại Việt-Minh. Pháp muốn tạo nên một thế-lực chính-trị thân Pháp dưới h́nh-thức phân-rẽ để mà dễ xử-trị. Chẳng-hạn như Pháp muốn biến xứ Nam-Kỳ thành một quốc-gia riêng-biệt, biến miền Cao-Nguyên thành xứ Tây-Kỳ, miền Móng-Cáy thành xứ Nùng và miền Lai-Châu thành xứ Thái v.v... Tại những vùng đất này, để tăng thêm màu-sắc chính-trị địa-phương với nhiều hứa-hẹn về quyền-lợi, Pháp đă đặt ra những biểu-tượng riêng-biệt nhằm tách-rời các miền lănh-thổ của Việt-Nam, trong đó có việc tách-rời các dân-tộc thiểu-số ra khỏi đại gia-đ́nh dân Việt. Như đă đặt hiệu-kỳ riêng cho xứ Nam-Kỳ, xứ Thái và xứ Nùng. Hiệu-kỳ riêng của xứ Nam-Kỳ xuất-hiện không được bao lâu nhưng các hiệu-kỳ của xứ Thái và xứ Nùng đă xuất-hiện rất lâu. Người ta c̣n nhớ biểu-tượng cho xứ Thái là một lá cờ tam-tài với màu xanh trắng, rồi xanh và một ngôi sao sáu cánh ở trên nền trắng tiêu-biểu cho sáu bộ-lạc. Và người ta cũng không quên lá cờ tiêu-biểu cho miền Móng-Cáy cũng là một lá cờ tam-tài gồm ba màu xanh, trắng, đỏ, ở giữa màu trắng vẽ một cái thuyền buồm Trà-Cổ để nhớ lại lúc từ đồn Cô-Tô thuộc đảo Cát-Bà, người địa-phương theo quân Pháp về chiếm xứ này. b. Căn-nguyên thứ hai - Việt-Minh xô-đẩy đảng-phái quốc-gia về phía Pháp. Không những thế, một vũ-lực khác chống lại Việt-Minh cùng lúc đă được phát-sinh: đây là những lực-lượng thuộc các đảng-phái quốc-gia. Ban đầu các lực-lượng này đă kết-hợp với chính-phủ Việt-Minh để thành-lập một chính-phủ liên-hiệp, nhưng Việt-Minh bởi bản-chất chỉ là một đảng Cộng-Sản trá-h́nh, nên đă không có ḷng thành-thực để tạo thế đại-đoàn-kết dân-tộc trong việc chống giặc. Việt-Minh chỉ tạo-dựng một sự kết-hợp giả-tạo, theo giai-đoạn, không những vậy c̣n t́m cách tiêu-diệt các đảng-phái đối-lập bằng đổ máu nắm quyền lănh-đạo độc-tôn, đảng-trị. Bởi vậy, giữa các đảng-phái quốc-gia và mặt-trận Việt-Minh đă có những sự chia-rẽ trầm-trọng, biến thành cừu-địch. Từ những chia-rẽ này, với những giải-pháp đẫm-máu của Việt-Minh, những người quốc-gia phải t́m cách nương-tựa vào những vùng đất kiểm-soát của Pháp hay bôn-ba ra hải-ngoại ẩn-náu, để tránh khỏi bị tiêu-diệt và t́m cơ-hội cứu-quốc khác. Sau này, khi giải-pháp Bảo-Đại ra đời, những người quốc-gia đă kết-hợp nhau lại thành một mặt-trận chống Cộng rất mạnh. Đây là một vũ-lực chính-trị chính-thức đă kết-tạo nên Quân-đội Quốc-gia. c. Căn-nguyên thứ ba - Việt-Minh đẩy các lực-lượng tôn-giáo đứng về hàng-ngũ chống Cộng. Một lực-lượng khác nữa chống Việt-Minh không kém phần quan-trọng, đó là các lực-lượng tôn-giáo cho rằng mặt trận Việt-Minh không phải là một tập-đoàn cứu-quốc, mà chỉ là một tập-đoàn cộng-sản có tôn-chỉ trái ngược với tôn-giáo, nhất là với những người công-giáo ít ai theo Việt-Minh, họ đă ra mặt chống-đối bằng cách khuyến-khích thanh-niên công-giáo gia-nhập các lực-lượng vũ-trang chống Cộng. Các giáo-phái như Cao-Đài, Hoà-Hảo ở Nam-Việt cũng rời khỏi mặt trận Việt-Minh, v́ Việt-Minh được coi như một tổ-chức vô-thần, không thể chung sống và sát cánh với những người có tư-tưởng hữu-thần được. Tất cả những lực-lượng tôn-giáo này đă bắt nguồn từ chính giữa ḷng dân-chúng và đă chống Cộng rất mạnh. Đây là một lực-lượng tinh-thần đáng kể, là một tiềm-lực mạnh-mẽ trong việc cấu-tạo nên sức mạnh cho Quân-đội Quốc-gia. d. Căn-nguyên thứ tư - Việt-Minh xô-đẩy những kẻ thù của chế-độ vào hàng-ngũ quốc-gia. Chế-độ Việt-Minh áp-dụng bạo-lực để duy-tŕ guồng máy lănh-đạo. Tất cả những thành-phần như địa-chủ, tiểu-tư-sản và trí-thức không hợp-tác, đều được coi như là những thành-phần chống-đối hay là phản-động, bị theo-dơi, cô-lập, giam-cầm hay thủ-tiêu. Bởi vậy những thanh-niên thuộc các thành-phần này dù có cảm-t́nh với kháng-chiến, trước sau cũng phải rời-bỏ hàng-ngũ Việt-Minh. Chính-sách bạo-lực của Việt-Minh đă gây cảnh chém-giết trong các chiến-dịch diệt-tề và diệt-phản-động. Sự-kiện ấy đă khiến cho các thân-nhân, con cháu của các nạn-nhân do Việt-Minh giết và thủ-tiêu căm-phẫn đến tột-độ. Tất cả những người này trở-thành kẻ thù của chế-độ vô-sản bạo-lực, trong đó kể cả những người không thích Việt-Minh, những người đánh-thuê v́ mưu-sinh. Tất cả hợp thành một vũ-lực để cộng-tác vào sự thành-h́nh và sức mạnh của Quân-đội Quốc-gia. Cơ-hội kết-hợp các vũ-lực chống cộng thành một tổ-chức quân-sự duy-nhất. Tất cả những vũ-lực trên, từ những căn-nguyên phát-xuất đă được tŕnh-bày, chỉ chờ đợi cơ-hội khả-hữu kết-hợp lại thành một tổ-chức quân-sự duy-nhất, biến thành một sức mạnh tự-tồn nếu không muốn bị Cộng-Sản tiêu-diệt, hơn thế nữa, để có thể chống Cộng một cách tích-cực và hữu-hiệu. Tổ-chức quân-sự duy-nhất này được mệnh-danh là Quân-Đội Quốc-gia, là một vũ-lực chống lại quân-đội của Việt-Minh được coi là tay-sai của Cộng-Sản quốc-tế. Bảo-Đại thoái-vị vào mùa thu năm 1945 để sau đó làm Cố-vấn cho chính-phủ Việt-Minh. Ông đă thoát sang Tàu để rồi về cộng-tác với Pháp chống lại Việt-Minh. Bảo-Đại cho rằng: "Việt-Minh là một chế-độ cộng-sản quốc-tế không phù-hợp với truyền-thống cổ-truyền của dân-tộc Việt-Nam". Viễn-ảnh của một cuộc chiến-tranh lâu-dài được đánh dấu từ năm 1950, khi chính-quyền quốc-gia tổng-động-viên nhân-lực bành-trướng chiến-tranh và khuếch-trương quân-đội. Việc khuếch-trương Quân-đội Quốc-gia, ngoài sự yểm-trợ của Pháp c̣n được sự hỗ-trợ bằng viện-trợ quân-sự của Mỹ. Bởi vậy, ta không thể coi đây là một biến-cố tầm-thường, mà Chính-thực rất là quan-trọng. Quả vậy, việc khuếch-trương quân-đội qua ngả tổng-động-viên đă làm cho tính-chất bán-thuộc của quân-đội này tan-biến và đă thể-hiện lên tinh-thần của một quân-đội kết-hợp bởi mọi thành-phần trong xă-hội quốc-gia chống Cộng. Sự Thành-h́nh của Quân-đội Quốc-gia. Quân-đội Quốc-gia đă phát-nguồn từ những căn-nguyên hết sức phức-tạp như ở trên, kể từ khi Pháp trở lại tái-chiếm Đông-Dương. Với những căn-nguyên như thế, tổ-chức Quân-đội Quốc-gia đă được thành-h́nh dần, qua một tiến-tŕnh nhiều giai-đoạn. Tháng 3 năm 1947, tại Ba-Lê, Ramadier tuyên-bố sẵn-sàng cho các dân-tộc Đông-Dương được hưởng độc-lập, có "quân-đội" và ngoại-giao trong khuôn-khổ Liên-bang Đông-Dương. Qua sự tuyên-bố này, Thủ-Tướng Pháp Ramadier tỏ ra ư-muốn nối-tiếp lại cuộc thương-thuyết với Việt-Minh. Đây là lần đầu-tiên, Pháp ư-niệm h́nh-thành một quân-đội thuộc người Việt-Nam xuyên qua một giải-pháp chính-trị. Hiệp-định Hạ-Long kư ngày 5-6-1948 giữa Bollaert và Cựu-Hoàng trên tàu Duguay Trouin, trong đó, Pháp công-nhận Việt-Nam là nước độc-lập và để nước này thực-hiện lấy sự thống-nhất của ḿnh một cách tự-do, và ngược lại, Việt-Nam tuyên-bố gia-nhập Liên-Hiệp-Pháp. Xuyên qua hiệp-định này, một chính-phủ trung-ương lâm-thời Việt-Nam thành-lập; các nhà lănh-đạo Việt - Pháp sẽ cùng nhau hợp-tác thành-lập các tổ-chức thuộc mọi lănh-vực cho chính-phủ trung-ương, trong đó có việc "tổ-chức quân-đội". Như vậy, với hiệp-định này, việc tổ-chức Quân-đội Quốc-gia được chính-thức đề-cập. Biến-chuyển Quốc-tế Vào cuối năm 1949, một biến-chuyển quốc-tế ảnh-hưởng đến Việt-Nam. Quân cộng-sản của Mao-Trạch-Đông thắng-thế quân-đội Trung-Hoa quốc-gia và tiến sát biên-giới Việt - Hoa. Sự thắng-thế này đă giúp cho Việt-Minh về nhiều phương-diện. Mặt trận Việt-Minh là một đảng Cộng-Sản kháng Pháp núp dưới danh- nghĩa quốc-gia, trước sự thắng-thế của Cộng-Sản Trung-Hoa, đă rơ-rệt ngả theo phe Cộng để được giúp-đỡ tích-cực. Ngày 16-1-1950, chính-phủ Việt-Minh được Trung-Cộng công-nhận, sau đó ngày 30-1-1950 v́ không muốn mất ảnh-hưởng chính-trị đối với nước đàn em, Nga cũng công-nhận theo. Các sự-kiện này đă làm Việt-Minh mất hẳn vai-tṛ kháng-chiến dân-tộc, lại mất dịp t́m hoà-b́nh bằng cách điều-đ́nh với Pháp và chính-phủ Bảo-Đại, và đă khiến cho thế-giới tự-do công-nhận mau-lẹ chính-phủ của Cựu-Hoàng, dẫu rằng lúc đó chưa có thực-quyền. Do đó, Việt-Nam đă biến thành một khu-vực tranh-chấp giữa ảnh-hưởng của hai khối Cộng-Sản và Tự-Do, không thể nào cứu văn được. Trước đà tiến-triển của t́nh-h́nh, người Mỹ gián tiếp can-thiệp vào việc Đông-Dương người Pháp kiệt-quệ, đă phải chấp nhận với công-cuộc Việt-hoá chiến-tranh. Từ đó, vai-tṛ của Quân-đội Quốc-gia đă được đặc-biệt chú-ư, và được đặc-biệt gia-tăng phát-triển, để đối-đầu với làn sóng đỏ đang lan-tràn xuống khắp miền bán-đảo Đông-Dương.
Trích từ bản Soạn-thảo của TTM/QLVNCH/ Pḥng 5, 1972.
Huy-Hiệu trên mũ của Sĩ-Quan Lục-Quân Quân-Đội QGVN
Tuần-Dương-Hạm Duguay Trouin của HQ Pháp --- Phụ-Chú: (1) Tư-Tưởng của Quốc-Trưởng Bảo-Đại. Tác-giả Pháp Philippe Devillers trong cuốn sách "Histoire du Việt-Nam 1940-1952" đă viết "xung-quanh ông chỉ là một bọn nịnh-thần, bọn tham-danh và tiền-bạc...". Theo hồi-kư của Trung-Tướng Trần-Văn-Đôn trong tập “Việt-Nam qua 20 năm biến-cố" ông Đôn đă nhiều lần được gặp Quốc-trưởng Bảo-Đại vào hồi đó và trong một lần yết-kiến của ông, Cựu-hoàng đă thổ-lộ: "Các anh c̣n trẻ và có vẻ hăng lắm! nhưng nếu các anh đứng vào địa-vị của tôi th́ các anh cũng sẽ thấy khó xử vô-cùng. Thực ra tôi đă nghiên-cứu rất kỹ phiếu-tŕnh của ông Xuân về dự-án kế-hoạch tổ-chức quân-đội mà anh đă tŕnh tôi năm ngoái (1949) tại Dalat. Tôi đă chấp-thuận trên nguyên-tắc và đă thảo-luận với chính-phủ Pháp. Riêng tôi, tôi vẫn mong-muốn thành-lập được một quân-đội cho quốc-gia, nhưng nhiều người đă nói với tôi rằng: trong lúc này chưa nên bành-trướng quân-đội đó, v́ nó sẽ rất nguy hại cho quốc-gia khi chúng ta chưa đem lại một lư-tưởng chiến-đấu cho những đơn-vị đó và trong trường-hợp đó, binh-sĩ sẽ đào-ngũ tập-thể sang hàng-ngũ đối-phương.543 Chúng ta chưa gây được niềm tin-tưởng trong quần-chúng th́ làm sao chúng ta có thể gây được niềm phấn-khởi và đem lại tinh-thần chiến-đấu cho binh-sĩ được? Chúng ta chưa có đầy-đủ cấp chỉ-huy. Nếu nói là quân-đội của ta, mà cấp chỉ-huy lại toàn là người Pháp, mà lại do các bộ Tư-Lệnh Pháp sử-dụng544 th́ tất-nhiên ta đă mặc-nhiên công-nhận cái tính-chất đánh thuê của quân-đội ta, và như vậy, th́ làm sao quân-đội có được lư-tưởng và có hậu-thuẫn quần-chúng".
(2) Cấp-số Quân-đội Quốc-Gia: Cấp số lư-thuyết Sĩ-Quan tính tới 31-7-1953: - Cấp Tướng: 05 - Cấp Đại tá: 12 - Cấp Trung tá: 31- Cấp Thiếu tá: 247 - Cấp Đại-Úy: 1.178
Trên thực-tế tính đến ngày trên Quân-đội Quốc-gia chỉ có: - 3 cấp Tướng: Trung-Tướng Nguyễn-Văn-Hinh Thiếu-Tướng Nguyễn-Văn-Vỹ Thiếu-Tướng Nguyễn-Văn-Vận - 10 cấp Đại tá: Lê-Văn-Tỵ, Nguyễn-Ngọc-Lễ, Trần-Văn-Đôn, Trần-Văn-Minh, Lê-Văn-Kim, Hoàng-Văn-Thu, Hoàng-Văn-Tỷ, Dương-Quư-Phan, Nguyễn-Tuyên và Phạm-Văn-Cảm. - 12 Trung tá: Phạm-Văn-Đỗng, Nguyễn-Khánh, Dương-Văn-Minh, Dương-Văn-Đức, Trương-Văn-Xương, Nguyễn-Văn-Hai, Lâm-Ngọc-Huấn, Nguyễn-Quang-Hoành, Trần-Đ́nh-Lan, Linh-Quang-Viên, Hà-Trọng-Tín, Nguyễn-Văn-Quan. SQ/HQVN thâm-niên nhất: HQ Đại-Úy Lê-Quang-Mỹ.
Thiếu-tướng Nguyễn-Văn-Hinh, Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QĐQGVN (1951-1955).
Thiếu-tướng Nguyễn-Văn-Hinh hướng-dẫn Quốc-Trưởng Bảo-Đại duyệt quân.
Trung-Tướng Nguyễn-Văn-Hinh, Thiếu-Tướng Nguyễn-Văn-Vận 4 Đại-Tá và các Sĩ-Quan QĐQG thuộc Đệ-Tam Quân-Khu (Bắc-Việt) trong buổi lễ tuyên-thệ tại Hà-Nội trước Quốc-Trưởng năm 1953.
Phụ-Bản 10
Vấn-đề Hải-Sử Hải-Quân VNCH C̣n Mất Thế Nào? (Bài nói chuyện của Tác-giả về Dự-Án Hải-Sử)
Kính thưa Quư-vị Tôn-Trưởng, Kính thưa Đô-Đốc Cựu TL/HQVN, Kính thưa Ông Tổng-Hội-Trưởng, Ông Trưởng-Ban và các Bạn trong Ban Tổ-chức, Kính thưa Quư Bà, Quư Ông, Quư Bạn; Trước hết, chúng tôi xin chào-mừng tất cả quư-vị. Nhờ dịp tái-ngộ hi-hữu này, chúng tôi may-mắn thấy lại những vị trưởng-thượng, các cấp chỉ-huy và những bạn-bè đồng-đội thân-yêu ngày cũ, mà trong đó có nhiều người đă sau hàng 2, 3 chục năm xa-cách, nay mới có duyên gặp-gỡ. Đây là sự vinh-hạnh lớn-lao cho chúng tôi, được có dịp hầu-chuyện cùng quư-vị về một câu hỏi đă gây nhiều thắc-mắc cho chính cá-nhân chúng tôi hai mươi năm qua và có thể cũng là một trong nhiều điểm suy-nghĩ của quư-vị: sau di-tản, Hải-Quân VNCH c̣n mất thế nào? Đề-tài "Hải-Quân VNCH chúng ta - tuy mất mà vẫn như c̣n" có đáng được gọi là một sự xác-định khách-quan hay không? Chúng tôi xin tŕnh-bày quan-điểm riêng-tư của chúng tôi, nếu có đôi điều quá xa-vời, xin quư-vị lượng-thứ cho. * * * Một phần quê-hương Miền-Bắc đă lọt vào tay bọn vô-thần năm 1954. Hai mươi mốt năm sau, ngày 30-4-1975 người quốc-gia mất tất-cả phần đất-nước c̣n lại cho Cộng-sản. V́ mất nước là mất tất-cả nên không có sự mất-mát nào lớn-lao hơn, đáng kể hơn nỗi đau vong-quốc. Sau những tan-tác v́ di-tản, một vị niên-trưởng khả-kính của Hải-Quân từng than rằng: "Nước đă mất, nhà đă tan, suốt tuổi thanh-xuân, hiến-dâng cho Tổ-Quốc và Lư-tưởng. Chúng ta nay đă già, khởi-sự cuộc đời lam-lũ cu-ly nơi đất khách. Trong khi đó, những tên tham-nhũng sau bao năm sống trên xương-máu, nước-mắt, mồ-hôi đồng-bào vẫn tiếp-tục sống đời phè-phỡn. Thật là buồn!" Thoáng nh́n qua như vậy, HQ chúng ta đă mất... HQVN chúng ta không c̣n ǵ cả. HQVNCH chúng ta chẳng sót lại ǵ trong Bạn, trong Thù và ngay cả bản-thân chúng ta nữa sao? - Người bạn Đồng-minh rời-bỏ ta lại cho niềm cay-đắng của sự thất-trận. Sau khi bại, thay v́ an-ủi lẫn nhau, các bạn Hoa-Kỳ quay ra trách-cứ. Nếu đọc các ấn-bản của HQ Học-Hiệu Annapolis, các người viết hải-sử của họ cho rằng HQ chúng ta v́ ưa chính-trị nên đă làm giảm khả-năng tác-chiến; v́ kém khả-năng chuyên-nghiệp, say sóng, thiếu tinh-thần trách-nhiệm, lười-biếng không làm việc nên không hoàn-thành nhiệm-vụ. - Kẻ Thù Cộng-Sản chỉ nhờ sự hỗ-trợ của thế-giới Cộng-Sản thời đó mà đánh-bại ta. Trong nỗi tham-lam thèm-khát tột-cùng của kẻ chiến-thắng, chúng chiếm-đoạt tất-cả. Khi chúng được th́ chúng làm vua, c̣n chúng ta thua chúng ta là giặc, giặc đă thua phải mất tất cả. Và nay để tặng phát đạn kết-liễu cho số-phận chúng ta, bọn chúng (bạn cũ và thù xưa) đă nham-nhở nói chuyện lại với nhau, bắt tay nhau đằm-thắm, khởi-sự cuộc sống chung như tên ma-cô cùng con đĩ-điếm. - Chúng ta đă đại-bại, đầu ta cúi gầm, bị tước-bỏ hết nhân-quyền và mọi sở-hữu, kẻ tủi-nhục lê bước lạc-loài nơi đất khách, người đau-thương xiềng-xích tù-tội nơi quê-hương. Thế nhưng, trong khoảng thời-gian hai chục năm phục-vụ ấy, chúng ta có một thuở để sống, để làm việc hăng-say, để được đời tôi-luyện mà suy-nghĩ chín-chắn. Đến nay, qua thời-gian lưu-lạc, trong màu-nhiệm của tỉnh-thức, chúng tôi ngộ ra rằng: thật ra HQVNCH không mất. Trong cuộc chiến có hai phe, người thắng được dịp nói nhiều, nói lớn lối; nhưng chân sự-thực không do người thắng nói ra. Lời phe thắng trận chẳng phải là chân-lư. Suốt hơn 20 năm, HQVNCH từ lúc sơ-sanh đă trưởng-thành, đă hoàn-thành trách-vụ Tổ-Quốc-giao-phó. Là quân-chủng thầm-lặng, đôi khi bị ch́m-lấp ngay trong Quân-lực. Thế nhưng về chỉ-huy, tham-mưu hay quản-trị… chưa hề có một văn-thư nào của giới-chức thẩm-quyền VNCH cao-cấp nào than-phiền về sự tồi-tệ của các quân-nhân Hải-Quân. Công-b́nh mà nói trong tập-thể Miền-Nam, Hải-Quân luôn-luôn là những thành-phần ưu-tú đoàn-kết và trong-sạch. Cọp chết để da, người chết để tiếng. HQVNCH không những chẳng mất, chẳng mờ-nhạt, mà c̣n tiếp-tục hiện-hữu với thời-gian. Sự hy-sinh đóng-góp của toàn-dân và người lính, trong đó có thuỷ-thủ chúng ta không phải vô-ích. Nhờ những quân, dân, cán, chính nói chung, nhờ Hải-Quân chúng ta nói riêng, VNCH đă được hưởng một thời-gian mấy chục năm trong tự-do, no-ấm và tiến-bộ. Nếu không có sự đóng-góp công-lao khó-nhọc của chúng ta; Miền-Nam cũng như Miền-Bắc, dân bị ngược-đăi, nằm trong ngục-tù độc-tài đảng-trị suốt từ cuối thập-niên 1940, cho đến nay đă hàng nửa thế-kỷ. Bản-thân cá-nhân chúng ta chưa mất, chúng ta c̣n học-hỏi, thích-nghi hoàn-cảnh, nâng-cao thêm cả giá-trị, kiến-thức, đang góp công xây-dựng cuộc đời ta, gia-đ́nh ta trên vùng đất quê-hương thứ hai. - C̣n cháu ta đang tiến lên, học rất giỏi, làm việc tận-tâm, tương-lai không lâu sẽ là những nhân-tài lớn trong một thế-giới tiến-bộ. - Kẻ thù thất-bại khi nghĩ rằng tiêu-huỷ được thành-quả của chúng ta. Chúng cũng đă hoàn-toàn thất-bại trong mưu-đồ cải-tạo quân-dân Việt-Nam. - Người bạn đồng-minh cũng lầm-lẫn; họ đă xét-đoán sai-lầm HQVNCH. SQ Hoa-Kỳ phê-phán chúng ta say-sóng, thiếu tinh-thần trách-nhiệm, sự hiểu-biết kém-cỏi. Nay th́ thực-tế đă trả lời: Chúng ta không kém-cỏi ngay trong môi-trường Hoa-Kỳ. Sự thích-nghi của thuyền-nhân Việt-Nam phải kể là ngoại-hạng. Con-cái ta sẽ c̣n nhiều dịp làm vẻ-vang dân Việt, vượt-trội con trẻ địa-phương. Kính thưa quư-vị và các bạn, - Nếu nhận rằng Trống Đồng là nguồn sử-liệu cổ-xưa của dân-tộc ta th́ quân-đội Việt-Nam đă h́nh-thành từ những đoàn lính thuỷ trên các ghe-thuyền có trang-bị những cỗ Nỏ-Thần. Tiên-khởi, dân Lạc-Việt thường sống cạnh biển-khơi, sinh-hoạt trên nước nhiều hơn trên cạn. Nhu-cầu quốc-pḥng của Việt-Nam 3 - 4,000 năm trước không đặt nặng vào việc pḥng-thủ diện-địa mà hướng vào việc ǵn-giữ an-ninh những tuyến đường thuỷ, trên cả sông-hồ lẫn ngoài biển-cả. Có thể nói chắc-chắn rằng VN là quốc-gia đầu-tiên trên thế-giới mà quân thuỷ được khai-sinh trước quân bộ. - Kẻ thù với chiêu-bài "bài-phong phản-đế", mang nặng giáo-điều Mác-Lê vọng-ngoại, CSVN phủ-nhận công-lao tiền-nhân qua bao nhiêu triều-đại. Tài-liệu chính-thức của đảng Cộng-Sản thường kết-tội là quân-đội thời phong-kiến chỉ là những phương-tiện để bọn vua-quan dùng đàn-áp dân-chúng, không giống như các tập-thể tay-sai mà chúng thường tâng-bốc xưng tên là Quân-đội Nhân-Dân, Công-an Nhân-Dân của Cộng-Sản, Anh-hùng Vô-sản, hô-hào toàn-dân theo gương Bác và Đảng trung-thành đến chết với Mác-Lê, với Mao-Chủ-tịch; hy-sinh cho nghĩa-vụ Quốc-tế Vô-Sản, Thế-giới đại-đồng... - Chúng ta trái lại, thừa-tự hương-hoả chính-thức từ Hùng-Vương qua Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê, Nguyễn... Ngay khi tái-lập được nền độc-lập, chúng ta bắt-đầu ngay việc suy-tôn sùng-bái Ngô-Vương-Quyền, Đức Thánh-Trần, Quang-Trung Hoàng-Đế...; nhắc-nhớ danh-tiếng các Đô-Đốc Lộc, Đô-Đốc Tuyết đánh quân Thanh, Đề-Đốc Lê-Trực kháng Pháp, giữ thành Hà-Nội... Thế nên HQ chúng ta đương-nhiên đă chính-thức là truyền-nhân Thuỷ (Hải)-Quân, nối-tiếp các nhà Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê, Nguyễn, sau khi Hải-Quân Việt-Nam bị quân xâm-lăng Pháp tiêu-diệt. - Theo vết chân Tướng-Quân Lư-Long-Tường, vị Tư-Lệnh Hải-Quân nhà Lư vào thế-kỷ thứ 13. V́ nhà-cửa nát-tan, đất-nước gặp cảnh điêu-linh mà phải dẫn cả Hạm-đội đi Đại-Hàn. Chúng ta vượt Biển-Đông mà thoát ra khi Cộng-Sản xâm-lăng. - Thuyền-nhân chúng ta là các Lư-Long-Tường lần hai trong thế-kỷ 20 này. Nói theo học-giả Hoàng-Văn-Chí, Hải-Quân ra đi như những tượng Phật bằng gỗ nổi-trôi muôn-phương đến cả bờ-bến Mỹ-Châu, thà chịu ly-hương c̣n hơn bị huỷ-diệt tại quê nhà v́ những đồng-loại xấu-xa. Lại nói thêm cho được rộng-răi, Cựu quân-nhân Hải-Quân VNCH chúng ta khi bỏ nước ra đi, đương-nhiên đă tái-lập đường hàng-hải trên Thái-B́nh-Dương sang Tân-thế-giới, con đường mà tiền-nhân Việt-tộc đă thực-hiện nhiều ngàn năm trước. Trước năm 1975, Hải-Quân Cộng-Sản Bắc VN chỉ gồm có một giang-lực hạn-chế, một lực-lượng cận-duyên nhỏ-bé. Thế nên khi chiếm VNCH, cái gọi là Hải-Quân Nhân-Dân đă phải học-hỏi chúng ta về hoạt-động hạm-đội để mong hướng ra biển-khơi. Hai mươi năm đă qua. Vậy mà kẻ thắng vẫn c̣n phải tiếp-tục học người thua. Cách-thức tổ-chức các Lực-Lượng, các Hải-khu, điều-hành Chiến-hạm, Giang-Đoàn dần-dần theo như tiêu-chuẩn của HQ/VNCH lúc xưa, có khác chăng chỉ là v́ HQ/CSVN ngày nay nhỏ-bé hơn. Trong khi đó, khả-năng hành-quân phối-hợp thuỷ-bộ của chúng c̣n thua sút HQ/VNCH chúng ta khá xa. Khi xem tài-liệu Jane Fighting Ships thường-niên về HQ/Cộng-Sản VN, người ta thấy như HQ/VNCH vẫn c̣n đó vẫn HQ-1, HQ-3, HQ-501, HQ-503... Biết ḿnh lạc-hậu, lính thuỷ Cộng-Sản đành bỏ "nón cối dép râu", học-đ̣i tiến-bộ. Quan-trọng hơn hết là tinh-thần bảo-vệ lănh-thổ, hải-biên và ư-chí chống ngoại-bang xâm-lược. Ngày nay, Cộng-Sản Việt-Nam may-mắn gặp hoàn-cảnh thuận-lợi khi đất-nước thống-nhất sau hàng trăm năm bị trị và 21 năm Miền-Bắc đánh Miền-Nam. Vậy mà họ cũng chẳng làm được ǵ đáng kể cho đời sống người dân. Tệ-hại hơn hết, CSVN lại để mất thêm chủ-quyền vùng Biển-Đông, nhiều đảo Trường-Sa lần-lượt lọt vào tay kẻ thù truyền-kiếp là Trung-Cộng. Một-mai theo ḍng định-mệnh khi Cộng-Sản mất đi, Việt-Sử sẽ viết lại bằng sự thực. Ngàn đời sử vẫn ghi là CS Việt đă “cơng rắn cắn gà nhà” trong biến-cố Hoàng-Sa tháng 1-1974. Khi đó, người Cộng-Sản một lần phản-quốc, đă đứng về phía kẻ-thù dân-tộc. Lực-Lượng HQVNCH tuy không c̣n nữa nhưng rồi ra, Việt-sử cũng không thể ghi những ḍng chữ nào khác hơn khi đề-cập đến chúng ta như là một hiện-hữu quư-giá, một biểu-tượng về Truyền-thống Hàng-Hải cần-thiết trong một giai-đoạn có thể nói là nghịch-cảnh của dân-tộc và quê-hương đất-nước. Khoa khảo-cổ đă cho biết nhiều chứng-cớ vững-chắc như dân Việt thời-cổ đi tiên-phong trong lănh-vực hàng-hải, tiền-nhân các giống Bách-Việt với dấu-vết giao-thương ngà voi, sừng tê-giác lên tận Tây-Bá Lợi-Á, thành-tích dân Lạc-Việt vận-chuyển Trống Đồng tận các đảo vùng bắc Úc-Châu. H́nh-ảnh người cổ Việt-Mường vác những ống tre đựng nước được t́m thấy lại tại Mă-đảo, Phi-Châu. Ảnh-hưởng ngôn-ngữ đặc-biệt nhuộm màu-sắc hàng-hải, song-song với các phát-minh hàng-hải và kỹ-thuật ghe-thuyền của dân Việt ta đă trải-dài qua hơn nửa ṿng trái đất, khắp Ấn-Độ-Dương sang qua Thái-B́nh-Dương đến Nam-Mỹ... Chúng ta chính là những người kế-thừa chính-thống của ngành Hàng-hải. Duyên-Lực hay Hải-Thuyền VNCH đúng là những lực-lượng sau cùng dùng thuyền buồm, thông-thạo việc sử-dụng, phối-hợp nhịp-nhàng tác-dụng của cánh buồm và cây xiếm. Văn-minh nhân-loại phát-triển được là nhờ chuyển-vận, đặc-biệt nhờ đường biển. Thuyền-nhân với thành-phần dẫn-lộ ghe-tàu vượt-biên chính là các cựu quân-nhân Hải-Quân VNCH. Chuyện những người thuỷ-thủ như chúng ta v́ quệ-hương vùng Đông-Á bị giặc ngoại-xâm, khi nước Trung-Hoa bành-trướng, mà vượt-biển tới Mỹ-Châu 3 - 4,000 năm trước, đă được viết lại trong sách "Nu-Sun" của Tiến-sĩ Gunnar Thompson, xuất-bản 1991. Trong khi sáng lập Nu-Sun Institute, văn-pḥng liên-lạc tại Fresno, CA; Ông đă dự-trù thiết-lập bảo-tàng-viện về viễn-dương, một trung-tâm nghiên-cứu về một Thái-B́nh-Dương hoà-b́nh và một tờ báo định-kỳ, xuất-bản mỗi ba tháng. Sẽ có một chuyến hải-hành hoà-b́nh tưởng-niệm những chuyến vượt Thái-B́nh-Dương như của Đô-Đốc Nu-Sun mà chúng tôi phiên-âm ra tên một người Việt là Nguyễn-Sơn.
Kính thưa quư-vị và quư-bạn, Nhưng giờ đây, mất biển, mất tàu, mất cả tuổi thanh-xuân, những chàng trai-trẻ Hải-Quân ngày ấy, nay đă già, vẫn c̣n phải mang những nghề-nghiệp tay trái ra để kiếm ăn. Trong lúc tuổi-đời đă bắt đầu xế-bóng, đành phải yên-phận, mắc-cạn trong nỗi niềm ray-rứt khôn-cùng của giấc mộng hải-hồ dang-dở... Phải có niềm Hy-vọng giúp họ đốt lửa thắp sáng ngời tâm-tư trở lại. Xin các bạn đồng-đội cũ hăy nghĩ về "Nghĩa đồng-bào và Chân-lư tự-do". Thấm-thoắt hai mươi năm qua thật nhanh, khối người Việt hải-ngoại trong khi cố-gắng hội-nhập vào đời sống mới ở đất người, cũng kiên-tŕ tranh-đấu cho quê-hương với hy-vọng những thay-đổi tốt-đẹp sẽ đến với đồng-bào trong nước. Nỗ-lực của chúng ta suốt hai thập-niên đă không nhiều th́ ít, có ảnh-hưởng làm thay-đổi chính-t́nh trong nước. V́ mục-đích ra đi của chúng ta không phải chỉ v́ miếng-cơm manh-áo nên người thuyền-nhân tị-nạn chẳng quên t́nh nước-non, nghĩa đồng-bào. Tạo-hoá sinh muôn-loài có lẽ cũng muốn chúc-phúc tự-do và no-ấm cho tất cả. May-mắn hơn mọi người ở lại, nhờ vượt-thoát nên người ra đi được sinh-hoạt trong không-khí dân-chủ. Nhờ ư-thức rơ-ràng được tầm giá-trị cao-quư của tự-do qua cái giá quá đắt mà bản-thân chúng ta đă phải trả, nên người hải-ngoại hằng mong-mỏi đồng-bào quốc-nội cũng sẽ được thụ-hưởng tất cả những điều tốt-đẹp tương-tự. Nếu chúng ta cứ quyết-tâm tranh-đấu cho nhân-quyền không ngừng-nghỉ, một ngày nào đó sự thành-công sẽ đến trong việc chuyển-biến quê-nhà từ chế-độ độc-tài sang dân-chủ, giúp cải-tiến đời sống người dân từ nghèo-đói sang ấm-no. Sau 5 ngàn năm văn-hiến, lần đầu-tiên Việt-sử sẽ trịnh-trọng ghi các ḍng chữ vàng về công-trạng của những người thuyền-nhân đă phải bỏ nước ra đi mà vẫn nhớ gốc-nguồn. Như một truyền-thống Hải-Quân đă xưa-cũ, lại cộng thêm nỗi suy-tư của một người ưa nói chuyện đi biển cùng bạn-bè, thích viết bài tài-tử đăng báo miễn-phí, việc làm của chúng tôi chẳng được bao-nhiêu nhưng niềm mơ-ước của một người Thuỷ-thủ lại vẫn nhiều. Chúng tôi mơ-ước, những ǵ Hải-Quân VNCH đă thực-hiện, vẫn vĩnh-viễn tồn-tại với thời-gian. Ngồi ở đây, sống ở đây, sinh-hoạt ở đây. Nhu-cầu vật-chất áo-cơm thúc-hối, chiếm hết th́-giờ, không dành được bao-nhiêu cho những đóng-góp tinh-thần, nuôi-dưỡng chí-khí, hoài-băo. Hiểu và thông-cảm như vậy nhưng nếu chúng ta không lưu lại tài-liệu, sách-vở th́ thử hỏi: hậu-sinh một trăm năm sau, một ngàn năm sau, nghĩ thế nào về chúng ta? Không lẽ hơn bốn chục ngàn người trai-trẻ suốt hai mươi mấy năm trong gian-khổ chỉ ăn không ngồi-rồi, chẳng làm nên được chuyện ǵ hay sao? Nếu không có tài-liệu sử-sách lưu-truyền lại, thế-hệ sau sẽ mất một phần di-sản quư-báu của quốc-gia. Quư-vị và chúng tôi đến tham-dự buổi hội hôm nay, những bạn đóng-góp từ xưa trong sinh-hoạt hội-đoàn, họp- mặt Hàng-hải/ Hải-Quân là bằng-chứng chính-xác nhất của tinh-thần thuyền-nhân tị-nạn, của người Thuỷ-thủ, người đi biển. Trong tập-thể chúng ta, có rất nhiều các bạn trẻ khi mất nước chỉ mới trải qua ít tháng trong quân-trường, vài năm ngắn-ngủi sống trong môi-trường hàng-hải cũng vẫn nhận thấy lời kêu-gọi thiết-tha cần đi t́m lại những kỷ-niệm thời-xưa cùng các nét thân-quen của bạn-bè ngày cũ. Giữa trời-đất lạ, phải chăng người Hải-Quân thấy rơ sự hiện-hữu đương-nhiên của HQVNCH là như vậy. Dù đă mất biển, mất tàu, trong ḷng chúng ta, màu biển quê-hương vẫn c̣n xanh, màu xanh ngàn đời của Biển-Đông từ những thời xa-xưa khi Trái-Đất c̣n đắm-ch́m trong Băng-Đá. Những ǵ HQVNCH để lại, dù là trừu-tượng hay cụ-thể, dù âm-thầm hay hiển-hiện, dù phần ch́m hay phần nổi, dù trong hôm-nay hay qua ngày-mai, vẫn c̣n tại đó như một hiện-hữu vĩnh-cửu, trong cả hai kích-thước lớn của thời-gian và không-gian... Trong tinh-thần đoàn-kết lại để tồn-tại, duy-tŕ một chút ǵ đó c̣n sót lại với thời-gian, cho dù có gặp những sự nghiệt-ngă của hoàn-cảnh, Chúng tôi cổ-động cho kế-hoạch "Viết Hải-Sử" của Tổng-Hội Hải-Quân cũng v́ lẽ đó. Chúng tôi hoan-nghênh những công-tŕnh đóng-góp của những cây bút trong và ngoài Hải-Quân mà một số đă ưu-ái đến với chúng ta ngày hôm nay như chị Điệp-Mỹ-Linh, niên-trưởng Nguyễn-Ngọc-Quỳnh, các anh Trần-Quán-Niệm, Hà-Thúc-Sinh, Trịnh-Hoàng… và nhiều nhiều nữa.
*
Rất mong-mỏi quư-vị, trong hay ngoài Hải-Quân tiếp-tay cùng Tổng-Hội trong dự-án Hải-Sử. Chúng ta cùng nhau thu-góp lại các mảnh di-sản hàng-hải, có cả phần tim, phần óc, cả máu và nước mắt người thuỷ-thủ để hoạt-động có ư-nghĩa này được mạnh-mẽ hơn và kế-hoạch được chu-toàn. Danh-tướng McArthur đă từng nói: "Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ mờ-nhạt dần đi mà thôi". Chúng tôi không có dịp tuyên-bố và cũng không dám nói lớn tiếng đến như vậy, nhưng thật-tâm đă suy-nghĩ rằng: "Người Thuỷ-thủ VNCH khi già trăm tuổi tuy có phải chết đi, nhưng HQVNCH với những tinh-thần, truyền-thống và thành-quả sẽ không bao giờ mất với thời-gian".
Một lần nữa, xin cảm-ơn và xin kính chào quư-vị, kính chúc toàn-thể quư-vị sự an-b́nh tuyệt-đối trong tâm-tưởng.
Vũ-Hữu-San 1997
Phụ-Bản 11
Danh-Bạ một số Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà
Lời Tường-tŕnh của Tác-Giả. Cuốn sách “Lược-Sử” này được viết theo thể biên-niên, ghi lại các biến-chuyển của HQVN để hậu-thế có thể đọc và hiểu về tổ-chức này. Tuy vậy, với những người bạn lính biển đương-thời của Soạn-giả, cuốn sách cũng là mối giây liên-lạc mật-thiết giữa các anh em c̣n sống và để tưởng-niệm những người đă qua đời. Để đạt mục-đích ấy, phần Danh-Bạ thật là cần-thiết. Soạn-giả hy-vọng rằng con cháu các người HQVN ngay lúc này hiểu được thêm về đời sống của ông cha, giữ cuốn sách làm kỷ-niệm lâu-dài theo với truyền-thống gia-đ́nh Việt-Nam. Qua sự ước-lượng có thể tin-tưởng được, khoảng trên 70 ngàn thanh-niên đă phục-vụ dưới quân-kỳ Hải-Quân VNCH. Sau nhiều cố-gắng, danh-sách sau đây thu-lượm được chưa quá 1/20 số-lượng đó, ghi danh-tính những thành-viên tương-đối quan-trọng cho tổ-chức mà thôi. Hy-vọng các cựu HQVN giúp-đỡ việc tu-chỉnh. Vai-tṛ của mọi đoàn-viên HQVN các cấp đều xứng-đáng vinh-danh. Tác-Giả xin các bạn niên-trưởng và niên-đệ, cho dù 1975 mới vào nghề, cũng nên ghi tên ḿnh và bạn của ḿnh (c̣n sinh-tiền hay đă hy-sinh) vào danh-bạ HQVN cho lần tái-bản cuốn sách này được đông-đủ hơn. Không thành-công cũng thành-nhân, chúng ta hănh-diện với con cháu và lưu-danh mai-hậu. Xin chân-thành cảm-tạ.
Anh-Hùng Hoàng-Sa Xin được trân-trọng nghiêng ḿnh trước những anh-hùng tử-sĩ oai-hùng đă hy sinh bảo-vệ tự-do, giữ-ǵn lănh-thổ cùng hải-phận cho dân-tộc. Trước hết là danh-tính các Tử-Sĩ hy-sinh trong trận hải-chiến Hoàng-Sa ngày 19/1/1974 đánh-ch́m tàu địch: HQ.10
Tên
Số Quân
1 HQ.Th/Tá Ngụy-Văn-Thà
HT 2 HQ.Đ/Úy Nguyễn-Thành-Trí
HP 3 ThS.1/TP
Châu
QNT 4 TS /QK Nguyễn-Văn Tuấn
5 TS /GL Vương Thương
6 TS /TP
Nam
7 TS /TP
Đức
8 TT /ĐT
Thanh
9 ThS ĐT
Thọ
10 HQ.Tr/Úy Vũ-Văn Bang 66A/702.337
11 HQ.Tr/Úy Phạm-Văn Đồng 67A/701.990
12 HQ.Tr/Úy Huỳnh-Duy Thạch 63A/702.639 CKT 13 HQ.Tr/Úy Ngô-Chí Thành 68A/702.453
14 HQ.Tr/Úy Vũ-Đ́nh Huân 69A/703.058
15 THS.1/CK Phan-Tân Liêng 56A/700.190
16 THS.1/ĐK Vơ-Thế Kiệt 61A/700.579
17 THS. /VC Hoàng-Ngọc Lê 53A/700.030
18 TRS.1/VT Phan-Tiên Chung 66A/701.539
19 TRS. /TP Huỳnh-Kim Sang 70A/702.678
20 TRS. /TX Lê-Anh Dũng 70A/700.820
21 TRS. /ĐK Lai-Viết Luận 69A/700.599
22 TRS. /VC Ngô-Tấn Sơn 71A/705.471
23 TRS. /GL Nguyễn-Văn On 69A/701.695
24 TRS. /TP Nguyễn-Thành Trong 72A/700.861
25 TRS. /TP Nguyễn-Vinh Xuân 70A/703.062
26 TRS. /CK Phạm-Văn Qúy 71A/703.502
27 TRS. /CK Nguyễn-Tấn Sĩ 66A/701.761
28 TRS. /CK Trần-Văn Ba 65A/700.365
29 TRS. /ĐT Nguyễn-Quang Xuân 70A/703.755
30 TRS. /BT Trần-Văn Đàm 64A/701.108
31 HS.1 /VC Lê-Văn Tây 68A/700.434
32 HS.1 /VC Lương-Thành Thu 70A/700.494
33 HS.1 /TP Nguyễn-Quang Mén 65A/702.384
34 HS.1 /VC Ngô Sáu 68A/700.546
35 HS.1 /CK Đinh-Hoàng Mai 70A/700.729
36 HS.1 /CK Trần-Văn Mông 71A/703.890
37 HS.1 /DV Trần-Văn Định 69A/700.627
38 HS /VC Trương-Hồng Đào 71A/704.001
39 HS /VC Huỳnh-Công Trứ 71A/701.671
40 HS /GL Nguyễn-Xuân Cường 71A/700.550
41 HS /GL Nguyễn-Văn Hoàng 72A/702.678
42 HS /TP Phan-Văn Hùng 71A/706.091
43 HS /TP Nguyễn-Văn Thân 71A/702.606
44 HS /TP Nguyễn-Văn Lợi 62A/700.162
45 HS /CK Trần-Văn Bây 68A/701.244
46 HS /CK Nguyễn-Văn Đông 71A/703.792
47 HS /PT Trần-Văn Thêm 61A/701.842
48 HS /CK Phạm-Văn Ba 71A/702.200
49 HS /DK Nguyễn-Ngọc Hoà 71A/705.756
50 HS /DK Trần-Văn Cường 72A/701.122
51 HS./PT Nguyễn-Văn Phương 71A/705.951
52 HS /PT Phan-Văn Thép 70A/703.166
53 TT.1 /TP Nguyễn-Văn Nghĩa 72A/703.928
54 TT.1 /TP Nguyễn-Văn Đức 73A/701.604
55 TT.1 /TP Thi-Văn Sinh 72A/703.039
56 TT.1 /TP Lư-Phùng Quí 71A/704.165
57 TT.1 /VT Phạm-Văn Thu 70A/702.198
58 TT.1./PT Nguyễn-Hữu Phương 73A/702.542
59 TT.1 /TX Phạm-Văn Lèo 73A/702.651
60 TT.1 /CK Dương-Văn Lợi 73A/701.643
61 TT.1 /CK Châu-Tuỳ Tuấn 73A/702.206
62 TT.1 /DT Đinh-Văn Thục 71A/704.487
HQ. 4
HQ Th/Uư Nguyễn-Phúc Xá
Tr. Khẩu
HS1/VC Bùi-Quốc Danh
Xạ Thủ
Biệt-Hải Nguyễn-Văn Vượng Xung-phong Tiếp Đạn
HQ.5
HQ Tr/Úy Nguyễn-Văn Đồng
ThS/ĐT Nguyễn-Phú Hào
TS1TP Nguyễn-Đ́nh Quang
HQ.16
TS/ĐK
Xuân
HS/QK Nguyễn-Văn Duyên
Người-Nhái
Tr/Úy NN Lê-Văn Đơn
Tr. Toán
HS/NN Đỗ-Văn Long
TS/NN Đinh-Hữu Từ
NN Nguyễn-Văn Tiến
Các Anh-hùng Hải-Quân của HQ-10.
Các Hạ-Sĩ-Quan và Đoàn-Viên Hải-Quân anh-hùng đă hy-sinh v́ lư-tưởng Quốc-Gia, mà các Tuần-Duyên-Đĩnh được mang tên: Lê-Phước-Đức, Lê-Văn-Ngà, Huỳnh-Văn-Cự, Nguyễn-Đào, Đào-Thục, Lê-Ngọc-Thanh, Nguyễn-Ngọc-Thạch, Đặng-Văn-Hoành, Lê-Đ́nh-Hùng, Trương-Tiến, Phạm-Ngọc-Châu, Đào-Văn-Đáng, Lê-Ngọc-Ẩn, Huỳnh-Văn-Ngàn, Trần-Lô, Bùi-Viết-Thanh, Nguyễn-An, Nguyễn-Ân, Ngô-Văn-Quyền, Văn-Diên, Hồ-Đăng-Là, Đàm-Thoại, Huỳnh-Bộ, Nguyễn-Kim-Hưng, Hồ-Duy, Trương-Ba.
Danh-sách Thủy-thủ-đoàn thuộc Trợ-Chiến-Hạm Nỏ-Thần HQ-225 hy-sinh khi chiến-hạm ch́m tại Sông Cái-Lớn, Năm-Căn ngày 30-7-1970: HQ Thiếu-Úy Nguyễn-Công-Khanh, HSI Vch Bùi-Văn-Tấn, TTI KT Từ-Hồng, TT Vch Trương-Văn-Ninh, TT Vch Nguyễn-Văn-Quang, TT TP Lương-Đức-Khánh, TT CK Nguyễn-Nghi.
Danh-sách Thủy-thủ-đoàn thuộc Hộ-Tống-Hạm Nhật-Tảo HQ-10 đă trở về sau trận hải-chiến Hoàng-Sa, trích ra từ quyển nhật-kư của HQ Chuẩn-Úy Tất-Ngưu: - Hạ-Sĩ-Quan & Đoàn-Viên: Vơ-Văn-Bằng, Vơ-Văn-Bằng, Nguyễn-Văn-Tám, Trần-Ngọc-Sơn, Phạm-Văn-Lợi, Vơ-Văn-Tuấn, Lê-Tấn-Hưng, Vương-Văn-Và, Lưu-Tố-Nữ, Nguyễn-Hồng-Cứng, Huỳnh-Văn-Ḥa, Nguyễn-Văn-A, Trần-Văn-Hà, Đỗ-Văn-Thành, Trương-Văn-Long. - Sĩ-Quan: Hà-Đăng-Ngân, Phạm-Văn-Th́, Ngô-Văn-Ḥa, Nguyễn-Đông-Mai, Phạm-Thế-Hùng, Tất-Ngưu.
Danh-sách toán đổ-bộ của Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4 t́nh-nguyện chiếm-giữ đảo Cam-Tuyền (Robert) ngày 18-1-1974: ĐT Quư, TP Hội, TP Cung, TP Chương, PT Bắc, QK Nghiêm, BT Thắng, KT Hưng, CK Chí, CK Huy, PT Hùng, VC Thanh, GL Lâm và HQ Trung-Úy Lê-Văn-Dũng. Tất cả b́nh-an trở về khi trao-trả tù-binh.
Các Hạ-Sĩ-Quan & Đoàn-Viên đầu-tiên của HQVN Do tài-liệu và qua trí nhớ của các cựu HQVN, một số Hạ-Sĩ-Quan & Đoàn-Viên đầu-tiên của HQVN thuộc đoàn tuyển-mộ và hướng-dẫn tân-binh HQVN nhập-trại. Đó là các Ông Thượng-Sĩ Lộc, Nhẫn, Bảo, Uyển CK, Thanh, Dưỡng, Trị, Gậy, Mau, Nguyễn-Văn-Giỏi Y-tá... Tuy-vậy các Thượng-Sĩ kể trên và số Đoàn-Viên thuộc-cấp của họ được xếp vào loại “Ngù Đỏ”. Các đoàn-viên tân-tuyển mới thực-sự là Ngù Đen thuần-tuư HQVN. Tại Sài-G̣n, vùng Tân-Định; những Ông Lư-Thành-Qui, Lư-Thành-Lân, Nguyễn-Văn-Mạch, Tống-Hữu-Minh, Trân, Khanh... tŕnh-diện đầu-tiên tại pḥng tuyển-binh. Vào đầu tuần-lễ sau đó, một danh-sách với số quân được ban-hành. Ông Cảnh được vinh-dự xếp hàng số 1, số quân là 152.001. Ông Lư-Thành-Qui nhớ rất rơ-ràng Ông mang số quân 152-046. Sau khi các tân-binh tập-trung tại Trung-Tâm Huấn-Luyện tại Nha-Trang, khoá học chuyên-nghiệp khởi-sự. Một số tên c̣n nhớ được như sau: - Giám-lộ (GL): Lê-Cát, Lư-Quang-Sơn, Trần-Văn-Thi, Cao-Xuân-Trác... - Vận-chuyển (VCh): Cao-Hữu-Vinh, Nguyễn-Văn-Mạch, Nguyễn-Văn-Ngọ, Phạm-Văn-Liên... - Trọng-pháo (TP): Lư-Thành-Qui, Nguyễn-Văn-Phúc, Nguyễn-Văn-Hai... - Cơ-Khí (CK): Nguyễn-Hào-Cường, Lê-Văn-Ngàn, Lư-Thành-Lân, Ismahel... - Tiếp-vụ (TV): Trần-Trung-Huy, Nguyễn-Văn-Toại... - Y-tá (YT): Nguyễn-Văn-Lợi, Kim, Quân, Tuấn... - Chiến-Binh (fusilier): Hồ-Văn Bé-Hai, Trần-Văn-Sùng, Nguyễn-Văn-Điểm...
Khoá-sinh Khoá 1 DV tại TTHL/HQ Nha-Trang, 1952.
Các Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam 545
Quang-cảnh một buổi lễ măn-khoá Tang-bồng hồ-thỉ nam-nhi chí Nam-Dương nhị-thứ Tổ-Quốc ghi Những lời-thề vang-động cả một góc trời-biển Nha-Trang. Khoá 22 Đệ Nhị Nam-Dương ra khơi nhận nhiệm-vụ.
Danh-Sách Khoá 1 (tháng 7-1952 đến tháng 10-1952): 1) Đoàn-Ngọc-Bích 2) Chung-Tấn-Cang 3) Trần-Văn-Chơn 4) Nguyễn-Văn-Lịch 5) Lê-Quang-Mỹ 6) Trần-Văn-Phấn 7) Hồ-Tấn-Quyền 8) Lâm-Nguơn-Tánh 9) Lương-Thanh-Tùng
Danh-Sách Khoá 2 (tháng 11-1952 đến tháng 5-1953): 1) Khương-Hữu-Bá 2) Đặng-Cần-Chánh 3) Vơ-Văn-Chơn 4) Đỗ-Quư-Hợp 5) Đinh-Mạnh-Hùng 6) Nguyễn-Văn-Kinh 7) Ngô-Khắc-Luân 8) Trương-Ngọc-Lực 9) Nghiêm-Văn-Phú 10) Phùng-Nhật-Tân 11) Nguyễn-Văn-Thu 12) Nguyễn-Hữu-Tiễng 13) Nguyễn-Văn-Trụ
Các SVSQ/HQ Khoá 2 họp mặt mừng Giáng Sinh cuối năm 1952. Danh-Sách Khoá 3 (tháng 7-1953 đến tháng 1-1954): 1) Hoàng-Ngọc-Bảo 2) Nguyễn-Thanh-Châu 3) Nguyễn-Hữu-Chí 4) Phan-Văn-Cổn 5) Lộ-Văn-Dần 6) Trần-Phước-Dũ 7) Vũ-Đ́nh-Đào 8) Phạm-Văn-Đồng 9) Huỳnh-Kim-Gia 10) Vũ-Hiển 11) Nguyễn-Hiền-Năng 12) Nguyễn-Văn-Nhân 13) Bùi-Kim-Nguyệt 14) Nguyễn-Thiện-Nhựt 15) Nguyễn-Văn-Nhung 16) Trần-B́nh-Sang 17) Nguyễn-Văn-Thông 18) Nguyễn-Văn-Thu 19) Diệp-Quang-Thuỷ 20) Nhan-Chấn-Toàn 21) Lê-Thanh-Truyền 22) Vũ-Anh-Tuấn 23) Nguyễn-Ngọc-Xuân
Danh-Sách Khoá 4 (tháng 2-1954 đến tháng 12-1954): 1) Nguyễn-An 2) Nguyễn-Văn-Ánh 3) Đỗ-Ngọc-Anh 4) Đặng-Trần-Dzu 5) Trần-Phụng-Đ́nh 6) Nguyễn-Văn-Hoa 7) Phạm-Mạnh-Khuê 8) Phạm-Gia-Luật 9) Tăng-Bá-Long 10) Vơ-Văn-Mười 11) Lê-Kim-Sa 12) Nguyễn-Xuân-Sơn 13) Hồ-Văn-Kỳ-Thoại 14) Nguyễn-Bá-Trang 15) Bùi-Cửu-Viên
Danh-Sách Khoá 5 (tháng 7-1954 đến tháng 5-1955): 1) Đinh-Công-Chân 2) Lê-Triệu-Đẩu 3) Vũ-Trọng-Đệ 4) Nguyễn-Trọng-Hiệp 5) Đặng-Trung-Hiếu 6) Nguyễn-Công-Hội 7) Nguyễn-Văn-Hớn 8) Trần-Văn-Lâm 9) Phan-Phi-Long 10) Nguyễn-Văn-May 11) Hoàng-Cơ-Minh 12) Hà-Văn-Ngạc 13) Nguyễn-Thanh-Nhàn 14) Nguyễn-Phổ 15) Lưu-Đ́nh-Phú 16) Trần-B́nh-Phú 17) Phan-Phi-Phụng 18) Dương-Văn-Quư 19) Vũ-Ngọc-Riễm 20) Nguyễn-Tam 21) Nguyễn-Viết-Tân 22) Trịnh-Kim-Thanh 23) Nguyễn-Hữu-Tố
Các SQHQ khoá 5 mặc quân-phục đại-lễ tại Kỳ-Đài TTHLHQ/NT, Một Sĩ-Quan mặc tiểu-lễ soọc đứng giữa.
Danh-Sách Khoá 6 (tháng 4-1955 đến tháng 3-1956): 1) Nguyễn-Văn-Ân 2) Trần-Văn-Chỉ 3) Phạm-Cừ (K 3 Brest ) 4) Nguyễn-Trọng-Dư 5) Nguyễn-Văn-Học 6) Nguyễn-Trần-Hùng 7) Nguyễn-Đ́nh-Hùng 8) Đặng-Ngọc-Lân 9) Nguyễn-Đăng-Năng 10) Hoàng-Nam 11) Vũ-Nhân (K 3 Brest ) 12) Hoàng-Văn-Nhân 13) Bùi-Huy-Phong 14) Lê-Thuần-Phong 15) Nguyễn-Văn-Tần 16) Nguyễn-Quang-Tộ 17) Bùi-Đức-Trọng 18) Phan-Tự-Trọng 19) Phạm-Mạnh-Tuân 20) Nguyễn-Trí-Tuệ 21) Nguyễn-Văn-Tường
Danh-Sách Khoá 1 Brest (tháng 10-1952 đến tháng 2-1955): 1) Nguyễn-Văn-Duyên 2) Nguyễn-Gia-Định 3) Nguyễn-Tân 4) Đặng-Cao-Thăng 5) Vương-Hữu-Thiều 6) Nguyễn-Đức-Vân 7) Nguyễn-Vân
Danh-Sách Khoá 2 Brest (tháng 9-1953 đến tháng 1-1956): 1) Vũ-Xuân-An 2) Ủ-Văn-Đức 3) Dư-Trí-Hùng 4) Bùi-Văn-Lễ 5) Nguyễn-Kim-Lượng 6) Hồ-Ngọc-Ngà 7) Phương-Xuân-Nhàn 8) Trịnh-Xuân-Phong 9) Nguyễn-Ngọc-Quỳnh 10) Bùi-Tiến-Rũng 11) Nguyễn-Tân (K1 Brest ) 12) Đinh-Gia-Tường
Danh-Sách Khoá 3 Brest (tháng 9-1954 đến tháng 12-1956): 1) Phạm-Cừ 2) Nguyễn-Quang-Dật 3) Đặng-Đ́nh-Hiệp 4) Nguyễn-Văn-Khánh 5) Đỗ-Kiểm 6) Vũ-Nhân 7) Đỗ-Ngọc-Oánh 8) Lê-Phụng 9) Phạm-Văn-Sanh 10) Bùi-Hữu-Thư 11) Vũ-Tư-Trực 12) Trịnh-Quang-Xuân
Danh-Sách Khoá 4 Brest (tháng 9-1955 đến tháng 6-1957): 1) Lê-Triệu-Đẩu 2) Nguyễn-Địch-Hùng 3) Nguyễn-Tiến-Ích 4) Nguyễn-Kim-Lượng (K2 Brest ) 5) Vơ-Duy-Ninh 6) Trần-Văn-Sơn
Những Sĩ-Quan Quân-Y Hải-Quân đầu-tiên Y-sĩ Thiếu-Tá Phạm-Tấn-Tước Y-sĩ Đại-Úy Nguyễn-Gia-Quưnh Y-Sĩ Trần-Nguơn-Phiêu Y-Sĩ Phạm-Vận Y-Sĩ Dương-Hồng-Mô Y-Sĩ Đặng-Tất-Khiêm Y-Sĩ Nguyễn-Văn-Nghiă Y-Sĩ Nguyễn-Phúc-Quế Nha-sĩ Đại-Úy Nguyễn-Văn-Hiền Dược-sĩ Đại-Úy Thái-Hữu-Đức Danh-Sách Khoá 7 (tháng 1-1956 đến tháng 7-1957): 1) Quản An 2) Nguyễn-Hồng-Báu 3) Trần-Công-B́nh 4) Nguyễn-Văn-Chuyên 5) Nguyễn-Minh-Công 6) Hồ-Duy-Duyên 7) Bùi-Xuân-Đàm 8) Lê-Tấn-Đạt 9) Huỳnh-Kim-Gia 10) Trương-Văn-Giỏi 11) Tô-Văn-Hai 12) Trịnh-Hoà-Hiệp 13) Nguyễn-Văn-Hoa 14) Trịnh-Văn-Hoàng 15) Nguyễn-Đức-Huy 16) Đỗ-Quang-Khanh 17) Nguyễn-Trọng-Liêm 18) Trần-Vạng-Lợi 19) Nguyễn-Lũy 20) Ngô-Quí-Mô 21) Hoàng-Nam 22) Nguyễn-Hữu-Ngọc 23) Vơ-Nghiệp-Phối 24) Nguyễn-Văn-Quang 25) Thái-Xuân-Quới 26) Nguyễn-Văn-Quỳnh 27) Phạm-Ngọc-Quỳnh 28) Nguyễn-Ngọc-Rắc 29) Đoàn-Danh-Tài 30) Nguyễn-Nam-Thanh 31) Nguyễn-Văn-Thiện 32) Huỳnh-Duy-Thiệp 33) Nguyễn-Năng-Thông 34) Lê-Thành-Thọ 35) Đoàn-Văn-Tiếng 36) Phạm-Văn-Tiêu 37) Nguyễn-Văn-Ṭng 38) Trần-Văn-Tư 39) Lê-Công-Trí 40) Trần-Văn-Triết 41) Nguyễn-Kim-Triệu 42) Nguyễn-Văn-Tuyên 43) Phạm-Ngọc-Uẩn 44) Lê-Thành-Uyển 45) Hà-Đắc-Vinh 46) Phan-Tấn-Xuân
Các SVSQ/HQ Khoá 7 Đệ-Nhất Thiên-Xứng. Danh-Sách Khoá 8 (tháng 1-1958 đến tháng 4-1960): 1) Bùi-Đức-Ân 2) Phạm-Duy-Cần 3) Trần-Nhật-Chinh 4) Lưu-Chuyên 5) Bửu-Diên 6) Nguyễn-Văn-Dinh 7) Lê-Hữu-Dỏng 8) Lê-Nghiêm-Dũng 9) Bùi-Xuân-Đàm 10) Đinh-Vĩnh-Giang 11) Nguyễn-Ngọc-Hà 12) Trần-Văn-Hăn 13) Lê-Công-Hảo 14) Trần-Đ́nh-Hoà 15) Vơ-Văn-Huệ 16) Trịnh-Tiến-Hùng 17) Tôn-Thất-Hiệu 18) Trần-Kim-Khôi 19) Nguyễn-Ngọc-Khôi 20) Tôn-thất-Kỳ 21) Nguyễn-Thái-Lai 22) Mai-Mộng-Liễn 23) Phạm-Ứng-Luật 24) Vơ-Trọng-Lưu 25) Hồ-Quang-Minh 26) Lê-Huy-Ngân 27) Nguyễn-Văn-Nhựt 28) Nguyễn-Văn-Niệm 29) Nguyễn-Văn-Pháp 30) Liên-Phong 31) Nguyễn-Văn-Phước 32) Đoàn-Văn-Quảng 33) Lê-Hữu-Quưnh 34) Tôn-Thất-Sanh 35) Nguyễn-Thế-Sinh 36) Nguyễn-Công-Tâm 37) Trương-Thanh-Tân 38) Hoàng-Thế-Thái 39) Tạ-Quang-Thành 40) Lư-Thăng 41) Phạm-Thọ 42) Nguyễn-Văn-Thọ 43) Nguyễn-Minh-Thơ 44) Lê-Thương 45) Nguyễn-Viết-Tiến 46) Trần-Đ́nh-Trụ 47) Nguyễn-Duy-Trại 48) Mai-Trọng-Truật 49) Nguyễn-Thành-Út 50) Nguyễn-Tường-Yên
Các SVSQ/HQ Khoá 8 Đệ-Nhất Hổ Cáp. Danh-Sách Khoá 9 (tháng 3-1959 đến tháng 5-1961): 1) Đặng-Mạnh-Am 2) Trần-Thúy-Bách 2) Hồ-Ngọc-Báu 4) Trần-Đức-Cử 5) Trần-Văn-Đáo 6) Hồ-Đấu 7) Nguyễn-Đ́nh-Điều 8) Tôn-Thất-Đôn 9) Vơ-Tấn-Đời 10) Nguyễn-Hữu-Đức 11) Nguyễn-Phước-Đức 12) Phạm-Ngọc-Gia 13) Ong-Kim-Hên 14) Lê-Tấn-Hiển 15) Mai-Văn-Hoa 16) Lê-Văn-Huấn 17) Nguyễn-Quang-Hùng 18) Nguyễn-Đ́nh-Hùng 19) Phan-Tấn-Hưng 20) Trần-Hương 21) Bùi-Trọng-Kim 22) Hà-Ngọc-Lương 23) Nguyễn-Văn-Lương 24) Nguyễn-Văn-Nhượng 25) Hà-Thúc-Phát 26) Trần-Bá-Phước 27) Lê-Văn-Quế 28) Nguyễn-Công-Tâm 29) Trần-Văn-Tâm 30) Lê-Văn-Th́ 31) Nguyễn-Ngọc-Tính 32) Nguyễn-Thành-Tính 33) Lê-Xuân-Thu 34) Trần-Quốc-Tuấn 35) Phan-Tử-Ty 36) Tăng-Hồng-Vân 37) Dương-Hồng-Vơ 38) Nguyễn-Hữu-Xuân Danh-Sách Khoá 10 (tháng 7-1960 đến tháng 7-1962): 1) Hồ-Tấn-Anh 2) Vương-Đắc-Ân 3) Lê-Văn-B́nh 4) Nguyễn-Đức-Bổng 5) Huỳnh-Hữu-Cầu 6) Nguyễn-Thành-Công 7) Vũ-Quốc-Công 8) Bùi-Tân-Cương 9) Vơ-Hữu-Danh 10) Hà-Hiếu-Diệp 11) Lưu-Trọng-Đa 12) Trần-Thanh-Điền 13) Nguyễn-Phước-Đức (K 9 ) 14) Hoàng-Hà 15) Nguyễn-Hải 16) Nguyễn-Văn-Hào 17) Ngô-Thế-Hiển 18) Trần-Tiến-Hùng 19) Trần-Nam-Hưng 20) Trần-Thiện-Hữu 21) Nguyễn-Tuấn-Khanh 22) Đỗ-Thế-Khải 23) Nguyễn-ngọc-Khải 24) Bùi-Hùng-Khoát 25) Trần-Đ́nh-Kỳ 26) Lê-Như-Linh 27) Phạm-Thành-Long 28) Nguyễn-Tri-Mai 29) Lê-Văn-Ngọc 30) Nguyễn-Ngọc 31) Nguyễn-Đại-Nhơn 32) Phạm-Thành-Nhơn 33) Nguyễn-Hữu-Phú 34) Trần-Bá-Phước 35) Ngô-Tấn-Quanh 36) Trần-Công-Quốc 37) Lê-Văn-Rạng 38) Phạm-Đ́nh-San 39) Hoàng-Minh-Tâm (Cấn-Văn-Tâm ) 40) Trần-Ngọc-Thạch 41) Nguyễn-Văn-Thái 42) Đinh-Tuấn-Thành 43) Huỳnh-Ngọc-Thành 44) Dương-Bá-Thế 45) Phạm-Đỗ-Thịnh 46) Lưu-Phú-Thọ 47) Lê-Bá-Thông 48) Nguyễn-Ngọc-Thông 49) Trần-Mích-Thùy 50) Lê-Văn-Thự 51) Nguyễn-Mạnh-Trí 52) Nguyễn-Quốc-Trị 53) Châu-Văn 54) Đinh-Tế-Vũ 55) Phan-Ngọc-Xuân
Các SVSQ/HQ Khoá 10 Đệ-Nhất Nam-Dương. Danh-Sách Khoá 11 (tháng 8-1961 đến tháng 4-1963): 1) Nguyễn-A 2) Phạm-Duy-Anh 2) Nguyễn-Văn-Anh 4) Nguyễn-Phú-Bá 5) Trần-Hữu-Bân 6) Trần-Ngọc-Bảo 7) Hồ-Ngọc-Báu 8) Hoàng-Đ́nh-Báu 9) Vơ-Văn-Bảy 10) Nguyễn-Hoài-Bích 11) Trần-Ngọc-Bích 12) Trần-Đ́nh-B́nh 13) Trần-Đỗ-Cẩm 14) Lê-Thượng-Chiêu 15) Lưu-Lương-Cơ 16) Nguyễn-Văn-Cự 17) Hồ-Đắc-Cung 18) Hoàng-Dần 19) Đặng-Diệm 20) Trần-Thế-Diệp 21) Trương-Văn-Đăng 22) Trương-Quí-Đô 23) Nguyễn-Tấn-Đơn 24) Nguyễn-Châu-Giám 25) Phan-Tứ-Hải 26) Trần-Trọng-Hải 27) Phạm-Văn-Hàm 28) Trần-Văn-Hoa-Em 29) Lê-Văn-Huê 30) Đinh-Mạnh-Hùng 31) Phạm-Văn-Hưng 32) Nguyễn-Xuân-Huy 33) Nguyễn-Kim-Khánh 34) Trần-Hữu-Khánh 35) Lư-Anh-Kiệt 36) Vơ-Duy-Kỷ 37) Nguyễn-Xuân-Lang 38) Lê-Quang-Lập 39) Nguyễn-Văn-Lộc 40) Lê-Kim-Lợi 41) Vĩnh-Lợi 42) Nguyễn-Ngọc-Long 43) Trần-Đ́nh-Liệu 44) Nguyễn-Ngọc-Luân 45) Đặng-Vĩnh-Mai 46) Hứa-Hồng-Minh 47) Phạm-Văn-Minh 48) Lê-Thành-Nam 49) Mai-Quang-Nẫm 50) Nguyễn-Nghĩa 51) Nguyễn-Nguyên 52) Nguyễn-Văn-Ơn 53) Ngô-Tấn-Quanh (K10 ) 54) Vơ-Văn-Quợt 55) Lê-Văn-Quí 56) Nguyễn-Ngọc-Quyên 57) Phạm-Trọng-Quỳnh 58) Trương-Hữu-Quưnh 59) Phạm-Đức-Riễn 60) Nguyễn-Thanh-Sắc 61) Vũ-Hữu-San 62) Dương-Quang-Sang 63) Nguyễn-Văn-Tánh 64) Nguyễn-Minh-Thành 65) Trần-Quang-Thiệu 66) Trịnh-Đ́nh-Thiện 67) Nguyễn-Ngọc-Thông 68) Trương-Văn-Thịnh 69) Phan-Thành-Thuận 70) Vơ-Quang-Thủ 71) Phan-Lạc-Tiếp 72) Phạm-Văn-Thụy 73) Nguyễn-Cao-Toàn 74) Nguyễn-Văn-Tính 75) Vũ-Bá-Trạch 76) Nguyễn-Chí-Toàn 77) Nguyễn-Tường 78) Trần-Văn-Trung 79) Ngô-Xuân-Ư 80) Bùi-Quang-Vinh 81) Chu-Bá-Yến
Chân Dung 81 SVSQ/HQ Khoá 11 (XI) Đệ-Nhất Bảo-B́nh tŕnh-bày trong Niên-Giám 40 năm Kỷ-Niệm Khoá 11, 2001, Trang 35-36. Danh-Sách Khoá 12 (tháng 8-1962 đến tháng 3-1964): 1) Trần-Ngọc-Anh 2) Nguyễn-Đ́nh-Ấp 3) Trần-Văn-Ba 4) Lê-Như-Bái 5) Nguyễn-Ban 6) Vũ-Văn-Bang 7) Nguyễn-Văn-Bảo 8) Nguyễn-Hoàng-Be 9) Nguyễn-Văn-Bé 10) Lê-Văn-B́nh (K 10 ) 11) Lê-Văn-Cát 12) Nguyễn-Văn-Căn 13) Lê-Trọng Cận 14) Nguyễn-Phước-Chắc 15) Lê-Viêm-Côn 16) Nguyễn-Văn-Danh 17) Nguyễn-Văn-Đăng 18) Lê-Phương-Đăng 19) Trần-Thanh-Đào 20) Ong-Văn-Đào 21) Nguyễn-Khánh-Đông 22) Nguyễn-Ngọc-Giang 23) Nguyễn-Ngọc-Gia 24) Nguyễn-Ngọc-Hà 25) Nguyễn-Văn-Hiền 26) Ngô-Thế-Hiển (K 10 ) 27) Nguyễn-Văn-Hoa 28) Vơ-Duy-Hội 29) Đoàn-Ngọc-Hùng 30) Nguyễn-Hữu-Hùng 31) Trần-Thiện-Hữu (K 10 ) 32) Nguyễn-Văn-Hy 33) Triệu-Nguyên-Khâm 34) Nguyễn-Duy-Khanh 35) Nguyễn-Gia-Kiên 36) Ngô-Khuây 37) Nguyễn-Tiến-Lan 38) Nguyễn-Thế-Lang 39) Hồ-Lâm 40) Nguyễn-Đ́nh-Lâm 41) Đỗ-Trọng-Lễ 42) Nguyễn-Khoa-Lô 43) Phạm-Ngọc-Lộ 44) Nguyễn-Lộc 45) Nguyễn-Thiện-Lực 46) Nguyễn-Văn-Minh 47) Nguyễn-Gia-Nam 48) Trần-Trọng-Ngà 49) Huỳnh-Tấn-Nhân 50) Lê-Huệ-Nhi 51) Phan-Hữu-Niệm 52) Nguyễn-Khương-Ninh 53) Trương-Đ́nh-Ninh 54) Trần-Văn-Phát 55) Hồ-Tấn-Phát 56) Nguyễn-Đa-Phúc 57) Trương-Văn-Phương 58) Nguyễn-Tạ-Quang 59) Nguyễn-Hưng-Quảng 60) Nguyễn-Duy Quấc 61) Văn-Trung-Quân 62) Trần-Công-Quốc 63) Trần-Đ́nh-Quư 64) Ngô-Sanh 65) Ngô-Văn-Sơn 66) Nguyễn-Sỉ 67) Phạm-Văn-Tạo 68) Trần-Văn-Tâm 69) Vơ-Thành-Tâm 70) Khúc-Tánh 71) Ngụy-Văn-Thà 72)Trần-Ngọc-Thạch (K 10 ) 73) Đặng-Hữu-Thân 74) Đỗ-Công-Thành 75) Lê-Tấn-Thành 76) Vơ-Ngọc-Thành 77) Hà-Tấn-Thể 78) Nguyễn-Trí-Thi 79) Nguyễn-Th́n 80) Nguyễn-Văn-Thiện 81) Phạm-Đ́nh-Thiện 82) Nguyễn-Tấn-Thơ 83) Nguyễn-Trung-Thiều 84) Trần-Hữu-Thu 85) Lê-Đức-Thu 86) Quách-Thuận 87) Nguyễn-Thanh-Thuỷ 88) Hoàng-Ngọc-Trai 89) Lê-Triều 90) Lê-Tấn-Triệu 91) Nguyễn-Kim-Trọng 92) Nguyễn-Chí-Trung 93) Vơ-Văn-Trung 94) Đỗ-Trừ 95) Lê-Cao-Trực 96) Nguyễn-Văn-Tư 97) Nguyễn-Thiện-Từ 98) Hà-Quang-Tự 99) Châu-Ngọc-Tuấn 100) Đỗ-Viết-Viễn 101) Trần-Mạnh-Việt 102) Đoàn-Quang-Vũ 103) Lê-Văn-Xuân
Các SVSQ/HQ Khoá 12 Đệ-Nhất Song Ngư Danh-Sách Khoá 13 (tháng 5-1963 đến tháng 12-1964): 1) Nguyễn-An 2) Nguyễn-Văn-Anh 3) Phạm-Ngọc-Ấn 4) Đào-Tấn-Bách 5) Thùy-Trinh-Bạch 6) Hoàng-Xuân-Bái 7) Dương-Văn-Bang 8) Nguyễn-Văn-Bào 9) Nguyễn-Thụy-Bích 10) Nguyễn-Xuân-Biên 11) Hoàng-Trọng-Biểu (K16 Đà-Lạt) 12) Nguyễn-Mạnh-B́nh 13) Lê-Văn-Cảnh 14) Phạm-Gia-Chính 15) Nguyễn-Hoàng-Chương 16) Nguyễn-Hồng-Diệm (K16 Đà-Lạt) 17) Lê-Tiến-Diện 18) Nguyễn-Dinh 19) Nguyễn-Thụy-Đào 20) Nguyễn-Đăng-Đốm 21) Trương-Hoàng-Đông 22) Nguyễn-Minh-Đức 23) Ung-Văn-Đức 24) Đặng-Vũ-Hạ 25) Vơ-Đức-Hà 26) Nguyễn-Văn-Hải 27) Bùi-Tiến-Hoàn 28) Hồ-Đắc-Hậu 29) Từ-Thiện-Hay 30) Hoàng-Hiền 31) Nguyễn-Hiệp-Hoài 32) Phi-Ngọc-Khánh 33) Phạm-Hữu-Khoa 34) Đặng-Phước-Kiếm 35) Nguyễn-Tấn-Kiện 36) Nguyễn-Công-Anh-Kiệt 37) Nguyễn-Đăng-Lạc 38) Hoàng-Trí-Lễ 39) Trần-Ngọc-Liên 40) Nguyễn-Duy-Long (K16 Đà-Lạt) 41) Vơ-Công-Mạnh 42) Phùng-Gia-Mùi (K16 Đà-Lạt) 43) Nguyễn-Văn-Nghiă 44) Tôn-Thất-Nghiă 45) Lê-Đ́nh-Nghiệp 46) Trương-Trung-Nguyên 47) Phạm-Văn-Phấn 48) Nguyễn-Xuân-Phô 49) Nguyễn-Như-Phú (K16 Đà-Lạt) 50) Hà-Thành-Phúc 51) Lại-Tích-Phúc 52) Lê-Văn-Phùng 53) Vũ-Xuân-Phương 54) Trương-Văn-Quí 55) Nguyễn-Văn-Quyền 56) Nguyễn-Văn-Sâm 57) Trần-Minh-Sĩ 58) Nguyễn-Gia-Song 59) Nguyễn-Hữu-Sử 60) Huỳnh-Quang-Sửu 61) Đỗ-Hữu-Tài 62) Hoàng-Đ́nh-Tân 63) Nguyễn-Văn-Tân 64) Nguyễn-Quang-Thái 65) Hoàng-Đ́nh-Thanh (K16 Đà-Lạt) 66) Nguyễn-Văn-Thắng 67) Phạm-Thành 68) Huỳnh-Ngọc-Thành 69) Nguyễn-Hữu-Thoại 70) Đoàn-Trọng-Thông 71) Lê-Ngọc-Thu 72) Nguyễn-Đ́nh-Thu 73) Nguyễn-Đức-Thu (K16 Đà-Lạt) 74) Dương-Duy-Thuần 75) Ninh-Đức-Thuận 76) Nguyễn-Văn-Thuận 77) Nguyễn-văn-Thuật 78) Lê-Văn-Thương 79) Lê-Hữu-Thương 80) Lâm-Nguơn-Tốt 81) Trần-Thế-Tráng 82) Mai-Văn-Trị 83) Bùi-Đức-Tu 84) Nguyễn-Văn-Tùng 85) Trần-Thanh-Tùng 86) Phan-Vinh 87) Trần-Như-Ư
Các SVSQ/HQ Khoá 13 Đệ-Nhị Dương-Cưu nghiêm-trang chào kiếm ngày ra trường ngày 14 tháng 11 năm 1964 (Trang b́a Nguyệt-san Lướt-Sóng số 11). Danh-Sách Khoá 14 (tháng 4-1964 đến tháng 12-1965): 1) Phó-Thái-An 2) Trần-Quốc-Bá 3) Trần-Bá-Bảy 4) Trịnh-Thanh-B́nh 5) Nguyễn-Bê 6) Lê-Ngọc-Cảnh 7) Trần-Văn-Căn 8) Hồ-Trung-Chánh 9) Lê-Văn-Chuộng 10) Lê-Trọng-Chúng 11) Lê-Quang-Chương 12) Nguyễn-Văn-Cung 13) Nguyễn-An-Cường 14) Trần-Quốc-Cường 15) Nguyễn-Thành-Danh 16) Nguyễn-Trạch-Dân 17) Phạm-Văn-Diên 18) Vũ-Trọng-Dụng 19) Lê-Tất-Dũng 20) Phạm-Quang-Đạt 21) Vơ-Minh-Đăng 22) Phạm-Mạnh-Đề 23) Ngô-Ngọc-Điệp 24) Đặng-Văn-Đỉnh 25) Ninh-Duy-Định 26) Nguyễn-Đăng-Đóm (K13 ) 27) Nguyễn-Văn-Đơ 28) Lê-Đơn 29) Nguyễn-Văn-Đông 30) Nguyễn-Văn-Đồng 31) Phạm-Văn-Giác 32) Nguyễn-Hải 33) Nguyễn-Tiền-Hải 34) Tống-Phước-Hải 35) Trịnh-Long-Hải 36) Trương-Công-Hải 37) Đoàn-Hồng-Hải 38) Nguyễn-Tâm-Hàn 39) Phan-Như-Hoàng 40) Trương-Minh-Hoàng 41) Đoàn-Trọng-Hiệp 42) Phạm-Văn-Hồng 43) Nguyễn-Văn-Hồng 44) Nguyễn-Thế-Hoà 45) Nguyễn-Mạnh-Hùng 46) Ngô-Trọng-Hùng 47) Trần-Thanh-Khải 48) Trần-Cao-Khải 49) Bùi-Khắc-Kỳ 50) Nguyễn-Văn-Kỳ 51) Trần-Ngọc-Linh 52) Lâm-Thành-Lực 53) Nguyễn-Văn-Lưu 54) Nguyễn-Hữu-Lư 55) Hoàng-Công-Minh 56) Nguyễn-Công-Minh 57) Lê-Văn-Minh 58) Nguyễn-Văn-Mùi 59) Lê-Công-Mừng 60) Nguyễn-Mỹ 61) Hoàng-Đại-Nhân 62) Nguyễn-Thanh-Phong 63) Vơ-Tấn-Phước 64) Huỳnh-Công-Phương 65) Phan-Văn-Phương 66) Phan-Văn-Phưởng 67) Nguyễn-Đức-Quang 68) Bùi-Tiết-Quư 69) Lê-Văn-Quư 70) Vơ-Văn-Quyền 71) Đặng-Hữu-Quyết 72) Bùi-Văn-Sang 73) Huỳnh-Ái-Tân 74) Đoàn-Minh-Tấn 75) Trầm-Hữu-Tạo 76) Đỗ-Sĩ-Thạc 77) Hoàng-Xuân-Thiết 78) Trần-Bổn-Thiện 79) Nguyễn-Văn-Thông 80) Phùng-Học-Thông 81) Văn-Trung-Thu 82) Trần-Minh-Thuận 83) Dương-Duy-Thuần (K13 ) 84) Trần-Mạnh-Thường 85) Nguyễn-Văn-Tiếng 86) Trịnh-Xuân-Tiểu 87) Mai-Văn-Toàn 88) Nguyễn-Bá-Trác 89) Tăng-Văn-Trâm 90) Nguyễn-Hữu-Trang 91) Đinh-Ngọc-Tri 92) Nguyễn-Minh-Tú 93) Tống-Khắc-Tuấn 94) Nguyễn-Hoàng-Tuấn 95) Lê-Anh-Tuấn 96) Trần-Minh-Tuệ 97) Nguyễn-Thành-Tư 98) Phạm-Văn-Ty 99) Vơ-Văn-Tỷ 100) Lê-Thiệu-Hùng
Sinh-Viên Sĩ-Quan Khoá 14 tập-họp tại sân trước.
Quang-cảnh Vơ-đường, nơi các SVSQ/HQ luyện-tập Nhu-đạo.
Danh-Sách Khoá 15 (tháng 11-1964 đến tháng 7-1966): 1) Nguyễn-Ngọc-Ấn 2) Trần-Quốc-Bá (K14 ) 3) Phạm-Văn-Bảy 4) Phan-Văn-Bích 5) Hồ-Trung-Chánh (K14 ) 6) Nguyễn-Mộng-Châu 7) Đỗ-Văn-Chim 8) Trần-Quế-Chính 9) Phạm-Văn-Chí 10) Liêu-Chơn 11) Lê-Văn-Chuộng (K14 ) 12) Ngô-Như-Chương 13) Nguyễn-Kim-Chưởng 14) Trần-Quốc-Cường 15) Nguyễn-Thành-Danh 16) Vũ-Duy-Dần 17) Nguyễn-Minh-Diệu 18) Trần-Văn-Du 19) Trần-Văn-Dùng 20) Lê-Khánh-Dư 21) Ngô-Minh-Dương 22) Lê-Văn-Điển 23) Lê-Khắc-Đỉnh 24) Huỳnh-Tấn-Định 25) Đặng-Trọng-Đính 26) Lê-Đ́nh-Đức 27) Nguyễn-Lương-Đường 28) Nguyễn-Hải (K14 ) 29) Nguyễn-Văn-Hào 30) Lê-Khuê-Hào 31) Nguyễn-Văn-Hoà 32) Trần-Chí-Hoạt 33) Dương-Chỉ-Hồng 34) Trần-Văn-Hồng 35) Phạm-Trịnh-Huân 36) Đoàn-Văn-Huệ 37) Nguyễn-Ngọc-Hùng 38) Trần-Cao-Khải 39) Phạm-Xuân-Kha 40) Vương-Quang-Khiết 40) Nguyễn-Tuấn-Khanh 42) Nguyễn-Văn-Kiện 43) Phạm-Huy-Kiên 44) Phùng-Thiện-Lộc 45) Đặng-Quang-Lạc 46) Nguyễn-Văn-Lợi 47) Nguyễn-Thanh-Lộc 48) Lê-Xuân-Lương 49) Trần-Kim-Long 50) Vơ-Minh-Mẫn 51) Nguyễn-Công-Lư 52) Nguyễn-Văn-Minh 53) Trần-Văn-Mến 54) Ngô-Ngọc-Minh 55) Hồ-Dương-Minh 56) Hồ-Văn-Nam 57) Nguyễn-Anh-Minh 58) Nguyễn-Hữu-Ngàn 59) Nguyễn-Vơ-Nam 60) Lê-Văn-Phong 61) Vơ-Hữu-Nghiă 62) Nguyễn-Văn-Phước 63) Phạm-Đ́nh-Phùng 64) Nguyễn-Văn-Quang 65) Lương-Văn-Phước 66) Hoàng-Phúc-Quyến 67) Phạm-Hùng-Quang 68) Phan-Văn-Sanh 69) Phạm-Bích-San 70) Tôn-Thất-Phú-Sĩ 71) Nguyễn-Văn-Sáu 72) Phan-Thanh-Sử 73) Nguyễn-Văn-Sum 74) Huỳnh-Hữu-Sương 75) Nguyễn-Văn-Sương 76) Vơ-Văn-Tám 77) Phạm-Hữu-Tài 78) Trần-Văn-Thảo 79) Nguyễn-Thế-Tế 80) Lâm-Khả-Thanh 81) Nguyễn-Văn-Thành 82) Nguyễn-Kim-Thăng 83) Nguyễn-Văn-Thắng 84) Nguyễn-Hữu-Thiện 85) Trần-Bổn-Thiện (K14 ) 86) Nguyễn-Phước-Thọ 87) Nguyễn-Văn-Thịnh 88) Hà-Thúc-Thụy 89) Nguyễn-Minh-Thoại 90) Trịnh-Như-Toàn 91) Huỳnh-Văn-Tỏ 92) Phan-Văn-Trạng 93) Đào-Vĩnh-Tống 94) Trần-Khắc-Trí 95) Trần-Văn-Trí 96) Tạ-Văn-Triết 97) Vơ-Văn-Trí 98) Trần-Vĩnh-Trung 99) Phan-Tấn-Triệu 100) Vương-Thế-Tuấn 101) Vũ-Đ́nh-Tuấn 102) Lê-Văn-Vinh 103) Bùi-Tỵ 104) Hoàng-Mộng-Xuyên 105) Dư Xinh 106) Mai-Viết-Xuân 107) Nguyễn-Trường-Yên
Danh-Sách Khoá 16 (tháng 1-1966 đến tháng 7-1967): 1) Vơ-Văn-Á 2) Lư-Ngọc-Ẩn 3) Nguyễn-Văn-Ba 4) Nguyễn-Văn-Bân 5) Nguyễn-Ngọc-Bích 6) Trịnh-Trọng-B́nh 7) Đoàn-Văn-Bường 8) Cao-Đ́nh-Cần 9) Phan-Bội-Chân 10) Nguyễn-Mộng-Châu (K15 ) 11) Nguyễn-Ngọc-Châu 12) Tôn-Long-Châu 13) Nguyễn-Đ́nh-Châu 14) Nguyễn-Kim-Chường (K15 ) 15) Phạm-Tiến-Cương 16) Lê-Cư 17) Trần-Văn-Dùng 18) Trần-Văn-Dùng (K15 ) 19) Vũ-Hữu-Dũng 20) Lương-Ngọc-Diệp 21) Đặng-Huy-Đạm 22) Lâm-Ngọc-Đảnh 23) Vũ-Bá-Đào 24) Lê-Tấn-Đạt 25) Vơ-Văn-Đô 26) Nguyễn-Kim-Đồng 27) An-Văn-Điện 28) Diệp-Được 29) Trang-Minh-Đường 30) Hà-Quang-Hải 31) Lê-Tứ-Hải 32) Nguyễn-Minh-Hải 33) Trần-Bá-Hạnh 34) Hoàng-Minh-Hào 35) Vũ-Thế-Hiệp 36) Phạm-Xuân-Hoa 37) Phan-Văn-Hoá 38) Trần-Cao-Hoài 39) Trần-Hoàng-Hoanh 40) Trần-Đức-Huân 41) Nguyễn-Văn-Huệ 42) Lê-Văn-Hùng 43) Nguyễn-Thanh-Hùa 44) Bùi-Văn-Hưng 45) Huỳnh-Quang-Hưng 46) Phạm-Huy-Hy 47) Vơ-Hương 48) Vơ-Bửu-Khai 49) Nguyễn-Hữu-Ích 50) Phạm-Vũ-Kim 51) Phan-Huy-Kiên (K15 ) 52) Nguyễn-Văn-Lâm 53) Nguyễn-Văn-Lang 54) Vương-Bảo-Long 55) Hồ-Văn-Lăng 56) Vơ-Anh-Luông 57) Ninh-Thế-Lung 58) Trịnh-Xuân-Mai 59) Phạm-Văn-Lư 60) Nghiêm-Doăn-Minh 61) Phạm-Đức-Mău 62) Lê-Tài-Nghiă 63) Hoàng-Trọng-Ngân 64) Lê-Lương-Ngô 65) Nguyễn-Văn-Nghiă 66) Tạ-Cự-Nguyên 67) Nguyễn-Hoàng-Nguyên 68) Đỗ-Đăng-Phái 69) Nguyễn-Khắc-Nham 70) Nguyễn-Văn-Phong 71) Phạm-Bách-Phi 72) Nguyễn-Duy-Quan 73) Nguyễn-Vinh-Phong 74) Lê-Xuân-Quang 75) Đỗ-Đ́nh-Quang 76) Liêu-Quyên 77) Huỳnh-Văn-Quắn 78) Trần-Cao-Sạ 79) Lê-Thúc-Quỳnh 80) Nguyễn-Văn-Sinh 81) Nguyễn-Đ́nh-Sài 82) Nguyễn-Xuân-Sơn 83) Trịnh-Thiếu-Sinh 84) Phạm-Hữu-Tài (K15 ) 85) Lâm-Tấn-Tài 86) Nguyễn-Hải-Tâm 87) Hồ-Xuân-Tành 88) Trần-Thanh-Tâm 89) Nguyễn-Minh-Tâm 90) Nguyễn-Văn-Tần 91) Trần-Hữu-Tân 92) Nguyễn-Thế-Tế (K15 ) 93) Dương-Văn-Tèo 94) Trần-Văn-Thái 95) Trương-Văn-Thạch 96) Vũ-Công-Thành 97) Trần-Ngọc-Thanh 98) Trần-Bá-Thọ 99) Nguyễn-Đ́nh-Thiện 100) Lư-Thành-Thông 101) Vũ-Ngọc-Thọ 102) Bùi-Trung-Thu 103) Trương-Quang-Tích 104) Nguyễn-Văn-Thuận 105) Hà-Xuân-Thụ 106) Lê-Thiện-Thuật 107) Nguyễn-Lương-Thuật 108) Chu-Văn-Tiến 109) Lê-Văn-Thự 110) Vũ-Văn-Ṭng 111) Đỗ-Nhân-Tiêm 112) Đường-Minh-Trí 113) Trần-Viết-Trang 114) Vơ-Văn-Trí (K15 ) 115) Hoàng-Minh-Trí 116) Phạm-Văn-Trung 117) Ngô-Văn-Tŕ 118) Phan-Quang-Trung 119) Lê-Quang-Trung 120) Bùi-Văn-Trung 121) Lê-Bảo-Trung 122) Trịnh-Văn-Trỵ 123) Lê-Công-Trứ 124) Huỳnh-Phước-Tuấn 125) Đặng-Đ́nh-Tuân 126) Ngô-Đức-Tựu 127) Trịnh-Xuân-Tụng 128) Trần-Tam-Văn 129) Nguyễn-Công-Uông 130) Hồ-Sĩ-Vững 131) Hồ-Ngọc-Văn 132) Đặng-Văn-Vững 133) Nguyễn-Văn-Vân
Sinh-Viên Sĩ-Quan Khoá 16 và khoá đàn em.
Giờ Hải-pháo của các Sinh-Viên Sĩ-Quan Khoá 16 với cây Bofors 40 ly kép. Danh-Sách Khoá 17 (tháng 8-1966 đến tháng 3-1966): 1) Thái-Văn-A 2) Phan-Đ́nh-Bá 3) Trần-Đ́nh-Bá 4) Đàm-Đ́nh-B́nh 5) Nguyễn-Bá-Bường 6) Bùi-Văn-Cán 7) Trần-Ngọc-Cảnh 8) Nguyễn-Chí-Cần 9) Phạm-Văn-Cần 10) Vơ-Văn-Chiêu 11) Đỗ-Văn-Chiểu 12) Phan-Văn-Chín 13) Đào-Quang-Chính 14) Nguyễn-Chính 15) Lê-Bá-Chỉnh 16) Nguyễn-Ngọc-Cơ 17) Nguyễn-Đăng-Cương 18) La-Thành-Danh 19) Nguyễn-Việt-Dân 20) Lương-Ngọc-Diệp 21) Trần-Kim-Diệp 22) Nguyễn-Văn-Diệp 23) Đỗ-Đăng-Doanh 24) Nguyễn-Mạnh-Dũng 25) Đồng-Văn-Dũng 26) Lê-Hoàng-Đạo 27) Nguyễn-Văn-Đạo 28) Nguyễn-Tấn-Đạt 29) Trần-Ngọc-Điển 30) Huỳnh-Công-Định 31) Ngô-Đô 32) Vơ-Thành-Đông 33) Nguyễn-Hữu-Đức 34) Ngô-Văn-Giai 35) Lê-Ngọc-Giáo 36) Thềm-Sơn-Hà 37) Nguyễn-Khắc-Hải 38) Đào-Văn-Hải 39) Phan-Thế-Hậu 40) Phạm-Sĩ-Hậu 41) Hoàng-Như-Hiền 42) Lê-Tâm-Hiệp 43) Nguyễn-Vơ-Hiệp 44) Mạc-Công-Hiếu 45) Nguyễn-Đăng-Hoa 46) Lê-Hữu-Hoà 47) Phạm-Văn-Hoà 48) Nguyễn-Văn-Hoàng 49) Phạm-Minh-Hoàng 50) Nguyễn-Ngọc-Hội 51) Vũ-Ngọc-Hùng 52) Quách-Nguơn-Hưng 53) Nguyễn-Tấn-Hưng 54) Lê-Tự-Hưng 55) Nguyễn-Đức-Khải 56) Lương-Kh́ 57) Đào-Đức-Khiết 58) Phạm-Bá-Khoát 59) Cao-Khương 60) Vơ-Kiết 61) Lê-Kim-Ḱnh 62) Hồ-Văn-Lăng 63) Nguyễn-Trần-Lê 64) Vơ-Liệp 65) Nguyễn-Bá-Lộc 66) Trần-Trọng-Lộc 67) Dương-Phát-Lợi 68) Nguyễn-Khắc-Long 69) Nguyễn-Thành-Long 70) Hà-Ngọc-Lưu 71) Đoàn-Ngọc-Lư 72) Lê-Văn-Minh 73) Tôn-Thất-Minh 74) Trần-Văn-Minh 75) Nguyễn-Văn-Muội 76) Hồ-Văn-Năm 77) Ngô-Văn-Ngàn 78) Đặng-Văn-Ngăi 79) Hoàng-Trọng-Ngân 80) Nguyễn-Bích-Ngân 81) Nguyễn-Đức-Nghiă 82) Nguyễn-Ngọc 83) Đỗ-Đăng-Phái 84) Nguyễn-Châu-Phú 85) Nguyễn-Hữu-Phúc 86) Trần-Văn-Phương 87) Nguyễn-Thành-Phước 88) Trương-Ngọc-Phước 89) Nguyễn-Văn-Phước 90) Nguyễn-Xuân-Quang 91) Đỗ-Văn-Quả 92) Đỗ-Ngọc-Quảng 93) Đặng-Văn-Quảng 94) Nguyễn-Văn-Sáu 95) Trần-Văn-Siêng 96) Nguyễn-Văn-Sơn 97) Trần-Trọng-An-Sơn 98) Vũ-Trọng-Sơn 99) Nguyễn-Văn-Sung 100) Hồ-Văn-Tạo 101) Nguyễn-Trung-Tâm 102) Bùi-Văn-Tẩu 103) Trương-Vĩnh-Thái 104) Đỗ-Ngọc-Thạch 105) Lương-Lễ-Thành 106) Lâm-Hữu-Thạnh 107) Tạ-Nhựt-Thăng 108) Đào-Văn-Thảo 109) Phạm-Trọng-Thu 110) Từ-Khánh-Thuận 111) Lê-Văn-Thự 112) Nguyễn-Tiếp 113) Trịnh-Xuân-Tiểu 114) Vũ-Thế-Tiệp 115) Vũ-Văn-T́nh 116) Phạm-Bá-Toàn 117) Trần-Văn-Toàn 118) Nguyễn-Văn-Tới 119) Đường-Minh-Trí 120) Nguyễn-Thành-Trí 121) Dương-Văn-Tŕnh 122) Vơ-Quốc-Trị 123) Trần-Vĩnh-Tuấn 124) Nguyễn-Văn-Từ 125) Phan-Mạnh-Tường 126) Ngô-Đức-Tựu 127) Huỳnh-Văn-Tư 128) Nhan-Vân 129) Nguyễn-Minh-Vân 130) Nguyễn-Thanh-Vân 131) Trần-Văn-Vân 132) Trần-Văn-Vấn 133) Trương-Thanh-Việt 134) Huỳnh-Văn-Vẽ 135) Ngô-Văn-Xinh 136) Lê-Văn-Xuân
Các SVSQ/HQ Khoá 17 Đệ-Nhị Hải-Sư. Danh-Sách Khoá 18 (tháng 9-1967 đến tháng 7-1969): 1) Bùi-Ngọc-Anh 2) Phan-Chánh-Bang 3) Lê-Trọng-Bằng 4) Nguyễn-Văn-Bé 5) Phạm-Văn-Binh 6) Trương-Xuân-B́nh 7) Nguyễn-Bốn 8) Nguyễn-Văn-Ca 9) Trần-Đ́nh-Can 10) Huỳnh-Ngọc-Cẩn 11) Đỗ-Văn-Cảnh 12) Phạm-Phú-Châu 13) Bùi-Thiện-Chí 14) Nguyễn-Chung 15) Lê-Bá-Chư 16) Phạm-Văn-Cương 17) Mă-Hùng-Cường 18) Trần-Hữu-Cu 19) Đào-Dân 20) Vũ-Tiến-Diệp 21) Huỳnh-Ngọc-Duẫn 22) Lê-Dung 23) Phan-Tử-Duy 24) Lê-Văn-Đàm 25) Nguyễn-Minh-Đắc 26) Nguyễn-Kim-Đạo 27) Huỳnh-Công-Để 28) Đặng-Ngọc-Điền 29) Phạm-Thụy-Điển 30) Trần-Đăng-Độ 31) Nguyễn-Văn-Đồng 32) Đặng-Trọng-Đức 33) Phan-Đức 34) Trần-Văn-Đức 35) Nguyễn-Sơn-Hà 36) Từ-Thanh-Hà 37) Trần-Chấn-Hải 38) Nguyễn-Chánh-Hàm 39) Nguyễn-Thế-Hiệp 40) Tôn-Thất-Hiếu 41) Nguyễn-Văn-Hoà 42) Trương-Văn-Hoà 43) Thái-Thành-Huệ 44) Hồ-Chí-Hùng 45) Trần-Quang-Hùng 46) Lê-Quí-Huy 47) Nguyễn-Quốc-Hưng 48) Nguyễn-Công-Khanh 49) Nguyễn-Thuế-Khoa 50) Nguyễn-Duy-Khương 51) Trần-Ngọc-Lĩnh 52) Lâm-Kim-Luôn 53) Nguyễn-Mai 54) Doăn-Măn 55) Nguyễn-Văn-Minh 56) Đặng-Văn-Mỹ 57) Từ-Nam 58) Trần-Kim-Ngọc 59) Hà-Duy-Nhẩm 60) Dương-Minh-Nhựt 61) Cao-Thanh-Phong 62) Nguyễn-Thanh-Phong 63) Phan-Quang-Phúc 64) Trần-Minh-Phúc 65) Lê-Quang-Phục 66) Nguyễn-Phụng 67) Đỗ-Quảng 68) Quách-Quảng 69) Phạm-Quế 70) Phạm-Hồng-Sanh 71) Phạm-Văn-Sơm 72) Đoàn-Xuyên-Sơn 73) Lê-Minh-Tâm 74) Bùi-Văn-Tẩu (K 17 ) 75) Luyện-Thái 76) Nguyễn-Ngọc-Thành 77) Vơ-Văn-Thành 78) Trần-Đức-Thành 79) Bùi-Ngọc-Thạnh 80) Trịnh-Thông 81) Hồ-Thống 82) Huỳnh-Duy-Thưởng 83) Nguyễn-Văn-Tiến 84) Đỗ-Kim-Tiếng 85) Nguyễn-Tự-Trân 86) Nguyễn-Văn-Tranh 87) Trần-Đại-Trung 88) Vương-Đại-Trung 89) Trần-Anh-Tuấn 90) Phạm-Duy-Tùng 91) Huỳnh-Kim-Tỷ 92) Lê-Văn-Vẻ 93) Nguyễn-Huy-Việt 94) Trần-Vinh 95) Nguyễn-Thanh-Xuân 96) Mai-Văn-Bôn 97) Nguyễn-Đức-Hoà 98) Nguyễn-Trung-Ích 99) Phạm-Hồng-Nhựt 100) Trần-Đ́nh-Sở 101) Lê-Văn-Thắng
Danh-Sách Khoá 19 (tháng 10-1968 đến tháng 2-1970): 1) Trần-B́nh-An 2) Trương-Thanh-An 3) Huỳnh-Anh 4) Vơ-Anh 5) Đinh-Bá-Ánh 6) Nguyễn-Ngọc-Ánh 7) Nguyễn-Đ́nh-Ấm 8) Đồng-Văn-Ba 9) Nguyễn-Văn-Bá 10) Nguyễn-Ngọc-Ban 11) Vũ-Văn-Bang 12) Nguyễn-Văn-Bé 13) Đỗ-Quang-Bích 14) Trần-Văn-Bính 15) Trần-Văn-B́nh 16) Nguyễn-B́nh 17) Trần-Văn-Bửu 18) Lê-Văn-Các 19) Tống-Chiêu-Cầm 20) Phạm-Viết-Chẩn 21) Lê-Minh-Chánh 22) Lê-Văn-Châu 23) Ngô-Thanh-Chi 24) Nguyễn-Kháng-Chiến 25) Mai-Hữu-Chiếu 26) Nguyễn-Minh-Chính 27) Đặng-Văn-Cho 28) Lê-Đức-Chuẩn 29) Trương-Văn-Chung 30) Nguyễn-Huy-Chương 31) Nguyễn-Văn-Có 32) Trương-Bá-Côn 33) Nguyễn-Đức-Công 34) Nguyễn-Văn-Cúc 35) Nguyễn-Cư 36) Nguyễn-Đ́nh-Cương 37) Vơ-Thành-Cương 38) Nguyễn-Hưng-Cường 39) Phan-Hữu-Danh 40) Nguyễn-Xuân-Diên 41) Hồ-Văn-Diệp 42) Trần-Ngọc-Diệp 43) Nguyễn-Dụng 44) Đào-Trung-Dũng 45) Lê-Trung Dũng 46) Lưu-Thái-Dũng 47) Nguyễn-Tuấn-Dũng 48) Nguyễn-Việt-Dũng 49) Phan-Anh-Dũng 50) Phó-Anh-Dũng 51) Nguyễn-Phùng-Duyên 52) Nguyễn-Hữu-Duyệt 53) Hoàng-Công-Dược 54) Thái-Dưỡng 55) Phan-Văn-Đa 56) Mai-Văn-Đạc 57) Ngô-Văn-Đảng 58) Đặng-Đ́nh-Đạt 59) Lương-Văn-Đỉnh 60) Nguyễn-Văn-Định 61) Hồ-Kim-Đông 62) Nguyễn-Hữu-Tô-Đồng 63) Đoàn-Hồng-Đức 64) Đỗ-Thành-Đức 65) Nguyễn-Văn-Đức 66) Lê-Văn-Được 67) Thái-Văn-Được 68) Ngũ-Hà 69) Phạm-Ngọc-Hà 70) Vương-Hà 71) Lê-Văn-Hà 72) Trịnh-Văn-Hai 73) Nguyễn-Đ́nh-Hải 74) Phạm-Phú-Hải 75) Phan-Hồ-Hải 76) Trần-Mạnh-Hải 77) Trần-Văn-Hải 78) Trịnh-Học-Hải 79) Trương-Văn-Hải 80) Trương-Văn-Hải 81) Đỗ-Văn-Hạnh 82) Vơ-Ngọc-Hạnh 83) Nguyễn-Nghiă-Hiệp 84) Bùi-Thế-Hiền 85) Bùi-Huỳnh-Hoa 86) Hồ-Ngọc-Hoa 87) Vũ-Viết-Hoà 88) Phạm-Văn-Hoan 89) Huỳnh-Minh-Hoàng 90) Nguyễn-Hoàng 91) Nguyễn-Thanh-Hoàng 92) Nguyễn-Đ́nh-Hồng 93) Nguyễn-Trí-Hồng 94) Trần-Đức-Hợp 95) Lê-Văn-Huệ 96) Nguyễn-Văn-Huệ 97) Bùi-Việt-Hùng 98) Dương-Tấn-Hưng 99) Đỗ-Thế-Hùng 100) Hoàng-Huy-Hùng 101) Nguyễn-Hùng 102) Nguyễn-Đức-Hùng 103) Phạm-Văn-Hùng 104) Trịnh-Hùng 105) Vơ-Kim-Huy 106) Trần-Cẩm-Huyền 107) Nguyễn-Ngọc-Hùa 108) Ngô-Tiến-Hưng 109) Nguyễn-Duy-Hưng 110) Huỳnh-Phú-Hữu 111) Lâm-Nhựt-Khánh 112) Ngô-Sơn-Khánh 113) Nguyễn-Hữu-Khánh 114) Nguyễn-Công-Khiêm 115) Nguyễn-Hữu-Khiêm 116) Đinh-Tấn-Khoan 117) Nguyễn-Văn-Khương 118) Trần-Dư-Khương 119) Đào-Sinh-Kim 120) Đặng-Xuân-Kinh 121) Vơ-Ngọc-Kinh 122) Nguyễn-Văn-Kỳ 123) Trương-Tấn-Lạc 124) Trần-Ngọc-Lâm 125) Hùa-Trịnh-Lân 126) Nguyễn-Nguyên-Long 127) Phan-Đăng-Long 128) Nguyễn-Việt-Long 129) Nguyễn-Việt-Long 130) Trần-Minh-Lộc 131) Trần-Văn-Lợi 132) Mai-Ngọc-Lư 133) Trần-Trọng-Lưu 134) Đặng-Lư 135) Đinh-Ngọc-Lư 136) Nguyễn-Văn-Lư 137) Nguyễn-Văn-Mai 138) Đỗ-Khắc-Mạnh 139) Hồng-Kim-Mến 140) Huỳnh-Công-Minh 141) Nguyễn-Trí-Minh 142) Mai-Công-Minh 143) Lợi-Cẩm-Minh 144) Nguyễn-Trọng-Mộng 145) Nguyễn-Bá-Muông 146) Nguyễn-Viết-Mỹ 147) Huỳnh-Hoàng-Nam 148) Nguyễn-Văn-Năm 149) Nguyễn-Hoa-Ngân 150) Đặng-Trung-Nghiă 151) Trần-Hữu-Nghiă 152) Nguyễn-Văn-Ngọc 153) Vơ-Thiếu-Ngọc 154) Nguyễn-Văn-Ngọc 155) Nguyễn-Bỉnh-Ngôn 156) Hàng-Thanh-Nguyên 157) Phó-Thái-Nguyên 158) Lă-Văn-Nguyện 159) Nguyễn-Bá-Nha 160) Lâm-Hữu-Nhă 161) Đinh-Như-Nhiên 162) Đỗ-Thành-Nho 163) Nguyễn-Hữu-Nhơn 164) Vũ-Đ́nh-Nhuần 165) Lê-Văn-Ninh 166) Bùi-Ngọc-Nở 167) Đinh-Hữu-Oanh 168) Nguyễn-Văn-Oanh 169) Nguyễn-Ngọc-Oánh 170) Huỳnh-Công-Phát 171) Hoàng-Văn-Phi 172) Nguyễn-Thế-Phiệt 173) Phạm-Bùi-Phôi 174) Nguyễn-Đức-Phụng 175) Huỳnh-Hữu-Phước 176) Nguyễn-Hữu-Phước 177) Nguyễn-Văn-Phước 178) Nguyễn-Văn-Phước 179) Phạm-Văn-Phước 180) Trần-Văn-Phước 181) Trần-Văn-Phước 182) Lê-Tấn-Phương 183) Lê-Văn-Quá 184) Trần-Chí-Quan 185) Nguyễn-Đức-Quang 186) Nguyễn-Tấn-Quang 187) Trương-Quang 188) Dương-Mạnh-Quân 189) Phạm-Văn-Quí 190) Nguyễn-Hữu-Quí 191) Nguyễn-Quưnh 192) Nguyễn-Văn-Quưt 193) Lê-Rĩnh 194) Trương-Văn-Sả 195) Hồ-Sanh 196) Huỳnh-Văn-Sanh 197) Lâm-Sơn 198) Nguyễn-Kỳ-Sơn 199) Nguyễn-Thanh-Sơn 200) Nguyễn-Trung-Sơn 201) Nguyễn-Văn-Sơn 202) Vũ-Đức-Sơn 203) Lê-Thanh-Sử 205) Nguyễn-Văn-Tài 205) Hùa-Công-Tánh 206) Nguyễn-Văn-Tao 207) Lâm-Huy-Tào 208) Đỗ-Văn-Tâm 209) Lê-Công-Tâm 210) Nguyễn-Văn-Tề 211) Nguyễn-Thái 212) Phạm-Hữu-Thái 213) Lê-Công-Thành 214) Nguyễn-Kư-Thành 215) Vũ-Đức-Thành 216) Cao-Quang-Thảo 217) Huỳnh-Văn-Thắng 218) Trương-Văn-Th́ 219) Lê-Chí-Thiện 220) Đỗ-Xuân-Thọ 221) Phạm-Đức-Thoan 222) Nguyễn-Thành-Khôi 223) Vơ-Hanh-Thông 224) Lê-B́nh-Thu 225) Nguyễn-Văn-Thuận 226) Nguyễn-Hữu-Thượng 227) Bùi-Tiến 228) Nguyễn-Văn-Tiến 229) Liệt-Tín 230) Trương-Thành-Tính 231) Trần-Văn-Tỉnh 232) Nguyễn-Bửu-Toàn 233) Trần-Thanh-Ṭng 234) Dương-Đức-Trang 235) Nguyễn-Văn-Tràng 236) Trần-Trân 237) Trần-Quang-Trần 238) Trần-Văn-Tŕnh 239) Nguyễn-Trọng 240) Nguyễn-Hùng-Q - Trọng 241) Trần-Văn-Trọng 242) Huỳnh-Văn-Trung 243) Phan-Văn-Trung 244) Trần-Chí-Trung 245) Đào-Lê-Minh-Truyết 246) Ngô-Đồng-Trực 247) Nguyễn-Trực 248) Lâm-Kim-Tuấn 249) Lâm-Phước-Tuấn 250) Phạm-Anh-Tuấn 251) Trần-Tuấn 252) Nguyễn-Bá-Tuế 253) Đinh-Văn-Tùng 254) Trần-Thanh-Tùng 255) Đặng-Vũ-Quang-Tuyên 256) Phùng-Văn-Tuyên 257) Nguyễn-Tấn-Tư 258) Nguyễn-Văn-Tư 259) Phạm-Văn-Tư 260) Lê-Văn-Từ 261) Nguyễn-Hữu-Từ 262) Bùi-Nguyên-Tường 263) Nguyễn-Văn-Tỷ 264) Trần-Phước-Vạn 265) Lương-Minh-Viễn 266) Trần-Trúc-Việt 267) Nguyễn-Văn-Vinh 268) Nguyễn-Văn-Vĩnh 269) Cao-Xuân-Vũ 270) Hồng-Kiến-Xanh 271) Trần-Xuân 272) Âu-Địch-Xương
Các SVSQ/HQ Khoá 19 chuẩn-bị làm lễ tuyên-thệ.
Danh-Sách Khoá 20 (tháng 8-1969 đến tháng 8-1970): 1) Trần-Văn-An 2) Nguyễn-Anh 3) Bùi-Cảnh-Bằng 4) Đỗ-Kim-Bảng 5) Huỳnh-Văn-Bảnh 6) Lưu-Quốc-Bảo 7) Dương-Văn-Bê 8) Nguyễn-Hữu-Bích 9) Phạm-Ngọc-Bích 10) Ngô-Trọng-Các 11) Nguyễn-Trọng-Cẩn 12) Phạm-Văn-Cần 13) Trần-Văn-Cần 14) Nguyễn-Minh-Cang 15) Nguyễn-Minh-Cảnh 16) Nguyễn-Văn-Cấp 17) Trần-Đức-Chấn 18) Trần-Đức-Chấn 19) Lê-Văn-Châu 20) Nguyễn-Ngọc-Châu 21) Nguyễn-Ngọc-Châu 22) Đào-Cơ-Chí 23) Huỳnh-Kim-Chiến 24) Đinh-Văn-Chính 25) Nguyễn-Đức-Chính 26) Nguyễn-Văn-Chín 27) Lê-Quang-Chung 28) Nguyễn-Văn-Chưng 29) Nguyễn-Văn-Chừng 30) Chu-Văn-Chương 31) Nghiêm-Xuân-Chương 32) Vơ-Văn-Côi 33) Bùi-Thành-Công 34) Hoàng-Kim-Công 35) Tôn-Thất-Cư 36) Lâm-Ngọc-Cục 37) Tôn-Thất-Cường 38) Trần-Thanh-Danh 39) Vơ-An-Dân 40) Hoàng-Thế-Dân 41) Hồ-Ngọc-Diệp 42) Phùng-Ngọc-Ḍi 43) Nguyễn-Xuân-Dục 44) Nguyễn-Anh-Dũng 45) Lê-Văn-Dũng 46) Hoàng-Văn-Dũng 47) Phan-Thiết-Dũng 48) Phan-Thiếu-Dương 49) Mai-Tất-Đắc 50) Nguyễn-Văn-Đăng 51) Nguyễn-Văn-Đệ 52) Nguyễn-Duy-Điền 53) Nguyễn-Văn-Điền 54) Tô-Ngọc-Điệp 55) Trần-Gia-Định 56) Nguyễn-Văn-Độ 57) Phạm-Văn-Độ 58) Ngô-Hữu-Đoàn 59) Trịnh-Công-Đoàn 60) Trần-Tuấn-Đức 61) Tiêu-Quang-Đức 62) Đỗ-Văn-Đức 63) Nguyễn-Tấn-Đực 64) Nguyễn-Văn-Được 65) Nguyễn-Văn-Gẫm 66) Trần-Mạnh-Hà 67) Vơ-Văn-Hạc 68) Vơ-Văn-Hai 69) Lê-Như-Hải 70) Nguyễn-Hải 71) Bùi-Tá-Hải 72) Nguyễn-Hữu-Hải 73) Đỗ-Minh-Hào 74) Lê-Văn-Hậu 75) Lê-Vĩnh-Hiệp 76) Tăng-Văn-Hiệp 77) Vũ-Quốc-Hiệp 78) Lư-Đức-Hiệp 79) Ngô-Minh-Hiếu 80) Trương-Văn-Hiếu 81) Nguyễn-Hoá 82) Bùi-Đ́nh-Hoan 83) Nguyễn-Duy-Hoà 84) Nguyễn-Tuy-Hoà 85) Nguyễn-Tấn-Hoành 86) Nguyễn-Ngọc-Hoan 87) Dương-Thanh-Hoàng 88) Nguyễn-Đ́nh-Hoàng 89) Phạm-Công-Hoàng 90) Trần-Kim-Hoàng 91) Huỳnh-Học 92) Tô-Phước-Hồng 93) Nguyễn-Văn-Huấn 94) Lưu-An-Huê 95) Nguyễn-Văn-Huệ 96) Cai-Thế-Hùng 97) Cao-Thế-Hùng 98) Lâm-Quốc-Hùng 99) Nguyễn-Hùng 100) Nguyễn-Thế-Hùng 101) Nguyễn-Xuân-Hùng 102) Ngô-Viết-Hùng 103) Hà-Mạnh-Hùng 104) Nguyễn-Văn-Hùng 105) Phạm-Văn-Hùng 106) Phạm-Viết-Hùng 107) Lưu-Đức-Huyến 108) Trần-Ken 109) Lê-Công-Khai 110) Đặng-Ngọc-Khảm 111) Huỳnh-Kim-Khanh 112) Hoàng-Ngọc-Khang 113) Hứa-Tư-Khanh 114) Lê-Quang-Khanh 115) Nguyễn-Phúc-Khanh 116) Lư-Thế-Khiêm 117) Đặng-Vũ-Khoan 118) Nguyễn-Đăng-Khúc 119) Huỳnh-Hữu-Khương 120) Lê-Văn-Lai 121) Nguyễn-Văn-Nhất-Lăng 122) Huỳnh-Hữu-Lành 123) Phan-Tử-Lập 124) Trần-Văn-Lập 125) Nguyễn-Hoàng-Liêm 126) Nguyễn-Văn-Loan 127) Lê-Văn-Lộc 128) Nguyễn-Lộc 129) Nguyễn-Bá-Lộc 130) Trương-Minh-Lộc 131) Nguyễn-Văn-Lộc 132) Lê-Văn-Long 133) Nguyễn-Văn-Long 134) Nguyễn-Phước-Long 135) Phan-Ngọc-Long 136) Ngô-Văn-Long 137) Ngô-Ngọc-Luật 138) Trần-Văn-Lung 139) Lê-Trọng-Lực 140) Hà-Văn-Lượm 141) Đoàn-Hữu-Lượng 142) Phạm-Đăng-Lương 143) Vũ-Hữu-Lư 144) Phan-Văn-Minh 145) Sâm-Hồng-Minh 146) Nguyễn-Văn-Mười 147) Lương-Quang-Mỹ 148) Ngô-Hạnh-Nam 149) Nguyễn-Hữu-Nam 150) Nguyễn-Văn-Nam 151) Trần-Văn-Nam 152) Lương-Văn-Năng 153) Nguyễn-Kỳ-Tuấn-Ngọc 154) Nguyễn-Văn-Nhẩn 155) Ngô-Bá-Nhẩn 156) Mai-Nho 157) Nguyễn-Văn-Như 158) Đinh-Minh-Nhuận 159) Ngô-Xuân-Ninh 160) Lưu-Văn-Nở 161) Nguyễn-Đ́nh-Noa 162) Mai-Ngọc-Oanh 163) Nguyễn-Duy-Phiên 164) Vương-Thế-Phiệt 165) Dương-Xuân-Phong 166) Huỳnh-Phú 167) Đỗ-Văn-Phú 168) Vơ-Công-Phúc 169) Lê-Phụng 170) Mai-Kim-Phụng 171) Trần-Đông-Phước 172) Nguyễn-Công-Phương 173) Huỳnh-Minh-Quang 174) Lưu-Ngọc-Quang 175) Nguyễn-Minh-Quan 176) Nguyễn-Chí-Quốc 177) Trương-Đ́nh-Quí 178) Nguyễn-Văn-Quư 179) Đặng-Ngọc-Quỳnh 180) Nguyễn-Văn-Sáng 181) Vơ-Uyên-Sao 182) Huỳnh-Ngọc-Sơn 183) Phan-Xuân-Sơn 184) Đoàn-Viết-Sơn 185) Nguyễn-Văn-Sơn 186) Đỗ-Văn-Sứ 187) Vũ-Văn-Sức 188) Huỳnh-Văn-Tài 189) Lê-Văn-Tài 190) Bùi-Văn-Tâm 191) Đàm-Thanh-Tâm 192) Nguyễn-Chánh-Tâm 193) Nguyễn-Văn-Tâm 194) Nguyễn-Hùng-Tâm 195) Lê-Đắc-Tân 196) Nguyễn-Đ́nh-Tha 197) Tôn-Thất-Thái 198) Đinh-Đức-Thắng 199) Nguyễn-Văn-Thắng 200) Cung-Vĩnh-Thành 201) Đặng-Công-Thành 202) Dương-Văn-Thành 203) Lê-Văn-Thạnh 204) Lê-Văn-Thảnh 205) Nguyễn-Đức-Thảo 206 Trần-Xuân-Thảo 207) Đinh-Phú-Thịnh 208) Đỗ-Quang-Tiếng 209) Nguyễn-Lập-Thành 210) Nguyễn-Trọng-Thành 211) Tôn-Long-Thạnh 212) Dương-Quang-Thời 213) Nguyễn-Đ́nh-Thống 214) Nguyễn-Trung-Thành 215) Phạm-Văn-Th́ 216) Nguyễn-Hữu-Thiện 217) Vũ-Đức-Thiều 218) Nguyễn-Văn-Thước 219) Lê-Văn-Thụy 220) Phạm-Ngọc-Tiến 221) Nguyễn-Đ́nh-Tiến 222) Trần-Duy-Tín 223) Kha-Tử-Tiếp 224) Nguyễn-Kế-Toàn 225) Nguyễn-Quang-Toàn 226) Nhan-Thanh-Toàn 227) Đỗ-Thế-Trác 228) Nguyễn-Thế-Trạch 229) Đoàn-Hữu-Trí 230) Nguyễn-Minh-Trí 231) Trần-Đ́nh-Triết 232) Lê-Quang-Trinh 233) Lê-Văn-Trừ 234) Ngô-Nguyên-Trực 235) Vũ-Huy-Tự 236) Lữ-Anh-Tuấn 237) Bùi-Lục-Tùng 238) Dương-Thiệu-Tùng 239) Bùi-Trịnh-Tường 240) Đặng-Tuyên 241) Vơ-Văn-Vân 242) Nguyễn-Văn-Vang 243) Đỗ-Thanh-Vẽ 244) Đỗ-Duy-Vy 245) Đỗ-Ngọc-Viêm 246) Vĩnh-Viễn 247) Hồ-Ái-Việt 248) Trần-Việt 249) Ngô-Văn-Vũ 250) Phạm-Nghiă-Vụ 251) Hồ-Văn-Xách 252) Nguyễn-Văn-Xê 253) Bạch-Xuân 254) Nguyễn-Phùng-Xuân 255) Nguyễn-Văn-Xuân 256) Trần-Xuân 257) Châu-Phúc-Yên 258) Nguyễn-Văn-Yên
Các Cựu SVSQ/HQ Khoá 20 họp mặt tại Hoa-Kỳ
Danh-Sách Khoá 21 (tháng 3-1970 đến tháng 3-1971): 1) Nguyễn-Ngọc-A 2) Trịnh-A 3) Đào-Vĩnh-An 4) Trần-Trọng-An 5) Tôn-Thất-Án 6) Nguyễn-Hoàng-Anh 7) Trần-Anh 8) Vơ-Văn-Anh 9) Vơ-Triệu-Ba 10) Phan-Văn-Bắc 11) Đặng-Duy-Bảo 12) Lê-Đăng-Bảo 13) Nguyễn-Văn-Báu 14) Lê-Văn-Be 15) Nguyễn-Hoàng-Be 16) Trần-Đăng-Bé 17) Trang-Văn-Bé 18) Phù-Hoà-Ben 19) Trần-Văn-B́nh 20) Bùi-Văn-Bửu 21) Nguyễn-Văn-Cách 22) Đỗ-Hữu-Cảnh 23) Phan-Văn-Các 24) Vơ-Chôm 25) Lê-Tất-Chánh 26) Nguyễn-Văn-Châu 27) Vơ-Khắc-Chiêm 28) Phạm-Hùng-Chiến 29) Nguyễn-Ngọc-Chiểu 30) Trần-Ngọc-Chiểu 31) Nguyễn-Xuân-Chinh 32) Đỗ-Văn-Chương 33) Huỳnh-Châu-Công 34) Hoàng-Trọng-Cường 35) Mai-Tứ-Cường 36) Nguyễn-Thiết-Cường 37) Trần-Mạnh-Cường 38) Hồ-Công-Cững 39) Nguyễn-Văn-Dân 40) Nguyễn-Diệt 41) Huỳnh-Xuân-Dinh 42) Tôn-Thất-Dũng 43) Nguyễn-Văn-Dũng 44) Đặng-Văn Dư 45) Huỳnh-Văn-Dự 46) Nguyễn-Duy 47) Nguyễn-Ngọc-Dzao 48) Phạm-Tấn-Đạt 49) Hà-Ngọc-Đệ 50) Lê-Ngọc-Đệ 51) Nguyễn-Quang-Điệp 52) Lâm-Văn-Đô 53) Vơ-Văn-Đoàn 54) Đỗ-Đoan 55) Phạm-Văn-Đốc 56) Phạm-Anh-Đông 57) Phạm-Văn-Đức 58) Phạm-Đ́nh-Đức 59) Nguyễn-Được 60) Nguyễn-Văn-Đượm 61) Nguyễn-Trung-Gău 62) Đặng-Văn-Giản 63) Phạm-Văn-Giai 64) Nguyễn-Tấn-Hà 65) Vơ-Văn-Hà 66) Nguyễn-Thanh-Hải 67) Phan-Ngọc-Hân 68) Nguyễn-Hữu-Hạnh 69) Nguyễn-Hạnh 70) Lê-Nguyên-Hảo 71) Huỳnh-Trung-Hiếu 72) Dương-Đức-Hiền 73) Nguyễn-Văn-Hiền 74) Hồ-Văn-Hoà 75) Huỳnh-Cộng-Hoà 76) Vơ-Hoà 77) Huỳnh-Hùng-Hoàng 78) Phạm-Thúc-Hoàng 79) Trần-Văn-Hoàng 80) Nguyễn-Văn-Hoành 81) Nguyễn-Hoạt 82) Lê-Công-Hội 83) Nguyễn-Quư-Hội 84) Nguyễn-Trí-Hồng (K 19 ) 85) Nguyễn-Hồng 86) Phó-Phước-Hồng 87) Thái-Văn-Hồng 88) Trần-Thanh-Hồng 89) Bùi-Quốc-Hung 90) Nguyễn-Văn-Hưng 91) Trần-Đ́nh-Hùng 92) Đỗ-Mạnh-Hùng 93) Ngô-Thanh-Hùng 94) Nguyễn-Hoài-Hùng 95) Phạm-Công-Hùng 96) Trần-Viết-Hùng 97) Cao-Bích-Quốc-Huy 98) Ngô-Hương 99) Lâm-Hưng 100) Đặng-Tiến-Hung 101) Nguyễn-Sỉ-Hy 102) Lê-Văn-Khá 103) Phạm-Văn-Khanh 104) Huỳnh-Tấn-Khen 105) Lâm-Thanh-Khiết 106) Phạm-Khắc-Khiêm 107) Lê-Văn-Khoái 108) Vương-Văn-Khôi 109) Lâm-Tấn-Khương 110) Vương-Anh-Kiệt 111) Đinh-Văn-Kính 112) Nguyễn-Văn-Kính 113) Nguyễn-Anh-Kỳ 114) Lư-Thuận-Kỳ 115) Phạm-Đức-Lai 116) Vơ-Văn-Lâm 117) Lương-Nguyên-Lân 118) Phan-Văn-Lân 119) Nguyễn-Kỳ-Lăng 120) Nguyễn-Văn-Lập 121) Đoàn-Văn-Lập 122) Lê-Văn-Liêm 123) Lê-Văn-Liễu 124) Dương-Thành-Long 125) Nguyễn-Bùi-Thăng-Long 126) Nguyễn-Đức-Lợi 127) Dương-Ngọc-Lợi 128) Vĩnh-Lợi 129) Nguyễn-Tiến-Lực 130) Nguyễn-Văn-Lực 131) Hoàng-Ngọc-Lược 132) Trần-Văn-Lựu 133) Vơ-Văn-Lựu 134) Nguyễn-Văn-Lư 135) Nguyễn-Đức-Lư 136) Nguyễn-Tuấn-Mănh 137) Lê-Văn-Minh 138) Lê-Văn-Minh 139) Nguyễn-Hữu-Minh 140) Trần-Quang-Minh 141) Nguyễn-Ngọc-Mục 142) Nguyễn-Văn-Mông 143) Lưu-Văn-Mười 144) Nguyễn-Kim-Hoàng-Mỹ 145) Vũ-Ngô-Mỹ 146) Trần-Văn-Năm 147) Vĩnh-Đại-Nam 148) Đỗ-Cao-Năm 149) Nguyễn-Văn-Năm 150) Đoàn-Cảnh-Nga 151) Ngô-Quang-Nghi 152) Nguyễn-Thanh-Nghiă 153) Phạm-Văn-Ngố 154) Trần-Kim-Ngọc 155) Nguyễn-Văn-Nguyên 156) Huỳnh-Văn-Trung-Nguyên 157) Lê-Thành-Nhân 158) Đỗ-Ngọc-Nhẫn 159) Thiều-Đăng-Nhớ 160) Hồ-Văn-Nhỏ 161) Phu-Nỉ 162) Lê-Văn-Nước 163) Lê-Đức-Phan 164) Huỳnh-Văn-Phát 165) Lu-Khả-Phát 166) Vơ-Thành-Phố 167) Lê-Văn-Phú 168) Lê-Kiều-Phú 169) Đặng-Đ́nh-Phú 170) Đặng-Hữu-Phước 171) Nguyễn-Văn-Phước 172) Nguyễn-Văn-Phước 173) Trần-Dụng-Phước 174) Lê-Đăng-Phương 175) Trần-Đăng-Phương 176) Nguyễn-Túy-Phượng 177) Nguyễn-Minh-Quân 178) Văn-Công-Quân 179) Trần-Văn-Quang 180) Tạ-Quang 181) Đặng-Quí 182) Nguyễn-Viết-Quí 183) Huỳnh-Phú-Quốc 184) Nguyễn-Quốc 185) Nguyễn-Đ́nh-Quí 186) Phạm-Ngọc-Quỳnh 187) Lê-Văn-Sang 188) Nguyễn-Văn-Sáng 189) Nguyễn-Ngọc-Sang 190) Nguyễn-Văn-Sáng 191) Huỳnh-Sanh 192) Đinh-Sao 193) Nguyễn-Siêng 194) Nguyễn-Văn-Sinh 195) Cao-Hữu-Síu 196) Bùi-Sơn 197) Đặng-Mậu-Sơn 198) Dương-Kim-Sơn 199) Huỳnh-Ngọc-Sơn 200) Lê-Hoành-Sơn 201) Nguyễn-Thành-Sơn 202) Văn-Công-Lam-Sơn 203) Vơ-Cao-Sơn 204) Trần-Bá-Sữu 205) Tôn-Hữu-Tài 206) Vơ-Tài 207) Nguyễn-Minh Tâm 208) Nguyễn-Minh-Tâm 209) Phạm-Minh-Tâm 210) Ngô-Văn-Tân 211) Vơ-Tánh 212) Trần-Văn-Tập 213) Huỳnh-Văn-Thạch 214) Cao-Trọng-Thẩm 215) Nguyễn-Hữu-Thắng 216) Huỳnh-Văn-Thắng 217) Vơ-Văn-Thắng 218) Hoàng-Công-Thành 219) Kim-Ngọc-Thành 220) Ngô-Chí-Thành 221) Nguyễn-Công-Thành 222) Lai-Vĩnh-Thành 223) Phan-Chí-Thiện 224) Nguyễn-Văn-Thiệu 225) Trần-Văn-Thiện 226) Lê-Tấn-Thịnh 237) Lê-Tường-Thọ 228) Nguyễn-Lộc-Thọ 229) Châu-Văn-Thông 230) Huỳnh-Văn-Thông 231) Nguyễn-Văn-Thu 232) Trần-Trọng-Thu 233) Hoàng-Xuân-Thuỷ 234) Lâm-Quang-Tiếng 235) Trương-Quang-Tiếp 236) Phạm-Văn-Tố 237) Huỳnh-Phương-Toàn 238) Trần-Văn-Tồn 239) Trần-Bá-Ṭng 240) Nguyễn-Trân 241) Nguyễn-Văn-Trao 242) Đoàn-Hữu-Trí 243) Huỳnh-Minh-Trí 244) Phan-Quốc-Trinh 245) Nguyễn-Đ́nh-Trực 246) Trần-Anh-Tuấn 247) Hoàng-Trọng-Tuấn 248) Nguyễn-Hữu-Tuấn 249) Trần-Văn-Tuấn 250) Trần-Thanh-Tuyền 251) Lê-Văn-Tư 252) Lư-Tỷ 253) Ngô-Đ́nh-Tỵ 254) Vơ-Văn-Tư 255) Huỳnh-Bá-Vạn 256) Lương-Văn-Vân 257) Nguyễn-Thanh-Vân 258) Nguyễn-Tấn-Vẹn 259) Bùi-Khắc-Vi 260) Lê-Mạnh-Việt 261) Nguyễn-Cường-Việt 262) Nguyễn-Văn-Việt 263) Trần-Văn-Việt 264) Nguyễn-Thế-Vinh 265) Lê-Quang-Thu-Vơ 266) Nguyễn-Xao 267) Trịnh-Xí 268) Huỳnh-Ngọc-Xướng 269) Văn-Yn
Các SVSQ/HQ Khoá 21 tại vơ-đường Thái-Cực-Đạo Danh-Sách Khoá 22 (tháng 9-1970 đến tháng 9-1971): 1) Bùi-Văn-Ái 2) Phạm-Hồng-Ân 3) Trương-Công-Ân 4) Vương-Đ́nh-Ánh 5) Hồ-Ngọc-Bá 6) Đinh-Kim-Bản 7) Vũ-Văn-Bạn 8) Vũ-Đ́nh-Bân 9) Trịnh-Văn-Bé 10) Nguyễn-Văn-Bé 11) Trần-Ngọc-Bích 12) Nguyễn-Hoàng-Bích 13) Trần-Văn-Bính 14) Lê-Quang-B́nh 15) Tạ-Thái-B́nh 16) Nguyễn-Quang-B́nh 17) Phạm-Thanh-B́nh 18) Nguyễn-Văn-Bờ 19) Trần-Văn-Bổn 20) Lư-Văn-Bổn 21) Đinh-Tấn-Bửu 22) Nguyễn-Ngọc-Cẩn 23) Huỳnh-Trung-Chánh 24) Đinh-Văn-Chánh 25) Hồ-Quang-Chánh 26) Nguyễn-Văn-Châu 27) Vơ-Minh-Châu 28) Bùi-Chim 29) Trương-Văn-Chỉ 30) Trà-Văn-Có 31) Nguyễn-Chí-Công 32) Nguyễn-Quang-Công 33) Nguyễn-Thành-Chung 34) Vũ-Thế-Chương 35) Vũ-Đức-Cương 36) Phạm-Đức-Cường 37) Thái-Văn-Danh 38) Nguyễn-Ngọc-Dân 39) Bùi-Văn-Dân 40) Ngô-Quang-Diệu 41) Phạm-Ngọc-Diệp 42) Nguyễn-Đ́nh-Dũng 43) Đỗ-Trí-Dũng 44) Từ-Trí-Dũng 45) Lư-Dũng 46) Nguyễn-Kim-Đạo (K.18 ) 47) Nguyễn-Mạnh-Đạt 48) Nguyễn-Văn-Đ́nh 49) Bạch-Minh-Đoàn 50) Lê-Văn-Đơ 51) Tạ-Trung-Đoàn 52) Phạm-Tấn-Đức 53) Phan-Tấn-Đức 54) Nguyễn-Trung-Đức 55) Nguyễn-Gan 56) Nguyễn-Thương-Gia 57) Trần-Tiến-Gián 58) Lư-Văn-Giáo 59) Đặng-Hai 60) Bùi-Trần-Hải 61) Châu-Văn-Hai 62) Phạm-Sơn-Hải 63) Hoàng-Thế-Hải 64) Đặng-Hoàng-Hạnh 65) Lai-Văn-Hảo 66) Nguyễn-Văn-Hàu 67) Đào-Quốc-Hiển 68) Tống-Phước-Hoà 69) Lê-Minh-Hiền 70) Nguyễn-Trọng-Hiền 71) Trần-Kiều-Hiền 72) Trần-Minh-Hiền 73) Phan-Tấn-Hiệp 74) Bùi-Văn-Hiệp 75) Nguyễn-Hữu-Hiệp 76) Trần-Văn-Hiệp 77) Trần-Chí-Hiếu 78) Nguyễn-Văn-Hiếu 79) Nguyễn-Trung-Hiếu 80) Hồ-Đinh-Hoát 81) Nguyễn-Ḥa 82) Dương-Học 83) Lâm-Văn-Hoàng 84) Huỳnh-Văn-Hoàng 85) Phạm-Trọng-Hoàng 86) Nguyễn-Văn-Hoàng 87) Tạ-Hội 88) Trần-Văn-Hơn 89) Đỗ-Văn-Huấn 90) Nguyễn-Huệ 91) Đặng-Văn-Huệ 92) Nguyễn-Trọng-Hùng 93) Lê-Thạch-Hùng 94) Lâm-Quang-Hùng 95) Phạm-Viết-Hùng 96) Đỗ-Phi-Hùng 97) Nguyễn-Gia-Hưng 98) Đoàn-Văn-Huy 99) Nguyễn-Minh-Khai 100) Trần-Văn-Khai 101) Nguyễn-Tấn-Khải 102) Châu-Văn-Khảm 103) Lê-Đăng-Khoa 104) Lê-Bách-Khoa 105) Lê-Văn-Khiêm 106) Trần-Hoàng-Kiếm 107) Tôn-Thất-Quỳnh-Kiểm 108) Nguyễn-Súy-Lăm 109) Nguyễn-Lâm 110) Nguyễn-Lâm 111) Lê-Thanh-Lăng 112) Nguyễn-Mậu-Lâng 113) Phan-Như-Lê 114) Đổ-Văn-Liêm 115) Vũ-Thanh-Liêm 116) Hồ-Thanh-Liêm 117) Nguyễn-Quang-Lùng 118) Phan-Đ́nh-Lương 119) Nguyễn-Thành-Lư 120) Trương-Nhào-Mạ 121) Đào-Văn-Mạnh 122) Phan-Ngọc-Mạo 123) Đoàn-Văn-Minh 124) Bùi-Văn-Minh 125) Trần-Trịnh-Minh 126) Ngô-Văn-Minh 127) Tống-Anh-Minh 128) Phan-Công-Minh 129) Nguyễn-Thái-Minh 130) Lương-Minh-Mới 131) Huỳnh-Viết-Nam 132) Hồ-Văn-Năm 133) Trần-Văn-Nên 134) Đinh-Viết-Nhân 135) Cao-Nhang 136) Nguyễn-Văn-Ngọc 137) Nguyễn-Kim-Ngọc 138) Trần-Văn-Ngọc 139) Châu-Hữu-Nhơn 140) Lư-Văn-Nghĩa 141) Nguyễn-Văn-Nho 142) Nguyễn-Văn-Ngoạn 143) Nguyễn-Thành-Nhơn 144) Vơ-Như-Nhu 145) Lê-Văn-Nghiệp 146) Nguyễn-Văn-Ngọt 147) Giáp-Chí-Nghiă 148) Phùng-Hữu-Nghiă 149) Trương-Văn-Nghiêm 150) Bùi-Thế-Nguyên 151) Trần-Văn-Ở 152) Nguyễn-Hữu-Phan 153) Mai-Phát 154) Nguyễn-Văn-Phấn 155) Lương-Văn-Phổ 156) Lê-Đ́nh-Phồn 157) Nguyễn-Phong 158) Vũ-Duy-Phúc 159) Trương-Đ́nh-Phúc 160) Nguyễn-Văn-Phước 161) Phạm-Hữu-Phước 162) Nguyễn-Hữu-Phương 163) Trần-Công-Quang 164) Nguyễn-Xuân-Quang 165) Vơ-Bằng-Quang 166) Phạm-Ngọc-Quất 167) Vơ-Minh-Quân 168) Lê-Phước-Quyền 169) Phạm-Nguyễn-Cẩm-Sa 170) Thái-Văn-Sáng 171) Cao-Văn-Sáu 172) Đặng-Văn-Sâm 173) Đỗ-Văn-Sâm 174) Nguyễn-Ngọc-Sơn 175) Huỳnh-Thạch-Sơn 176) Đỗ-Thành-Sơn 177) Hồng-Sự 178) Huỳnh-Công-Tánh 179) Lê-Công-Tấn 180) Phan-Thiên-Tạo 181) Nguyễn-Tao 182) Nguyễn-Trung-Tâm 183) Đặng-Thành-Tâm 184) Đỗ-Thành-Tâm 185) Lê-Thành-Tấn 186) Nguyễn-Phước-Tấn 187) Trần-Tấn 188) Nguyễn-Thành-Tấn 189) Phạm-Duy-Tân 190) Nguyễn-Ngọc-Thạch 191) Nguyễn-Ngọc-Thạch 192) Hồ-Thám 193) Đồng-Thắng 194) Huỳnh-Kim-Thanh 195) Phan-Văn-Thanh 196) Nguyễn-Thanh 197) Lê-Thành 198) Nguyễn-Hữu-Thành 199) Nguyễn-Văn-Thành 200) Ngô-Văn-Thắng 201) Đỗ-Văn-Thắng 202) Hứa-Chiến-Thắng 203) Vơ-Đại-Thắng 204) Phạm-Phương-Thảo 205) Trần-Văn-Thế 206) Nguyễn-Hữu-Thiện 207) Nguyễn-Văn-Thiệu 208) Lê-Bá-Thoại 209) Nguyễn-Văn-Thông 210) Nguyễn-Trung-Thu 211) Trần-Duy-Thuỷ 212) Đỗ-Thế-Thường 213) Đỗ-Như-Thúc 214) Phùng-Văn-Tiến 215) Đỗ-Kim-Tính 216) Hà-Hớn-Tinh 217) Nguyễn-Văn-Toàn 218) Nguyễn-Hữu-Ṭng 219) Mai-Văn-Tra 220) Nguyễn-Đ́nh-Trang 221) Huỳnh-Ngọc-Trang 222) Hoàng-Thông-Trí 223) Nguyễn-Văn-Trọng 224) Nguyễn-Đăng-Trơn 225) Phan-Thành-Trung 226) Trần-Văn-Trung 227) Nguyễn-Truyền 228) Liểu-Thiên-Trường 229) Vĩnh-Tu 230) Trà-Văn-Tú 231) Nguyễn-Văn-Tuấn 232) Nguyễn-Anh-Tuấn 233) Lê-Đức-Tuấn 234) Nguyễn-Văn-Tuệ 235) Đỗ-Đ́nh-Túy 236) Vơ-Tư 237) Lê-Văn-Tường 238) Trần-Tưởng 239) Nguyễn-Văn-Ty 240) Lê-Văn-Út 241) Nguyễn-Văn-Vàng 242) Trần-Thanh-Vân 243) Nguyễn-Đắc-Vinh 244) Nguyễn-Đ́nh-Vĩnh 245) Tŕnh-Tấn-Viễn 246) Nguyễn-Văn-Vy 247) Đặng-Văn-Xê 248) Trần-Quang-Xuân
Trung-Tướng Nguyễn-Khánh, Vị Chủ-toạ Lễ Tốt-Nghiệp khoá 22 SQHQ đến Khán-đài Danh-Dự Danh-Sách Khoá 23 (tháng 4-1971 đến tháng 4-1972) 1) Huỳnh-Văn-Ái 2) Mai-Văn-An 3) Trần-Văn-An 4) Phùng-Kim-Anh 5) Lưu-Tuấn-Anh 6) Đào-Duy-Ánh 7) Nguyễn-Quang-Ánh 8) Trịnh-Thành-Ấn 9) Trần-Văn-Ba 10) Trần-Ngọc-Bảo 11) Nguyễn-Quốc-Báo 12) Hoàng-Kim-Bắc 13) Nguyễn-Binh 14) Phạm-Hữu-B́nh 15) Trần-Thái-B́nh 16) Huỳnh-Ngọc-Bửu 17) Vơ-Văn-Ca 18) Nguyễn-Ngọc-Cận 19) Đinh-Hoàng-Cảnh 20) Chu-Thiện-Cầu 21) Nguyễn-Văn-Chánh 22) Nguyên-Văn-Châu 23) Nguyễn-Đức-Châu 24) Nguyễn-Bá-Chiến 25) Huỳnh-Văn-Chiên 26) Nguyễn-Văn-Chính 27) Lê-Phước-Chỉnh 28) Nguyễn-Văn-Chủ 29) Nguyễn-Công-Chức 30) Trần-Văn-Chuyển 31) Thái-Kiếm-Cơ 32) Lê-Thành-Công 33) Nguyễn-Đ́nh-Cư 34) Nguyễn-Văn-Cư 35) Châu-Phúc-Chương 36) Trần-Mạnh-Cường 37) Trương-Văn-Dần 38) Phan-Thành-Danh 39) Trần-Duệ 40) Phạm-Văn-Đài 41) Đào-Trọng-Đạt 42) Lê-Phát-Đạt 43) Nguyễn-Quang-Đăng 44) Nguyễn-Thanh-Đằng 45) Vũ-Lê-Điển 46) Lư-Hữu-Điền 47) Lương-Văn-Đính 48) Lê-Minh-Đoàn 49) Trần-Ngọc-Điệp 50) Nguyễn-Văn-Đôn 51) Nguyễn-Văn-Đông 52) Trần-Văn-Đông 53) Lê-Kiến-Đức 54) Trần-Hữu-Đức 55) Trần-Chí-Đức 56) Lê-Vĩnh-Đức 57) Nguyễn-Văn-Được 58) Nguyễn-Hữu-Em 59) Trương-Bửu-Giám 60) Nguyễn-Văn-Giàu 61) Nguyễn-Giỏi 62) Hoàng-Minh-Giao 63) Lâm-Cự-Giảng 64) Dương-Văn-Gơ 65) Trương-Diên-Hà 66) Trần-Văn-Hai 67) Diệp-Năng-Hải 68) Lê-Hải 69) Nguyễn-Thanh-Hải 70) Trương-Diên-Hải 71) Trương-Minh-Hải 72) Nguyễn-Hữu-Hạnh 73) Lê-Hiếu-Hạnh 74) Lê-Xuân-Hảo 75) Nguyễn-Hữu-Hảo 76) Liễu-Văn-Hỉ 77) Lương-Văn-Hiền 78) Nguyễn-Quang-Hiển 79) Lê-Quang-Hiển 80) Phạm-Hiền 81) Trần-Khác-Hiểu 82) Châu-Đức-Hiếu 83) Lê-Minh-Hiếu 84) Trần-Quốc-Hiệp 85) Phan-Trọng-Hiệp 86) Trương-Tiến-Hổ 87) Nguyễn-Hoà 88) Lê-Xuân-Hoài 89) Trần-Trọng-Hoàng 90) Trương-Văn-Hoàng 91) Phạm-Hoàng 92) Vơ-Mai-Hoàng 93) Trần-Minh-Hoàng 94) Nguyễn-Văn-Hồi 95) Trịnh-Hoè 96) Nguyễn-Hồi 97) Trần-Ngọc-Hồng 98) Nguyễn-Đ́nh-Hợp 99) Tôn-Văn-Huệ 100) Ngô-Việt-Hùng 101) Nguyễn-Thế-Hùng 102) Trương-Vĩnh-Hùng 103) Nguyễn-Phi-Hùng 104) Nguyễn-Việt-Hùng 105) Nguyễn-Văn-Huyến 106) Hồ-Tấn-Hưng 107) Nguyễn-Văn-Hu 108) Phan-Thế-Hữu 109) Trần-Quang-Hy 110) Đinh-Đức-Kha 111) Tạ-Đ́nh-Khang 112) Trần-Quốc-Khánh 113) Trần-Quốc-Khanh 114) Nguyễn-Hữu-Khôi 115) Phạm-Văn-Khuông 116) Nguyễn-Đ́nh-Khuyến 117) Vơ-Anh-Kiệt 118) Nguyễn-Văn-Kỳ 119) Nguyễn-Văn-Kỹ 120) Ngô-Lâm 121) Trương-Văn-Lâm 122) Nguyễn-Hữu-Lăng 123) Nguyễn-Tấn-Lập 124) Ngô-Đ́nh-Lệnh 125) Vơ-Văn-Lèo 126) Trần-Văn-Liêm 127) Nguyễn-Văn-Liệu 128) Nguyễn-Đức-Linh 129) Trần-Kế-Lộc 130) Nguyễn-Thiện-Lộc 131) Nguyễn-Vĩnh-Lộc 132) Tôn-Thất-Lợi 133) Đặng-Khánh-Long 134) Vũ-Long 135) Huỳnh-Ngọc-Luân 136) Phạm-Phước-Lương 137) Trần-Văn-Lượng 138) Đồng-Văn-Lư 139) Vơ-Văn-Lư 140) Phạm-Văn-Mai 141) Nguyễn-Công-Minh 142) Nguyễn-Hoàng-Minh 143) Nguyễn-Trung-Minh 144) Lai-Đăng-Minh 145) Trần-Cao-Minh 146) Trần-Ngọc-Minh 147) Nguyễn-Thanh-Minh 148) Đặng-Hắng-Minh 149) Mạnh-Văn-Mười 150) Lê-Mỹ 151) Vơ-Văn-Mỹ 152) Cao-Thành-Năm 153) Trần-Văn Năm 154) Lư-Văn-Năm 155) Phan-Văn-Năm 156) Nguyễn-Nhân 157) Trần-Thanh-Nghị 158) Nguyễn-Ngọc-Nghị 159) Nguyễn-Văn-Nghỉ 160) Hồ-Hữu-Nghĩa 161) Nguyễn-Văn-Nghĩa 162) Vơ-Hiếu-Nghĩa 163) Trịnh-Xuân-Ngọc 164) Lê-Văn-Nhơn 165) Nguyễn-Hoàng-Nguyên 166) Vơ-Như-Nguyên 167) Trương-Nguyện 168) Trương-Vĩnh-Ninh 169) Đặng-Văn-Nổ 170) Nguyễn-Nuôi 171) Vũ-Việt-Phong 172) Nguyễn-Phong 173) Nguyễn-Văn-Phong 174) Lê-Thanh-Phong 175) Hoàng-Phú 176) Nguyễn-Văn-Phúc 177) Trần-Đại-Phúc 178) Lê-Đ́nh-Phụng 179) Đặng-Hữu-Phước 180) Huỳnh-Đông-Phước 181) Nguyễn-Văn-Phước 182) Vơ-Hữu-Phước 183) Đỗ-Hữu-Phước 184) Huỳnh-Đắc-Phước 185) Trần-Kỳ-Phước 186) Hoàng-Văn-Phương 187) Nguyễn-Đ́nh-Quang 188) Phan-Quăng 189) Nguyễn-Văn-Quư 190) Trần-Ngọc-Sáng 191) Huỳnh-Văn-Sáu 192) Nguyễn-Văn-Rớt 193) Lê-Thiện-Sĩ 194) Nguyễn-Thành-Sơn 195) Dương-Văn-Sơn 196) Trần-Ngọc-Sơn 197) Huỳnh-Công-Tâm 198) Trần-Minh-Tâm 199) Dương-Văn-Tân 200) Cao-Minh-Tân 201) Huỳnh-Văn-Tân 202) Nguyễn-Văn-Tân 203) Khưu-Trinh-Thạch 204) Trần-Văn-Thạch 205) Lê-Bá-Thạch 206) Vơ-Duy-Thanh 207) Trần-Thanh 208) Lê-Công-Thanh 209) Nguyễn-Văn-Thành 210) Hoàng-Văn-Thành 211) Đặng-Văn-Thành 212) Trịnh-Ngọc-Thành 213) Lê-Ngọc-Thành 214) Trần-Ngọc-Thành 215) Phạm-Thế-Thảnh 216) Hoàng-Minh-Thắng 217) Lê-Quang-Thắng 218) Nguyễn-Văn-Thắm 219) Nguyễn-Trường-Thế 220) Trần-Văn-Thi 221) Khổng-Hữu-Thích 222) Nguyễn-Văn-Thiếu 223) Vơ-Văn-Thiện 224) Nguyễn-Phước-Thiện 225) Cao-Lương-Thiên 226) Nguyễn-Đức-Thịnh 227) Nguyễn-Văn-Thôn 228) Nguyễn-Văn-Thông 229) Vũ-Đức-Thông 230) Tạ-Quang-Thông 231) Hồ-Minh-Thông 232) Đỗ-Thống 233) Huỳnh-Kim-Thuận 234) Trương-Minh-Thừa 235) Vũ-Văn-Thức 236) Nguyễn-Thương 237) Nguyễn-Văn-Thưởng 238) Lai-Kiêm-Thuỷ 239) Nguyễn-Văn-Thùy 240) Hàn-Thụy-Tiến 241) Nguyễn-Duy-Tiên 242) Huỳnh-Trung-Tín 243) Trương-Hữu-Tín 244) Trần-Văn-Tính 245) Trần-Xuân-Tỉnh 246) Lê-Công-Tông 247) Nguyễn-Văn-Tốt 248) Phan-Văn-Ṭng 249) Bùi-Quang-Trăi 250) Nguyễn-Minh-Trang 251) Lê-Liên-Tŕ 252) Lâm-Đ́nh-Trị 253) Nguyễn-Minh-Triết 254) Đỗ-Quư-Trọng 255) Hoàng-Ngọc-Trung 256) Nguyễn-Duy-Trung 257) Phan-Văn-Trung 258) Tô-Quang-Trung 259) Trịnh-Quang-Từ 260) Dương-Đức-Tuấn 261) Nguyễn-Anh-Tuấn 262) Phạm-Văn-Tuấn 263) Bùi-Thông-Tuệ 264) Lê-Bá-Tùy 265) Nguyễn-Cảnh-Tùy 266) Nguyễn-Xuân-Tùng 267) Phạm-Ngọc-Tuyển 268) Lê-Thành-Tuyến 269) Lê-Thanh-Tuyến 270) Nguyễn-Văn-Tỷ 271) Hoàng-Văn-Tư 272) Trần-Cẩm-Vân 273) Trần-Thanh-Vân 274) Trần-Văn-Vân 275) Vơ-Như-Văn 276) Nguyễn-Văn-Viên 277) Lê-Quang-Vinh 278) Trương-Văn-Vinh 279) Huỳnh-Vui 280) Trần-Thế-Vĩnh 281) Nguyễn-Văn-Xiếu 282) Nguyễn-Văn-Yên
Các SVSQ/HQ Khoá 23 đang làm lễ tuyên-thệ.
Danh-Sách Khoá 24 (tháng 9-1971 đến tháng 9-1973): 1) Ngô-An 2) Trần-Quang-Anh 3) Trần-Trọng-Ân 4) Phạm-Duy-Ánh 5) Nguyễn-Văn-Ánh 6) Nguyễn-Hữu-Ba 7) Hồ-Văn-Bạch 8) Cao-Bá-Bạch 9) Ngô-Gia-Bảo 10) Nguyễn-Văn-Bảo 11) Tô-Ngọc-Bảo 12) Nguyễn-Gia-Bảo 13) V-V-B́nh 14) Lê-Gia-B́nh 15) Phạm-Văn-B́nh 16) Trần-Văn-B́nh 17) Nguyễn-Văn-Bôn 18) Huỳnh-Văn-Bửu 19) Hồ-Đ́nh-Bửu 20) N-Cảnh 21) Nguyễn-Ngọc-Cảnh 22) Trương-Công-Cắt 23) Nguyễn-Hoài-Châu 24) Đặng-Ngọc-Châu 25) Lư-Ngọc-Châu 26) Nguyễn-Cửu-Chi 27) Đỗ-Hồng-Chi 28) Nguyễn-Sáng-Chiếu 29) Dương-Văn-Chính 30) Đỗ-Văn-Chút 31) N-Chuộng 32) Đỗ-Thiện-Chương 33) Nguyễn-Văn-Chương 34) Đ-Chương 35) Liên-Khôi-Chương 36) Hồ-Quư-Chương 37) Lê-Gia-Cương 38) Nguyễn-Văn-Cửu 39) Trần-Văn-Dân 40) Vũ-Đ́nh-Dần 41) Trần-Văn-Diễn 42) Nguyễn-Văn-Diệp 43) Đỗ-Anh-Dũng 44) Phạm-Hùng-Dũng 45) Vũ-Dũng 46) Trịnh-Thái-Dương 47) Lưu-Đ́nh-Đài 48) Lê-Văn-Đại 49) Trương-Thanh-Đạm 50) Phạm-Hữu-Đản 51) Vương-Khắc-Đạt 52) Nguyễn-Văn-Đèn 53) Đoàn-Ngọc-Định 54) Nguyễn-Đức-Định 55) Phạm-Ngọc-Điền 56) Nguyễn-Văn-Đức 57) Đặng-Quang-Đức 58) Dương-Minh-Đức 59) Đỗ-Tấn-Đức 60) Trần-Hữu-Đức 61) Vơ-Ngọc-Đương 62) Hoàng-Em 63) Bùi-Kế-Giản 64) Phạm-Văn-Giới 65) Đoàn-Hồng-Hải 66) Lư-Ngọc-Hải 67) Vũ-Duy-Hiền 68) Vũ-Đ́nh-Hiền 69) Lê-Văn-Hiệp 70) Lê-Lộc-Hiệp 71) Lâm-Hữu-Hiệp 72) Lâm-Phi-Hổ 73) Dư-Văn-Hổ 74) Vơ-Văn-Hoa 75) Phạm-Đ́nh-Học 76) Nguyễn-Văn-Hoà 77) Nguyễn-Hiếu-Hoà 78) Vũ-Thúc-Hoàn 79) Hoàng-Đức-Hoang 80) Đặng-Phi-Hoàng 81) Nguyễn-Minh-Hoàng 82) Nguyễn-Huy-Hoàng 83) Nguyễn-Hoành 84) Trần-Trung-Hoạt 85) Nguyễn-Thanh-Hồng 86) Nguyễn-Khắc-Hồng 87) N V-Hơn 88) Vũ-Đ́nh-Huân 89) Lương-Văn-Huấn 90) Đỗ-Thanh-Huấn 91) Phan-Thế-Hùng 92) Uông-Đ́nh-Hùng 93) Nguyễn-Xuân-Hùng 94) Đỗ-Phi-Hùng 95) Cao-Quang-Huy 96) Trần-Xuân-Hưng 97) Nguyễn-Tấn-Hưng 98) Lê-Quang-Hưng 99) Nguyễn-Văn-Hưởng 100) Hoàng-Văn-Hựu 101) Trần-Thiện-Khải 102) Đinh-Văn-Khang 103) Phùng-Quang-Khanh 104) Bùi-Tấn-Khanh 105) Tạ-Xuân-Khoa 106) Nguyễn-Khương 107) Trần-Khắc-Kiêm 108) Phạm-Văn-Là 109) Lê-Như-Lai 110) Nguyễn-Lan 111) Trần-Kim-Lan 112) Nguyễn-Văn-Lang 113) Trần-Văn-Lân 114) Hồ-Văn-Lập 115) Vơ-Văn-Long 116) Nguyễn-Hữu-Long 117) Lê-Mỹ-Long 118) Nguyễn-Văn-Long 119) Nguyễn-Văn-Lộc 120) Huỳnh-Đắc-Lộc 121) Huỳnh-Trọng-Lộc 122) N T-Lộc 123) Nguyễn-Gia-Luân 124) Trần-Ngọc-Luyến 125) Trần-Văn-Lương 126) Lê-Văn-Lưỡng 127) Phạm-Văn-Măi 128) Lê-Văn-Mạnh 129) Phan-Công-Minh 130) Trương-Ngọc-Minh 131) Nguyễn-Thanh-Minh 132) Hồ-Phước-Minh 133) N M-My 134) Lương-Văn-Mỹ 135) Nguyễn-Ngọc-Mỹ 136) Phan-Văn-Ngà 137) Lê-Văn-Ngọc 138) Nguyễn-Văn-Ngọc 139) Nguyễn-Thiện-Nghệ 140) Đặng-Viết-Nghị 141) Phạm-Văn-Nghĩa 142) P T-Nghĩa 143) Trần-Trọng-Nghĩa !44) Đặng-Đ́nh-Nghĩa 145) Đ-Nghĩa 146) Nguyễn-Tấn-Nghiệp 147) Trần-Văn-Ngô 148) Nguyễn-Hoa-Nguyên 149) Lê-Khắc-Nguyên 150) T T-Nguyên 151) Nguyễn-Thanh-Nhă 152) Trần-Văn-Nhơn 153) Trần-Văn-Nhơn 154) Nguyễn-Văn-Nở 155) Nguyễn-Công-Oanh 156) Nguyễn-Ngọc-Oanh 157) Huỳnh-Tấn-Phát 158) N T-Phát 159) Nguyễn-Văn-Phảy 160) Huỳnh-Xuân-Phong 161) Ngô-Phúc 162) Phạm-Trọng-Phúc 163) Phạm-Văn-Phùng 164) Đặng-Thanh-Phước 165) Nguyễn-Tấn-Phương 166) D-Quang 167) Dương-Doăn-Quang 168) Nguyễn-Ngọc-Quang 169) Nguyễn-Xuân-Quang 170) Vương-Đ́nh-Quảng 171) Lư-Văn-Qui 172) Lê-Đ́nh-Quư 173) Trần-Văn-Quư 174) Đinh-Nhựt-Quư 175) Nguyễn-Văn-Quư 176) Phan-Nguyên-Quyền 177) Nguyễn-Hưng-Quyền 178) Bùi-Văn-Rê 179) Nguyễn-Văn-Rọt 180) Phạm-Văn-Sang 181) Nguyễn-Thanh-Sang 182) Nguyễn-Văn-Sang 183) Nguyễn-Ngọc-Sáng 184) Ngô-Minh-Sơn 185) Vũ-Hoàng-Sơn 186) Trần-Ngọc-Sơn 187) Nguyễn-Văn-Sĩ 188) Nguyễn-Anh-Sương 189) Phạm-Văn-Sửu 190) Cao-Hữu-Tài 191) Phùng-Quốc-Tài 192) Vơ-Thanh-Tam 193) Lương-Ngọc-Tâm 194) Nguyễn-Công-Tâm 195) Phạm-Hoàn-Tân 196) Nguyễn-Tấn 197) Phạm-Khương-Tây 198) Trần-Văn-Thái 199) Bùi-Quang-Thanh 200) Phan-Thế-Thanh 201) Trần-Quốc-Thanh 202) Bùi-Tấn-Thanh 203) Nguyễn-Văn-Thành (71A ) 204) Nguyễn-Văn-Thành (70A ) 205) Tăng-Kim-Thành 206) Bùi-Văn-Thảo 207) Cao-Phương-Thảo 208) Lê-Hồng-Thắm 209) Hà-Thanh-Thắng 210) Nguyễn-Văn-Thân 211) Trần-Hữu-Thệ 212) Vũ-Văn-Thiện 213) Nguyễn-Đỗ-Thiện 214) Nguyễn-Văn-Thiệt 215) Vơ-Trường-Thọ 216) Trương-Bửu-Thọ 217) Nguyễn-Thanh-Thu 218) Châu-Hồng-Thu 219) Nguyễn-Hoàng-Thu 220) N V-Thu 221) Trần-Văn-Thuận 222) Trần-Vĩnh-Thuận 223) Đặng-Ngọc-Thuần 224) Hoàng-Văn-Thuyết 225) Đinh-Trương-Tiến 226) Nguyễn-Đăng-Tiến 227) Tô-Tiếng 228) Huỳnh-Văn-Tính 229) Nguyễn-Ngọc-Toàn 230) Nguyễn-Kim-Trọng 231) Phạm-Văn-Trúc 232) Đoàn-Chánh-Trung 233) Trần-Đắc-Trung 234) Châu-Thanh-Trung 235) Cao-Minh-Trung 236) Nguyễn-Văn-Truyền 237) Đặng-Thành-Trước 238) Nguyễn-Anh-Tú 239) Trần-Cẩm-Tú 240) Cao-Thanh-Tùng 241) Trịnh-Tùng 242) Trần-Quốc-Tuấn 243) Lê-Anh-Tuấn 244) Lê-Văn-Tuấn 245) L V-Tuấn 246) Đặng-Công-Túy 247) Nguyễn-Văn-Tư 248) Ao-Văn-Tư 249) Nguyễn-Xuân-Tương 250) Chiêm-Văn-Tỷ 251) Trương-Văn-Ướt 252) Vơ-Đại-Vạn 253) Triệu-Hữu-Văn 254) Huỳnh-Văn-Vân 255) Trần-Thanh-Vân 256) Ngô-Tùng-Việt 257) Trương-Văn-Việt 258) Nguyễn-Huy-Việt 259) Nguyễn-Hoàng-Việt 260) Đinh-Hưng-Việt 261) Trịnh-Đ́nh-Vinh 262) Nguyễn-Phúc-Xá 263) Nguyễn-Văn-Xuân 264) Nguyễn-Xuân 265) Nguyễn-Văn-Xuân 266) Nguyễn-Hồng-Xuân 267) Đinh-Văn-Yên 268) Đào-Quang-Yêm
Các SVSQ/HQ Khoá 24 diễn-hành tại Sài-G̣n trong Ngày Quân-Lực 19-6-1973, theo sau SVSQ là các khoá-sinh Cao-Đẳng Chuyên-Nghiệp Hải-Quân.
Danh-Sách Khoá 25 (tháng 11-1972 đến tháng 9-1974): 1) Huỳnh-Văn-Ẩn 2) Mă-Toàn-An 3) Huỳnh-Ngọc-Ẩn 4) Đào-Bảo-Anh 5) Phạm-Ngọc-Anh 6) Trần-Gia-Bảo 7) Nguyễn-Văn-Bảy 8) Nguyễn-Văn-Bằng 9) Mai-Chính-B́nh 10) Nguyễn-Thanh-B́nh 11) Mai-Văn-Bọt 12) Nguyễn-Văn-Bự 13) Đồng-Thanh-Bửu 14) Nguyễn-Văn-Bửu 15) Trần-Công-Chánh 16) Phạm-Ngọc-Chất 17) Đinh-Phan-Châu 18) Phan-Hồng-Châu 19) Trần-Ngọc-Châu 20) Đặng-Hanh-Châu 21) Nguyễn-Hữu-Chí 22) Mai-Xuân-Chính 23) Lê-Văn-Chương 24) Lư-Cẩm-Chiêu 25) Đặng-Phú-Công 26) Lê-Văn-Cúc (71A 707.415 ) 27) Lê-Văn-Cúc (71A707.421 ) 28) Ung-Văn-Của 29) Lê-Phúc-Cường 30) Vơ-Thành-Danh 31) Huỳnh-Côn-Danh 32) Nguyễn-Tiến-Dân 33) Đỗ-Quang-Dũng 34) Lê-Văn-Dũng 35) Nguyễn-Hoàng-Dũng 36) Lâm-Trương-Quốc-Dũng 37) Duy-Văn-Dũng 38) Huỳnh-Bá-Dương 39) Nguyễn-Văn-Đàng 40) Phạm-Văn-Đắc 41) Trần-Xuân-Đức 42) Đặng-Vũ-Đức 43) Trần-Đức 44) Nguyễn-Bỉnh-Đức 45) Lương-Minh-Đức 46) Nguyễn-Tấn-Hải 47) Nguyễn-Văn-Hải 48) Trịnh-Khoát-Hai 49) Nguyễn-Văn-Hằng 50) Nguyễn-Anh-Hào 51) Trảo-Văn-Hiếu 52) Nguyễn-Tùng-Hiệp 53) Trần-Văn-Hiến 54) Nguyễn-Quí-Hợi 55) Đỗ-Thế-Hoà 56) Trần-Đ́nh-Hoà 57) Nhan-Văn-Hoàng 58) Đỗ-Văn-Hoàng 59) Bùi-Mạnh-Hoành 60) Trần-Đ́nh-Hồng 61) Tạ-Thiên-Hùng 62) Nguyễn-Tấn-Hùng 63) Nguyễn-Quư-Hùng 64) Nguyễn-Xuân-Hùng 65) Lê-Hùng 66) Nguyễn-Tấn-Hùng 67) Trần-Thế-Hưng 68) Lê-Văn-Hùng 69) Cao-Mạnh-Hùng 70) Nguyễn-Phi-Hùng 71) Châu-Huyết-Hùng 72) Nguyễn-Văn-Hùng 73) Vơ-Phi-Hùng 74) Nguyễn-Thái-Hùng 75) Đặng-Ngọc-Huờn 76) Vũ-Tiến-Hưng 77) Nguyễn-Ngọc-Hương 78) Nguyễn-Thiện-Khánh 79) Lê-Đắc-Khánh 80) Nguyễn-Đức-Khiêm 81) Lê-Văn-Kim 82) Phạm-Văn-Lạc 83) Phạm-Văn-Lăng 84) Lê-Quang-Liệt 85) Vũ-Linh 86) Ninh-Quang-Lợi 87) Trần-Văn-Lộc 88) Phạm-Xuân-Lộc 89) Nguyễn-Đắc-Lộc 90) Phạm-Luôn 91) Nguyễn-Lô 92) Nguyễn-Hữu-Lợi 93) Trần-Phi-Long 94) Nguyễn-Thanh-Long 95) Trần-Kim-Long 96) Khổng-Thanh-Long 97) Trần-Thăng-Long 98) Bạch-Thái-Long 99) Nguyễn-Miền 100) Nguyễn-Hoàng-Minh 101) Đinh-Sơn-Minh 102) Trần-Kim-Mừng 103) Nguyễn-Văn-Mỹ 104) Lê-Hoàng-Nam 105) Bùi-Đức-Nghĩa 106) Trần-Đ́nh-Ngọc 107) Đỗ-Đức-Ngự 108) Vơ-Văn-Nhàn 109) Lư-Nhuê 110) Nguyễn-Hữu-Nhị 111) Trịnh-Văn-Nhơn 112) Đặng-Văn-Phát 113) Sử-Chấn-Phát 114) Nguyễn-Đăng-Phong 115) Nguyễn-Văn-Phơi 116) Lê-Thái-Phúc 117) Vũ-Thiên-Phúc 118) Phạm-Hữu-Phúc 119) Nguyễn-Kỳ-Phùng 120) Mai-Hữu-Phước 121) Trần-Đăng-Phước 122) Ngô-Đ́nh-Phước 123) Tạ-Duy-Phương 124) Phan-Thanh-Quang 125) Vũ-Nhật-Quang 126) Đào-Văn-Quảng 127) Nguyễn-Trọng-Quốc 128) Nguyễn-Văn-Sáu 129) Trương-Văn-Song 130) Lê-Hồng-Sơn 131) Huỳnh-Chí-Sơn 132) Bảo-Sự 133) Huỳnh-Tài 134) Đỗ-Văn-Tâm 135) Đặng-Phúc-Tân 136) Huỳnh-Văn-Tân 137) Trần-Ngọc-Tân 138) Phạm-Hữu-Thanh 139) Trần-Phú-Thảnh 140) Vơ-Văn-Thanh 141) Bùi-Đức-Thành 142) Phạm-Văn-Thành (71A ) 143) Phạm-Văn-Thành (72A ) 144) Nguyễn-Chí-Thành 145) Ngô-Văn-Thành 146) Đới-Văn-Thảo 147) Nguyễn-Trọng-Thiệp 148) Nguyễn-Ngọc-Th́n 149) Trần-Đăng-Thọ 150) Lê-Nguơn-Thọ 151) Nguyễn-Văn-Thu 152) Nguyễn-Văn-Thuận 153) Đồng-Văn-Thuận 154) Trần-Phước-Thuận 155) Vũ-Khắc-Tiến 156) Nguyễn-Văn-Tiên 157) Đặng-Văn-Tiến 158) Lê-Xuân-Ṭng 159) Phạm-Ngọc-Trai 160) Trần-Minh-Triết 161) Phạm-Công-Trĩ 162) Đỗ-Đức-Trí 163) Nguyễn-Hữu-Trí 164) Quách-Long-Trí 165) Lê-Quang-Trí 166) Nguyễn-Minh-Trọng 167) Đặng-Huỳnh-Trung 168) Nguyễn-Đức-Tuấn 169) Mai-Anh-Tuấn 170) Nguyễn-Hữu-Tuấn 171) Phan-Minh-Tuấn 172) Lư-Văn-Lâm-Tuấn 173) Đặng-Tư 174) Bùi-Văn-Tường 175) Nguyễn-Hữu-Tưởng 176) Hoắc-Vận 177) Vơ-Thiện-Văn 178) Lê-Văn-Vệ 179) Nguyễn-Hữu-Việt 180) Nguyễn-Anh-Việt 181) Nguyễn-Hoàng-Việt 182) Mai-Thế-Vinh 183) Nguyễn-Thế-Vinh 184) Hứa-Hoàng-Vĩnh 185) Nguyễn-Thanh-Xuân 186) Âu-Dương-Xuyên
Các SVSQ/HQ Khoá 25 năm thứ 2.
Danh-Sách Khoá 26 (tháng 8-1973 đến tháng 4-1975): 1) Vơ-Hoàng-An 2) Nguyễn-Duy-Anh 3) Nguyễn-Ngọc-Ánh 4) Nguyễn-Anh 5) Đặng-Văn-Anh 6) Trần-Quốc-Bảo 7) Trần-Văn-B́nh 8) Châu-Quốc-Bửu 9) Trần-Đ́nh-Căn 10) Nguyễn-Công-Chánh 11) Lê-Quư-Châu 12) Nguyễn-Viết-Châu 13) Lê-Đ́nh-Chí 14) Lê-Thiện-Chín 15) Nguyễn-Văn-Cơ 16) Vơ-Văn-Công 17) Nguyễn-Văn-Của 18) Phạm-Hùng-Cường 19) Phạm-Mạnh-Cường 20) Đặng-Công-Danh 21) Đoàn-Minh-Dũng 22) Lê-Anh-Dũng 23) Huỳnh-Hữu-Đáng 24) Nguyễn-Văn-Đáng 25) Trần-Văn-Đại 26) Nguyễn-Văn-Đào 27) Trương-Bá-Đạt 28) Hồ-Ngọc-Đẹp 29) Nguyễn-Văn-Điều 30) Vũ-Hữu-Định 31) Phạm-Đắc-Đức 32) Trần-Minh-Giám 33) Nguyễn-Bằng-Giang 34) Phạm-Phú-Giao 35) Đỗ-Mạnh-Hà 36) Nguyễn-Thanh-Hà 37) Nguyễn-Văn-Hà 38) Lê-Trọng-Hải 39) Nguyễn-Hồng-Hải 40) Nguyễn-Văn-Hào 41) Tống-Như-Hiền 42) Phạm-Trọng-Hiệp 43) Huỳnh-Văn-Hiếu 44) Nguyễn-Văn-Hồ 45) Phạm-Công-Hoàng 46) Phan-Gia-Hội 47) Nguyễn-Hồng 48) Trương-Quang-Huê 49) Ngô-Doăn-Hùng 50) Nguyễn-Mạnh-Hùng 51) Bùi-Quốc-Hưng 52) Thái-Hoàng-Hưng 53) Tô-Vũ-Khắc 54) Nguyễn-Như-Khải 55) Nguyễn-Văn-Khanh 56) Trần-Hoàng-Khanh 57) Vũ-Ngọc-Khuê 58) Nguyễn-Binh-Kiên 59) Vũ-Văn-Kính 60) Phạm-Đ́nh-Lại 61) Lương-Mậu-Lâm 62) Phạm-Thanh-Liêm 63) Nguyễn-Thanh-Liêm 64) Trần-Thanh-Liêm 65) Yong-Phi-Liệt 66) Nguyễn-Minh-Lịch 67) Vũ-Văn-Lộ 68) Bùi-Tấn-Lộc 69) Hoàng-Gia-Lộc 70) Lâm-Tấn-Lộc 71) Nguyễn-Lợi 72) Nguyễn-Văn-Lợi 73) Lâm-Ngọc-Lợi 74) Trần-Ngọc-Long 75) Lê-Minh-Lương 76) Ngô-Đ́nh-Lương 77) Đỗ-Hữu-Lượng 78) Lại-Văn-Lư 79) Đỗ-Thanh-Mai 80) Trần-Văn-Măo 81) Nguyễn-Một 82) Nguyễn-Văn-Minh 83) Nguyễn-Văn-Muốn 84) Huỳnh-Văn-Mười 85) Đỗ-Oanh 86) Nguyễn-Bá-Phi 87) Nguyễn-Văn-Pho 88) Lê-Quốc-Phong 89) Đỗ-Như-Quang 90) Ngô-Hữu-Thu-Quang 91) Trần-Văn-Quang 92) Lê-Văn-Quư 93) Nguyễn-Văn-Quỳnh 94) Đỗ-Hữu-Sáng 95) Lê-Hoàng-Sơn 96) Lê-Thanh-Sơn 97) Vơ-Minh-Sum 98) Lê-Thành-Sử 99) Đinh-Tấn-Tâm 100) Nguyễn-Tâm 101) Trần-Minh-Tâm 102) Huỳnh-Hồng-Tân 103) Ngô-Đ́nh-Tân 104) Nguyễn-Kim-Tân 105) Vơ-Ngọc-Tân 106) Vương-Minh-Tân 107) Lâm-Ngọc-Thạch 108) Đặng-Ngọc-Thạch 109) Tạ-Huy-Thái 110) Lê-Văn-Thân 111) Lê-Quốc-Thắng 112) Phan-Ngọc-Thanh 113) Nguyễn-Công-Thanh 114) Vũ-Đ́nh-Thanh 115) Nguyễn-Văn-Thanh 116) Lê-Ngọc-Thanh 117) Phạm-Văn-Thanh 118) Lưu-Văn-Thành 119) Châu-Chí-Thành 120) Đỗ-Ngọc-Thạnh 121) Nguyễn-Nhâm-Th́n 122) Huỳnh-Thọ 123) Vơ-Phước-Thọ 124) Đoàn-Chí-Thông 125) Trần-Nhật-Thông 126) Nguyễn-Thu 127) Dương-Văn-Thu 128) Nguyễn-Văn-Thuận 129) Nguyễn-Văn-Thuận 130) Nguyễn-Hiếu-Thuận 131) Trương-Đ́nh-Thực 132) Nguyễn-Văn-Thực 133) Nguyễn-Nam-Tiến 134) Đỗ-Văn-Thương 135) Nguyễn-Tích 136) Đỗ-Thanh-Tiến 137) Nguyễn-Tấn-Tỏ 138) Nguyễn-Công-Toại 139) Cung-Bảo-Toàn 140) Lê-Mậu-Tôn 141) Phạm-Văn-Tốt 142) Ngô-Hưng-Trí 143) Huỳnh-Minh-Trí 144) Lê-Minh-Triều 145) Vũ-Đ́nh-Trụ 146) Nguyễn-Hoàng-Trung 147) Huỳnh-Văn-Trung 148) Thái-Nhĩ-Trung 149) Nguyễn-Quang-Trung 150) Nguyễn-Trung 151) Mai-Hiếu-Trực 152) Đỗ-Bá-Trung 153) Lê-Văn-Tuấn 154) Nguyễn-Túc 155) Lê-Hoàng-Tùng 156) Nguyễn-Văn-Tư 157) Trần-Quang-Tư 158) Văn-Trung-Tước 159) Đỗ-Phú-Tuỷ 160) Nguyễn-Văn-Vân 161) Nguyễn-Viên 162) Lương-Thái-Vĩnh 163) Hồ-Bảo-Vĩnh 164) Lư-Anh-Vinh 165) Nguyễn-Văn-Vinh 166) Nguyễn-Trung-Vinh 167) Phạm-Quang-Vinh 168) Phạm-Huyền-Vũ 169) Phạm-Văn-Xạ 170) Ngô-Văn-Xem 171) Trần-Văn-Xẻn 172) Nguyễn-Văn-Xuân (2222 ) 173) Nguyễn-Văn-Xuân 174) Vương-Khắc-Yên
Các SVSQ/HQ Khoá 26 Đệ-Tam Kim-Ngưu. Danh-Sách các Khoá-sinh Officer Candidate School tại Hoa-Kỳ
Quang-cảnh trường Officer Candidate School (OCS) tại New Port Rhode Island. Danh-Sách Khoá 1 OCS : 1) Nguyễn-Kim-Bửu 2) Nguyễn-Văn-Cân 3) Nguyễn-Trí-Can 4) Nguyễn-Ngọc-Cảnh 5) Nguyễn-Trung-Chánh 6) Vương-Chiêu 7) Cao-Văn-Chiểu 8) Nguyễn-Văn-Cười 9) Lê-Thế-Di 10) Đỗ-Đ́nh-Dũng 11) Trần-Ngọc-Điệp 12) Bùi-Đại-Đức 13) Hồ-Ngọc Minh-Đức 14) Vơ-Khắc-Hạnh 15) Vơ-Tấn-Hảo 16) Tôn-Thất-Hiệp 17) Trần-Du-Hoa 18) Nguyễn-Mạnh-Hùng 19) Nguyễn-Vũ-Hùng 20) Vũ-Mạnh-Hùng 21) Nguyễn-Minh-Hựu 22) Huỳnh-Kim-Khanh 23) Trần-Thế-Khoa 24) Trần-Văn-Lai 25) Hồ-Văn-Lạng 26) Trương-Văn-Liêm 27) Hoàng-Phi-Long 28) Phạm-Văn-Luông 29) Trần-Ngọc-Mai 30) Đỗ-Quang-Minh 31) Trương-Văn-Nam 32) Lê-Thành-Ngọc 33) Lê-Minh-Ngọc 34) Đinh-Văn-Nguyên 35) Lê-Công-Nhạn 36) Nguyễn-Thanh-Nhă 37) Vơ-Thống-Nhứt 38) Nguyễn-Minh-Phụng 39) Trần-Minh-Quang 40) Lê-Xuân-Quang 41) Phạm-Văn-Sơn 42) Trương-Hữu-Tài 43) Bùi-Văn-Thanh 44) Lê-Tích-Thiện 45) Ngô-Đ́nh-Thuận 46) Phan-Kế-Toại 47) Trương-Vĩnh-Tường 48) Lê-Quang-Trung 49) Nguyễn-Quang-Trúc 50) Đỗ-Trung 51) Huỳnh-Đức-Trung 52) Nguyễn-Hồng-Vũ 53) Nguyễn-Ngọc-Vui 54) Nguyễn-Thái-Xuyên Danh-Sách Khoá 2 OCS : 1) Trương-Văn-Anh 2) Nguyễn-Ánh 3) Trần-Ngọc-Ánh 4) Thiềm-Văn-Ba 5) Nguyễn-Vĩnh-B́nh 6) Phạm-Văn-B́nh 7) Thái-Văn-B́nh 8) Trần-Đ́nh-Cát 9) Bùi-Huy-Châu 10) Trần-Huy-Chương 11) Nguyễn-Hùng-Cường 12) Vũ-Lê-Dân 13) Nguyễn-B́nh-Du 14) Trần-Đức-Dụ 15) Lề-Hồng-Đào 16) Nguyễn-Định 17) Huỳnh-Bang-Gia 18) Châu-Tô-Hà 19) Nguyễn-Ngọc-Hiền 20) Hà-Xuân-Hồng 21) Trần-Bách-Hợp 22) Cao-Bích Quốc-Huy 23) Nguyễn-Công-Khai 24) Đinh-Sơn-Khải 25) Đỗ-Như-Kim 26) Nguyễn-Xuân-Kỷ 27) Nguyễn-Văn-Lành 28) Sơn-Lành 29) Bùi-Đức-Lịch 30) Phan-Xuân Trung-Lưu 31) Nguyễn-Văn-Mẫn 32) Nguyễn-Văn-Minh 33) Huỳnh-Hữu-Nam 34) Hoàng-Ngạc 35) Đinh-Văn-Nhu 36) Thân-Văn-Phan 37) Đặng-Văn-Phúc 38) Lê-Quang-Phúc 39) Dương-Quốc-Phục 40) Nguyễn-Phước 41) Ngô-Văn-Sơn 42) Bùi-Thạch Trường-Sơn 43) Phạm-Duy-Tạo 44) Nguyễn-Văn-Thạnh 45) Nguyễn-Quốc-Thành 46) Lê-Tín-Thành 47) Phạm-Kim-Thiếp 48) Châu-Văn-Trí Danh-Sách Khoá 3 OCS : 1) Phạm-Văn-Bá 2) Vơ-Thành-Châu 3) Nguyễn-Trọng-Chiếu 4) Nguyễn-Hữu-Cho 5) Ngô-Văn-Chuân 6) Phan-Văn-Chuẩn 7) Nguyễn-Thành-Công 8) Lê-Thành-Dinh 9) Đoàn-Văn-Đăm 10) Nguyễn-Quốc-Định 11) Lê-Tế-Đô 12) Cao-Thế-Đường 13) Nguyễn-Văn-Hoá 14) Nguyễn-Đức-Ích 15) Vũ-Gia-Khánh 16) Nguyễn-Quang-Lăm 17) Nguyễn-Oanh-Liệt 18) Trần-Xuân-Lợi 19) Giang-Ngưu 20) Quề-Nguyện 21) Nguyễn-Văn-Nhàn 22) Nguyễn-Ngọc-Nhựt 23) Huỳnh-Văn-Phát 24) Dương-Phi 25) Tôn-Thất-Phước 26) Nguyễn-Trọng-Quềnh 27) Lê-Sang 28) Vũ-Tiến-Tạ 29) Nguyễn-MỸ-Thanh 30) Quách-Đăng-Thành 31) Phạm-Chiến-Thắng 32) Vơ-Thắng 33) Nguyễn-Văn-Thiều 34) Uông-Tô 35) Nguyễn-Thái-Truyền 36) Vũ-Đức-Vàn 37) Nguyễn-Toàn-Vẹn 38) Nguyễn-Nam-Việt 39) Hoàng-Quốc-Việt 40) Nguyễn-Văn-Việt Danh-Sách Khoá 4 OCS : 1) Đoàn-Viết-Ất 2) Vĩnh-Bạch 3) Nguyễn-Tuấn-B́nh 4) Nguyễn-Cư 5) Phạm-Văn-Chuân 6) Nguyễn-Trọng-Chiểu 7) Khổng-Hữu-Chung 8) Huỳnh-Minh-Chương 9) Nguyễn-Thành-Công 10) Nguyễn-Văn-Duy 11) Nguyễn-Huy-Đản 12) Ngô-Đạo 13) Huỳnh-B́nh-Đức 14) Nguyễn-Văn-Hiếu 15) Nguyễn-Việt-Hoài 16) Đỗ-Hữu-Huân 17) Đỗ-Thân-Hùng 18) Hồ-Văn-Hùng 19) Nguyễn-Hữu-Lộc 20) Trần-Văn-Luận 21) Trần-Thanh-Minh 22) Nguyễn-Hồng-Nhạn 23) Đoàn-Minh-Nhựt 24) Trần-Văn-Nhơn 25) Lê-Vĩnh-Phúc 26) Trịnh-Hoài-Phương 27) Nguyễn-Hồng-Quang 28) Nguyễn-Duy-Tân 29) Phạm-Gia-Thắng 30) Trần-Đức-Thịnh 31) Trần-Hữu-Thọ 32) Đỗ-Song-Thu 33) Trần-Kim-Tiến 34) Nguyễn-Đ́nh-Tuân 35) Nguyễn-Thanh-Tùng
Danh-Sách Khoá 5 OCS : 1) Mai-Công-An 2) Nguyễn-Văn-Ba 3) Lợi-Bá-Chảy 4) Nguyễn-Khắc-Chinh 5) Đào-Văn-Chung 6) Ngô-Thụy-Chương 7) Nguyễn-Đức-Cường 8) Nguyễn-Nhật-Cường 9) Lề-Thy-Dân 10) Ngô-Thế-Di 11) Nguyễn-Văn-Đài 12) Nguyễn-Anh-Đào 13) Đường-Hào 14) Hồ-Đắc-Hiển 15) Nguyễn-Thanh-Hồ 16) Phạm-Hữu-Hợp 17) Nguyễn-Trung-Hùng 18) Nguyễn-Mạnh-Hùng 19) Bành-Ngọc-Kề 20) Nguyễn-Như-Lâm 21) Nguyễn-Ngọc-Lễ 22) Nguyễn-Quang-Linh 23) Trần-Văn-Lề 24) Bùi-Danh-Môn 25) Đoàn-Thụy-Nam 26) Giang-Nam 27) Nguyễn-Văn-Nghiêm 28) Đoàn-Khắc-Ninh 29) Trần-Ngọc-Ninh 30) Tạ-Quốc-Quang 31) Trần-Thanh-Quế 32) Nguyễn-Văn-Quỳnh 33) Đoàn-Minh-Sang 34) Lưu-Hiền-Sĩ 35) Trần-Thái 36) Phạm-Trường-Thọ 37) Phạm-Văn-Thương 38) Ngô-Quang-Tụng 39) Trần-Văn-Trường 40) Mạc-Văn-Vĩnh Danh-Sách Khoá 6 OCS : 1) Danh-Âu 2) Đỗ-Khang-An 3) Nguyễn-Minh-Ánh 4) Nguyễn-Ngọc-Bạch 5) Nguyễn-Cần 6) Bạch-Văn-Cao 7) Trương-Cao-Chánh 8) Trần-Ngọc-Diệp 9) Nguyễn-Chu Trương-Dực 10) Nguyễn-Trần-Đàm 11) Vơ-Văn-Đô 12) Vạn-Đại-Hồng 13) Chương-Nam-Hoà 14) Hà-Văn-Hùng 15) Vũ-Sơn-Hùng 16) Nguyễn-Mạnh-Hùng 17) Tô-Văn-Hường 18) Phạm-Ngọc-Kính 19) Nguyễn-Công-Liêm 20) Đỗ-Kỳ-Nam 21) Nguyễn-Ngọ 22) Nguyễn-Trung-Nghĩa 23) Trần-Ngọc-Phước 24) Nguyễn-Hữu-Phú 25) Trịnh-Triệu-Phú 26) Nguyễn-Hồng-Quang 27) Lê-Minh-Sang 28) Nguyễn-Thận 29) Lê-Sỹ-Thắng 30) Nguyễn-Ngọc Thạch-Tony 31) Dương-Kỳ-Thanh 32) Nguyễn-Mạnh-Thế 33) Vũ-Đ́nh-Thọ 34) Lê-Đức-Thuận 35) Cao-Đăng-Toàn 36) Phạm-Gia-Tường 37) Nguyễn-Thành-Trạng 38) Nguyễn-Kiên-Trung 39) Vũ-Đ́nh-Vận
Danh-Sách Khoá 7 OCS : 1) Phan-Thiện-Ái 2) Vơ-Quang-Ấn 3) Trần-Văn-Báu 4) Trần-Công Cao-Cát 5) Lê-Á-Châu 6) Nguyễn-Ngọc-Chay 7) Trần-Minh-Dũng 8) Nguyễn-Văn-Điềm 9) Đinh-Thế-Hiển 10) Triệu-Chí-Hoa 11) Phan-Văn-Hoàng 12) Trần-Văn-Học 13) Trương-Bửu-Huê 14) Nguyễn-Văn-Khá 15) Tăng-Hoàng-Khanh 16) Nguyễn-Ngọc-Lân 17) Mai-Văn-Liễu 18) Nguyễn-Hữu-Lộc 19) Nguyễn-Thanh-Lịch 20) Nguyễn-Văn-Lương 21) Trần-Văn-Minh 22) Trần-Quang-Phước 23) Phan-Văn-Quang 24) Đoàn-Văn-Quư 25) Hồ-Văn-Rẫm 26) Trần-Đ́nh-Ruy 27) Đồng-Phú-Thịnh 28) Nguyễn-Khắc-Thịnh 29) Lê-Văn-Thu 30) Nguyễn-Thế-Thuật 31) Vơ-Anh-Tuấn
Danh-Sách Khoá 8 OCS : 1) Vơ-Quốc-Dân 2) Nguyễn-Bảo-Đồng 3) Hà-Văn-Hải 4) Nguyễn-Đức-Hải 5) Trần-Văn-Hanh 6) Nguyễn-Hạt 7) Nguyễn-Văn-Hiệu 8) Trần-Thiện-Hoài 9) Đặng-Thế-Hùng 10) Phạm-Minh-Hùng 11) Phan-Tấn-Hùng 12) Trần-Chí-Hùng 13) Hồ-Văn-Khả 14) Hoàng-Minh-Khánh 15) Lê-Chí-Kỉnh 16) Phạm-Hoàng-Kỳ 17) Trần-Ngọc-Lập 18) Nguyễn-Lợi 19) Nguyễn-Đức-Mậu 20) Đặng-Văn-Minh 21) Trần-Văn-Minh 22) Hà-Đăng-Ngân 23) Trần-Ngọc-Phiên 24) Lê-Bá-Phước 25) Cao-Văn-Quân 26) Nguyễn-Văn-Sô 27) Mạc-Đăng-Sơn 28) Diệp-Xuân-Sơn 29) Trương-Trọng-Thắng 30) Nguyễn-Văn-Thiết 31) Lâm-Trí-Thức 32) Huỳnh-Đ́nh-Thường 33) Đàm-Đ́nh-Tuấn 34) Đặng-Văn-Toản 35) Hoàng-Phùng-Vượng 36) Đàm-Văn-Xin Danh-Sách Khoá 9 OCS : 1) Lê-Văn-Bé 2) Lâm-Bính-Cang 3) Nguyễn-Thế-Cảnh 4) Đoàn-Cát 5) Phạm-Ngọc-Danh 6) Nguyễn-Tấn-Đạt 7) Phạm-Ngọc-Đông 8) Nguyễn-Văn-Giản 9) Trần-Nguyên-Hiệp 10) Đan-Trung-Hiếu 11) Nguyễn-Thái-Hùng 12) Phạm-Ngọc-Kháng 13) Hà-Duyên-Khánh 14) Nguyễn-Minh 15) Nguyễn-Thế-Minh 16) Trịnh-Đ́nh-Nguyên 17) Trương-Như-Quảng 18) Ngô-Văn-Quế 19) Bùi-Văn-Quư 20) Thái-Minh-Tâm 21) Phan-Thái 22) Hoàng-Văn-Thuận 23) Đoàn-Đ́nh-Thuỷ 24) Vũ-Đ́nh-Tước 25) Vũ-Ngọc-Trường 26) Trần-Quốc-Việt 27) Đỗ-Trọng-Vinh
Danh-Sách Khoá 10 OCS : 1) Nguyễn-Thi-Ân 2) Nguyễn-Văn-Cư 3) Phạm-Đ́nh-Công 4) Thái-Văn-Cửu 5) Tống-Ngọc-Diệp 6) Kiều-Đàm 7) Lê-Đ́nh-Đăng 8) Lê-Minh-Đạo 9) Nguyễn-Sơn-Hà 10) Trần-Văn-Hai 11) Phùng-Thiện-Han 12) Đỗ-Xuân-Hoà 13) Nguyễn-Ngọc-Hiếu 14) Diệp-Hữu-Nghĩa 15) Nguyễn-Văn-Nhiều 16) Trương-Chấn-Phát 17) Lưu-Trung-Quang 18) Lê-Sỹ-Quư 19) Nguyễn-Y-Sĩ 20) Ngô-Xuân-Tâm 21) Trần-Quốc-Thạnh 22) Lê-Hồng-Thanh 23) Phạm-Văn-Thanh 24) Trần-Thi 25) Ngô-Duy-Tuấn ( Trương-Vỹ-Minh ) chưa xác-định khoá Danh-Sách Khoá 11 OCS : 1) Trần-Tiến-An 2) Nguyễn-Văn-Bông 3) Bạch-Quang-Cậy 4) Nguyễn-Đại Ngọc-Châu 5) Trần-Nhuận-Chi 6) Nguyễn-Ngọc-Chót 7) Nguyễn-Cổn 8) Lê-Đức-Công 9) Lê-Ngọc-Đảnh 10) Mă-Đức 11) Nguyễn-Hữu-Hạnh 12) Nguyễn-Mạnh-Hùng 13) Phạm-Quang-Huy 14) Nguyễn-Đ́nh-Lộc 15) Hoàng-Mộng-Lương 16) Trần-Hải-Mank 17) Trần-Thế-Mỹ 18) Huỳnh-Trọng-Nghĩa 19) Huỳnh-Nhạc 20) Nguyễn-Thượng-Nhơn 21) Nguyễn-Văn-Sĩ 22) Nguyễn-Văn-Thường 23) Huỳnh-Thiện-Toàn 24) Đỗ-Anh-Tuấn 25) Huỳnh-Quốc-Tuấn 26) Vũ-Tuấn 27) Nguyễn-Hữu-Tường 28) Trần-Vinh 29) Nguyên-Xuân-Vời 30) Đinh-Sỹ-Vụ Danh-Sách Khoá 12 OCS : 1) Phạm-Hồng-Ân 2) Trần-Minh-Châu 3) Lưu-Lập-Chí 4) Trần-Anh-Dũng 5) Nguyễn-Văn-Đức 6) Phạm-Đ́nh Nhật-Hà 7) Đào-Hải 8) Phan-Văn-Hợp 9) Nguyễn-Khắc-Huệ 10) Chu-Văn-Hùng 11) Mộng-Kiến-Hưng 12) Hoàng-Lê 13) Vũ-Thế-Lực 14) Nguyễn-Phước Bảo-Lương 15) Nguyễn-Ngạch 16) Nguyễn-Trọng-Nghĩa 17) Đỗ-Đăng-Phong 18) Trần-Quan 19) Nguyễn-Văn-San 20) Ngô-Văn-Sơn 21) Nguyễn-Ngọc-Thông 22) Phạm-Văn-Tiến 23) Đinh-Quang-Trật 24) Đỗ-Anh-Tuấn 25) Trần-Nguyên-Tuấn 26) Hương-Thanh-Tuyền 27) Nguyễn-Phúc-Ty ( Nguyễn-Tấn-Tài ) chưa xác-định khoá Danh-Sách Khoá 1 IOCS : 1) Nguyễn-Văn-Bảo 2) Dương-Thanh-B́nh 3) Âu-Tế-Châu 4) Nguyễn-Sang-Danh 5) Lê-Phát-Đạt 6) Phó-Thịnh-Đường 7) Nguyễn-Văn-Kết 8) Lương-Khương 9) Trần-Kim-Lâm 10) Vũ-Xuân-Lưu 11) Hoàng-Phước-MỸ 12) Tất-Ngưu 13) Nguyễn-Thanh-Phan 14) Lâm-Kim-Pḥng 15) Nguyễn-Minh-Phụng 16) Bùi-Kim-Phước 17) Nguyễn-Hữu-Phước 18) Đào-Thái-Thành 19) Nguyễn-Bá-Thắng 20) Huỳnh-Vĩ-Thông 21) Trần-Minh-Trung 22) Nguyễn-Văn-Vũ
Các Khoá-sinh toàn trường OCS dự Lễ Măn-khoá ngoài Vũ-Đ́nh-Trường.
Danh-Sách Khoá 2 IOCS, mản khóa ngày 17/05/1974 : 1) Phan Ban 2) Trần Ngọc Dư 3) Phạm Văn Hoàng 4) Phạm Đức Khôi 5) Huỳnh Tấn Thành 6) Nguyễn Văn Thiệp 7) Vỏ Thiện Trung 8) Phó Thái Văn 9) ?
Danh-Sách Sĩ-Quan/Đặc-Biệt:
H́nh-ảnh SVSQ/HQ các khoá đặc-biệt họp mặt tại Hải-ngoại vào năm 2004. Danh-Sách Khoá 1 Đặc-Biệt : 1) Hồ-Sĩ Thư-Anh 2) Lê-Quang-Ánh 3) Nguyễn-Tấn-Bá 4) Bùi-Nguơn-Bảy 5) Nguyễn-Bản-Be 6) Trần-Văn-Bê 7) Trần-Văn-Bên 8) Hồ-Bền 9) Trần-Văn-Bi 10) Hồ-Sĩ Thư-B́nh 11) Lương-Quang-B́nh 12) Nguyễn-Văn-Bông 13) Huỳnh-Kim-Bửu 14) Trần-Văn-Cang 15) Trần-Minh-Chánh 16) Trần-Minh-Châu 17) Dương-Minh-Châu 18) Trần-Châu 19) Trần-Văn-Chói 20) Trần-Ngọc-Chót 21) Lê-Chí-Công 22) Trần-Quang-Dân 23) Bùi-Kế-Diễn 24) Nguyễn-Đại-Diêu 25) Nguyễn-Văn-Dinh 26) Lê-Văn-Duyên 27) Nguyễn-Lê-Đại 28) Quư-Điền 29) Phạm-Ngọc-Đỉnh 30) Trần-Văn-Giác 31) Lê-Duy-Hà 32) Lê-Văn-Hai 33) Đào-Hải 34) Hồ-Hoàng-Hảo 35) Liêu-Hàu 36) Trần-Văn-Hiếu 37) Đàm-Văn-Hoà 38) Ngô-Hoà 39) Nguyễn-Đ́nh-Hoà 40) Phạm-Thái-Hoàng 41) Phạm-Văn-Hoàng 42) Trần-Hữu-Hoàng 43) Phạm-Văn-Hồng 44) Nguyễn-Văn-Huấn 45) Lê-Minh-Huệ 46) Phạm-Ngọc-Hùng 47) Trần-Hữu 48) Nguyễn-Hữu 49) Trần-Đ́nh-Khán 50) Nguyễn-Văn-Khang 51) Đinh-Khang 52) Phạm-Viết-Khiết 53) Nguyễn-Văn-Khôi 54) Cù-Văn-Kiểm 55) Cù-Văn-Kiểm 56) Trần-Kiều 57) Đỗ-Như-Kim 58) Nguyễn-Văn-Lạc 59) Lê-Phước-Lâm 60) Nguyễn-Tiến-Lể 61) Nguyễn-Bỉnh-Liêu 62) Nguyễn-Văn-Luân 63) Nguyễn-Tấn-Luật 64) Nguyễn-Đức-Luỷ 65) Bùi-Đức-Ly 66) Trần-Ngọc-Mạnh 67) Huỳnh-Văn-Mẫn 68) Dương-Minh-Mẫn 69) Nguyễn-Văn-Minh 70) Lê-Tiết-Minh 71) Nguyễn-Văn-Môn 72) Trần-Ngọc-Mỹ 73) Lâm-Hoàng-Nam 74) Nguyễn-Văn-Nghĩa 75) Trần-Ứng-Nguyện 76) Dương-Tâm-Nhă 77) Trần-Công-Nhuận 78) Nguyễn-Minh-Phát 79) Nguyễn-Phước 80) Huỳnh-Văn-Phước 81) Nguyễn-Xuân-Quang 82) Trần-Quân 83) Phạm-Phú-Quới 84) Lê-Ngọc-Quy 85) Đỗ-Văn-Quư 86) Nguyễn-San 87) Nguyễn-Văn-San 88) Trà-Trung-Sanh 89) Thiều-Quang-Tài 90) Ngô-Hữu-Tân 91) Cao-Sĩ-Tấn 92) Nguyễn-Thành-Tạo 93) Dương-Văn-Thắng 94) Phó-Thái-Thiêm 95) Hồ-Sĩ Thư-Thiên 96) Nguyễn-Mạnh-Thông 97) Trần-Thông 98) Đào-Hữu-Thu 99) Phan-Thuận 100) Hoàng-Đ́nh-Tiến 101) Đinh-Quang-Tiến 102) Phan-Văn-Tiếp 103) Trần-Xuân-Tin 104) Lê-Bá-Ṭng 105) Trương-Huỳnh-Triệu 106) Nguyễn-Ngọc-Tŕnh 107) Nguyễn-Gia-Trọng 108) Đặng-Quang-Trung 109) Nguyễn-Văn-Trường 110) Huỳnh-Quốc-Tuấn 111) Phạm-Bá-Tuất 112) Đoàn-Quốc-Uy 113) Lai-Thanh-Văn 114) Hà-Văn-Vinh 115) Hà-Thế-Vinh 116) Nguyễn-Hảo-Vinh 117) Trương-Văn-Vũ 118) Đoàn-Văn-Xinh 119) Vơ-Trường-Xuân 120 Đào-Văn-Diêu 121Bùi-Kim-Hậu 122 Nguyễn-Thế-Thuận 123 Phạm-Xuân-Tŕnh khoá 1/70 124 Bùi-Đức-Thông khoá 6/69
Danh-Sách Khoá 2 SQ/ĐB : 1) Nguyễn-Văn-Ba 2) Nguyễn-Long-Hải 3) Lê-Bảo-Lâm 4) Phạm-Quốc-Nam 5) Lê-Minh-Nhựt 6) Lê-Văn-Sáu 7) Nguyễn-Tân 8) Lê-Thành-Tài 9) Nguyễn-Duy-Thành
Danh-Sách Khoá 3 SQ/ĐB : 1) Lê-Phước-Thiệt 2) Nguyễn-Thành-Trí 3) Hồ-Văn Kỳ-Tường 4) Trần-Minh-Tâm Danh-Sách Khoá 4 SQ/ĐB : 1) Trần-Văn-Công 2) Trần-Bá-Trung Danh-Sách Khoá 5 SQ/ĐB : 1) Phan-Ngọc-Hùng 2) Lê-Đức-Phẩm 3) Hoàng-Như-Phổ 4) Nguyễn-Duy-Tân 5) Hồ-Đắc-Thắng 6) Mai-Vàng
Danh-Sách một số các SQHD từ TVBQG về phục-vụ HQVN:
Nhờ Cô Hiền lay-out lại cho đồng nhất như những Khoá khác. Cảm-ơn Cô
- Khoá 16 (trong Danh-sách Khoá 13 HQNT)
- Khoá 22 (5 SQ.) Nguyễn-Văn-Tưng Phạm-Ngọc-Thạnh Lê-Văn-Kiên Lê-Mộng-Thu Hoàng-Gia-Văn.
- Khoá 23 (10 SQ) Nguyễn-Ngọc-Cầm Nguyễn-Văn-Tạo Trần-Văn-Xuân Trần-Văn-Thiệt Nguyễn-Tấn-Lực Dương-Tuấn-Việt Nguyễn-Mạnh-Thông Trần-Trọng-Thạnh Vũ-Công-Dân Lê-Văn-Hải.
- Khoá 24 (21 SQ.) Nguyễn-Ngọc-San Trương-Ngọc-Minh Lê-Văn-Thanh Vơ-Thiện-Trung Vơ-Long Lưu-Xuân-Phước Dương-Quốc-Khánh Đặng-Đức-Vượng Trần-Văn-Hương Nguyễn-Hoàng-Hùng Đồng-Ngọc-Lâm Vơ-Hỷ-Sơn Nguyễn-Hữu-Phúc Nguyễn-Hoàng-Hải Tân-Kim-Tiếng Phạm-Văn-Tiền Trần-Văn-Huấn Nguyễn-Văn-Nhàn Vũ-Đăng-Khiêm Nguyễn-Đức-Văn Trần-Minh-Chánh
- Khoá 25 (32 SQ) Nguyễn-Anh-Dũng Đỗ-Ngọc-Châu Nguyễn-Huệ Nguyễn-Hữu-Chí Đặng-Văn-Khanh Dương-Bửu Trần-Cao-Vy Lê-Kỳ-Đồng Lê-Văn-Khảm Hà-Tham Đinh-Văn-Chiến Trần-Quốc-Toản Nguyễn-Văn-Linh Vơ-Văn-Xuyến Hoàng-Tấn Vơ-Như-Ư Trần-Văn-Minh Lưu-Vĩnh-Phúc Nguyễn-Văn-Hoà Nguyễn-Đắc-Minh Nguyễn-Đông-Mai Vũ-Hữu-Nghị Cao-Văn-Tài Nguyễn-Trung-Khánh Tô-Khắc-Thoại Đào-Văn-Quư Hồ-Bỉnh-Khiêm Vơ-Hồng-Nhạn Lê-Viết-Phú Nguyễn-Toàn-Tài
- Khoá 26 (22 SQ.) Nguyễn-Ngọc-Anh Đặng-Chính-B́nh Lê-Huỳnh-Hà Bùi-Văn-Hoàng Đào-Quư Hùng Đinh Mạnh-Hùng Diệp Bảo-Khang Trương Thanh-Khoan Trần-Tiết-Liệt Nguyễn-Văn-Lượng Trần-Kế-Lư Đặng-Văn-Nho Nguyễn-Bắc-Ninh Đặng-Ninh-Phương Mạc-Sum Nguyễn-Văn-Tảo Nguyễn-Văn-Tạo Nguyễn-Thanh-Tâm Huỳnh-Ngọc-Trung Trần-Quang-Tuấn Lê-Tư Trần-Văn-Vinh
- Khoá 27 (24 SQ.) Nguyễn-Văn-An Phạm-Bốn Nguyễn-Bông Nguyễn-Văn-Châu Phạm-Đăng-Hải Lê-Mạnh-Kha Nguyễn-Văn-Lạ Nguyễn-Văn-Lễ Lê-Quang-Liêm Bùi-Tiến-Mạnh Nguyễn-Văn-Mọi Lương-Văn-Nh́ Trần-Đức-Nhuận Nguyễn-Duy-Niên Trần-Văn-Niếu Thân-Phi Lương Đ́nh Phước Nguyễn-Chí-Phương Nguyễn-Đức-Phương Trần-Trí-Quốc Phạm-Ngọc-Tân Nguyễn-Văn-Tấn Nguyễn-Văn-Trọng
Danh-Sách SQ/ĐB chưa xác-định được khoá Hải-Quân: 1) Trần-Hùng-Cận 2) Chu-Trần-Căn 3) Trần-Văn-Cang 4) Trần-Ngọc-Châu 5) Nguyễn-Ngọc-Chót 6) Lê-Hữu-Đáng 7) Chương-Đê 8) Phạm-Ngọc-Đính 9) Nguyễn-Đo 10) Lê-Văn-Đôn 11) Nguyễn-Văn-Đồng 12) Lai-Hải-Đường 13) Trần-Trung-Dụ 14) Lê-Chí-Hân 15) Tôn-Cẩm-Hău 16) Lê-Kiếm-Hiệp 17) Nguyễn-Lê-Hinh 18) Nguyễn-Viết-Hoàng 19) Hồ-Tấn-Hùng 20) Nguyễn-Văn-Huỳnh 21) Trần-Kiều 22) Nguyễn-Trọng-Lâm 23) Lưu-Văn-Lê 24) Dương-Hữu-Lễ 25) Phan-Đ́nh-Linh 26) Nguyễn-Hữu-Lợi 27) Vơ-Văn-Màng 28) Phạm-Mừng 29) Vĩnh-Nam 30) Phạm-Văn-Ngâu 31) Trần-Thành-Nghiệp 32) Phạm-Minh-Nhựt 33) Nghiêm-Văn-Nhịn 34) Đặng-Văn-Nhứt 35) Nguyễn-Văn-Định 36) Trần-Ngọc-On 37) Nguyễn-Đức-Phổ 38) Vũ-Văn-Phương 39) Phạm-Ngọc-Phụng 40) Vũ-Văn-Phú 41) Huỳnh-Hữu-Phúc 42) Vơ-Hồng-Phúc 43) Vơ-Linh-Phúc 44) Trần-Văn-Quan 45) Lê-Văn-Quá 46) Kha-Tu-Quốc 47) Văn-Nguyễn-Sở 48) Phạm-Văn-Sử 49) Lê-Văn-Tân 50) Lưu-Văn-Tân 51) Nguyễn-Thành-Tạo 52) Phạm-Phước-Tề 53) Lê-Chiến-Thắng 54) Vương-B́nh-Thanh 55) Nguyễn-Văn-Thi 56) Trần-Thi 57) Nguyễn-Đắc-Thiện 58) Tống-Viết-Thuật 59) Lưu-Tiến 60) Lê-Quang-Tiệp 61) Nguyễn-Văn-Toàn 62) Nguyễn-Xuân-Tịnh 63) Ngô-Thành-Trí 64) Nguyễn-Văn-Triệu 65) Nguyễn-Đ́nh-Trực 66) Song-Trịnh 67) Tô-Văn-Tuấn 68) Lê-Thành-Tuyên 69) Đinh-Quang-Viên 70) Dương-Văn-Vinh 71) Lê-Văn-Vinh 72) Vũ-Thế-Vinh (LDNN) 73) Nguyễn-Văn-Vơ 74) Lê-Thanh-Xuân
Sơ-Lược Hải-Sử Nước Ta: Hải-Quân và Nếp Sống Thuỷ-sinh trong Ḍng Sinh-mệnh Dân-tộc
Sơ-Lược Hải-Sử Nước Ta Hải-Quân và nếp sống Thuỷ-sinh trong ḍng sinh-mệnh dân-tộc
Hải-Sử dân ta dài như trường-giang, rộng tựa đại-dương, khởi đi từ hàng mấy chục ngàn năm về trước trên vùng Đất và Nước này. Hải-Sử mang Hồn-Nước, chẳng có giai-cấp đấu-tranh, không cần định-hướng xă-hội chủ-nghĩa, cũng bất-cần nghĩa-vụ quốc-tế vô-sản hay thế-giới đại-đồng, lại chưa từng phí-phạm xương máu đồng-bào. Tự-Do như Nước! Cũng như các đồng-ngũ trong QLVNCH, cho dù bị “găy gánh giữa đường”, người lính thuỷ VNCH đă góp công cùng các quân-chủng bạn cố-gắng ngăn làn sóng đỏ, bảo-vệ tự-do cho người dân Miền-Nam. Chúng tôi tin-tưởng mănh-liệt Hải-Quân VNCH thực-sự là truyền-nhân chính-thống giữ-ǵn đúng-đắn truyền-thống ngàn đời của Thuỷ-Quân giống ṇi Hồng-Lạc dựng nước, giữ nước, chống xâm-lăng trải qua mọi triều-dại từ Hùng-Vương qua Đinh, Lê, Lư, Trần, Lê, Nguyễn… Vũ-Hữu-San
Sử-kư ở nước ta Cụ Lệ-thần Trần-Trọng-Kim viết trong phần Tựa của cuốn "Việt-Nam Sử-Lược" quyển 1 như sau: "Chủ-đích (của việc ghi chép Sử) là để làm một cái gương chung-cổ cho người cả nước được đời-đời soi vào đấy mà biết cái sinh-hoạt của người trước đă phải lao-tâm lao-lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa-vị ở dưới bóng mặt trời này. Người trong nước có thông-hiểu những sự-tích nước ḿnh mới có ḷng yêu nước yêu nhà, mới biết cố-gắng học-hành, hết sức làm-lụng, để vun-đắp thêm vào cái nền xă-hội của tiên-tổ đă xây-dựng nên mà để lại cho ḿnh.."546 Chủ-đích của vị Sử-gia nổi-danh họ Trần cũng là niềm mong-ước của mọi người chúng ta khi đọc Việt-Sử. Tuy thế người lính thuỷ hay người thường-dân hành-thuỷ hay cả những người yêu sông-nước, biển-cả - muốn thông-hiểu sự-tích nước ḿnh, dân ḿnh liên-hệ ra sao với sinh-hoạt nước - lại không được cái may-mắn như vậy. Cầm cuốn Sử nước ta lên mà xem cho hết, người đọc chỉ thấy các sinh-hoạt quá-khứ của tiền-nhân ở trên đất, trên bờ; tương-tự như trong những cuốn sách sử-kư của các dân-tộc khác nằm trong lục-địa. Sử-gia Trần-Trọng-Kim nhận-xét về chuyện "Sử nước ta được chép theo lối sử Tàu" một cách xác-đáng như sau: "Cái lối làm sử của ta theo lối biên-niên của Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện ǵ quan-trọng th́ nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải-thích cái gốc-ngọn và sự liên-can việc ấy với việc khác là thế nào." Có lẽ v́ thế, sinh-hoạt thực-sự của đại-đa-số dân-chúng không được viết đến trong các sách Việt-sử trước đây.
Chân-dung Sử-gia Trần-Trọng-Kim. Nói ví von cách khác, Sử nước ta rất "khô", mà có lẽ các sách sử của các nước khác trên thế-giới cũng “khô” như vậy chăng?! Nhà sử-học Donald Worster đă một lần chê-trách các nhà viết sử. Chúng ta cũng có thể bắt-chước Ông mà phát-biểu một câu "nhẹ-nhàng" như sau: "Viết sử mà không có nước ở trong, đó là một sự thiếu-sót lớn. Kinh-nghiệm nhân-loại (và đặc-biệt là của người "nước" ta) đâu có khô khan “hạn-hán” quá đến như vậy!"547
Chỗ đứng của Thuỷ-Quân Việt-Nam trong Lịch-sử Giới học-giả Việt-Nam thường ít khi bàn đến các sinh-hoạt hàng-hải. Các sử-gia cũng hay ghi chép quân-sử nước ta hao-hao giống như sử Tàu, họ thường kể chuyện bộ-binh với gươm-giáo, ngựa-xe, sa-trường, thành-quách.. Đặc-tính tác-chiến bất-ngờ, lưu-động-tính cao, hoả-lực hùng-hậu cùng các yếu-tố áp-đảo quyết-định chiến-trường khác của thuỷ-quân chưa bao-giờ được nhắc đến. Đại-thắng Bạch-Đằng, v́ là biến-cố quyết-định phải kể-tới, nhưng phần diễn-tả thật ngắn-ngủi. Cho đến cuộc đời lẫy-lừng của Đinh-Bộ-Lĩnh lại được sử-sách diễn-tả như một "nhà Tướng ngồi trên lưng ngựa"548. Cách ghi chép chính-sử là như vậy. Tuy-nhiên may-mắn hơn cho dân ta, những sinh-hoạt thuỷ-sinh được kể lại khá nhiều qua dă-sử, cổ-tích và thần-thoại.549 Ngoài ra trong một số sách cổ-văn hiếm-hoi, ta cũng thấy người xưa ghi-nhận được những sinh-hoạt liên-hệ đến môi-trường Nước. Sách Tàu cũng nói "Người Việt-cổ sinh-hoạt dưới nước nhiều hơn ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ thân dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tu-lự, thuyền có lầu tức Lâu-thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua-thuyền550... Theo Hoài-Nam-Vương Lưu-An đời Hán, th́ người Việt rất thạo thuỷ-chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xâm ḿnh, đóng khố ngắn để tiện bơi-lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền."551
Địa-bàn người Việt-cổ sinh-hoạt dưới nước nhiều hơn ở trên cạn.
Hồn "Nước" dựng nước Việt-Nam Biển-Đông bao quanh một nửa đất-nước chúng ta. Theo Bernard Philippe Groslier: “biển-cả đă gợi ra trong trí-óc người dân Đông-Dương cái ấn-tượng về nguồn-gốc của muôn loài, một tâm-tưởng đến cả thế-giới trước khi khai-thiên lập-địa và cũng là nơi quê-hương cho người chết (tổ-tiên) trở về.”552 Mỗi khi đề-cập đến đất-nước quê-hương, mọi người Việt chúng ta đều có một ư-thức sâu-xa về "hồn nước linh-thiêng". Một học-giả ngoại-quốc, Tiến-sĩ Keith Weller Taylor có lẽ là người đầu-tiên nhận ra điều này. Ông phân-tích chính-xác nhiều điều về tinh-thần tự-chủ của dân Việt-Nam rất đúng là liên-hệ tới Nước. Taylor cho rằng: "Nước (Water) có hồn nước (Aquatic Spirit) linh-thiêng, có năng-lực tạo-dựng nên dân-tộc, nên nước Việt-Nam chính-thống..." Chúng tôi rất thích đoạn văn của Ông, lời viết ngắn-gọn nhưng ư-tứ mạnh-mẽ uyên-bác, khó dịch sao cho chính-xác được. Vậy xin chép lại nguyên-văn như sau: "The idea of an aquatic spirit's being the source of political power and legitimacy, which attended the formation of the Vietnamese people in prehistoric times, is the earliest hint of the concept of the Vietnamese as a distinct and self-conscious people".553 Hải-Sử, Nơi chất chứa những Truyền-thống cực kỳ Quan-yếu của Dân-tộc Tại các nước Âu-Mỹ, Hải-sử (Maritime History) là một ngành khoa-học được khai-sinh từ lâu. Nhưng ở xứ ta, danh-từ "Hải-sử" ít khi được nghe nói tới, và cũng chưa có một cuốn Sử nào ghi chép thuần các sinh-hoạt thuỷ-sinh. Tuy vậy nếu xét cho kỹ t́nh-trạng môi-sinh cổ-thời, chúng ta thấy rằng Việt-Nam cần-thiết phải có Hải-Sử. Đó là ngành khoa-học cần-thiết cho sự sưu-tầm, nghiên-cứu, thống-kê các sinh-hoạt dân-tộc trong môi-trường nước. Đặc-biệt cũng nên ghi chép những thành-tích lẫy-lừng và truyền-thống “Nước” cực-kỳ quan-yếu của tiền-nhân. Một phần của bài viết, phần "Tiền Hải-Sử" Việt-Nam mà chúng tôi tŕnh-bày tiếp đây là những kiến-thức mới-mẻ. Nhờ tiến-bộ trong nhiều ngành khoa-học, ngày nay nhân-loại hiểu-biết nhiều hơn về quá-khứ. Tuy một số chi-tiết nhỏ c̣n là giả-thuyết, nhưng nói một cách tổng-quát, có nhiều nét độc-đáo về sinh-hoạt nước của tiền-nhân chúng ta đáng lưu-tâm và đă được nhiều học-giả quốc-tế đổ-xô đến nghiên-cứu. Không ở một nơi nào khác trên địa-cầu, Khoa Tiền-Hải-sử lại có nhiều vấn-đề cần t́m-hiểu như tại khu-vực Biển-Đông. Riêng đối với dân-tộc Việt-Nam, Tiền-Hải-sử phải được coi là một ngành học quan-trọng v́ nhiều lư-do sau đây: - Truyền-thống hàng-hải lâu đời của dân-tộc hiện-diện trong mọi sinh-hoạt dân-tộc. - Bờ-biển Việt-Nam và Hoa-Nam từ xưa đến nay chính là nơi quy-tụ nhiều kiểu ghe-thuyền phong-phú hơn bất-cứ nơi nào khác trên thế-giới. Kiến-trúc tàu-bè Việt-Nam rất độc-đáo và đă đạt đến tŕnh-độ kỹ-thuật cao ngay từ cổ-thời. Clinton Edwards cho rằng những Người Biển (Orang Laut)554 ở Đông-Nam-Á thuộc những bộ-lạc Hải-du (Sea nomads) phát-triển truyền-thống hàng-hải trước khi chính họ mở-mang nông-nghiệp.555 - Những nền văn-minh "nước" từ Hoà-B́nh đến Đông-Sơn xuất-hiện liên-tục trong tiến-tŕnh sinh-hoạt văn-hoá của người Việt-Nam. Nền văn-minh Hoà-B́nh đă tiến-triển trong khoảng thời-gian 9,000-5,600 năm TTL., chuyển sang Bắc-Sơn 8,300-5,900 năm TTL., liên-tục qua nhiều nền văn-minh; sau này tới thời Đồ Đồng của Phùng-Nguyên 3,000-1500 năm TTL., rồi Đông-Sơn 500 năm TTL., rơ-ràng nhuốm màu-sắc hàng-hải."556 - Theo Bernard Philippe Groslier, và dân-cư Đông-Dương (trong đó đại-biểu chính là Việt-Nam) đă đóng vai-tṛ quan-trọng trong vùng Đông-Nam-Á. Cho dù Java có thể là nơi con người xuất-hiện trước hết, nhưng Đông-Dương luôn-luôn là cái kho chứa nhân-lực mà từ đó gửi đi khai-hoá khắp vùng.557 - Wilhelm G. Solheim II viết rằng: “Ảnh-hưởng của văn-minh Hoà-B́nh tạo-lập lên các nền văn-minh Yangshao (Ngưỡng-Thiều, miền bắc Trung-Hoa.) và cả nền văn-minh Lungshan (Long-Sơn) cũng từ phía Nam đem lại.”558 Bài viết này nằm trong chủ-đề "Hải-Sử", chúng tôi xin tŕnh-bày về những sinh-hoạt thuỷ-sinh của dân ta trên sông-nước (thuỷ), Biển-Đông (hải) và ngoài Đại-(dương). Ngoài ra, hoạt-động Thuỷ / Hải-quân / Tuần-dương-quân được đặc-biệt kể đến như là những thành-tích-cực-kỳ quan-trọng trong ḍng sinh-mệnh của dân-tộc. Những Thuyền-nhân Đầu-tiên của Nhân-loại Wilhelm G. Solheim II như vừa tŕnh-bày ở trên, c̣n đi xa hơn nữa về di-dân và hàng-hải. Ông cho rằng Đông-Nam-Á thời-cổ chính là nơi phát-sinh những đường hàng-hải giao-tiếp với khắp các nơi ở dọc bờ-biển Á-Châu, Âu-Châu, Phi-Châu, Đại-Dương-Châu và ở cả Mỹ-Châu. Solheim lư-luận rằng chỉ có sự-kiện Đông-Nam-Á giữ vai-tṛ trung-tâm phân-tán như trục một cái bánh xe toả ra khắp phía, người ta mới giải-thích được hiện-tượng lịch-sử là tại sao các chủng-tộc khác-biệt của loài người sống xa-cách nhau trên khắp thế-giới lại có nhiều sự tương-đồng giữa những sinh-hoạt văn-hoá như vậy.559 Ngoài ra, chúng ta phải kể đến một vấn-đề thật cổ-kính về thời-gian mà ít ai tưởng-tượng nổi. Phải có một thứ "văn-minh nước" nào đó đă xuất-hiện từ lâu tại cac vùng đồng-bằng Sunda, Nanhailand. Kỹ-thuật thuyền-bè của dân-cư Biển-Đông đủ tiến-bộ để giúp di-dân đường biển560 từ Đông-Nam-Á sang Úc-Châu từ 60,000 năm trước.561 Chứng-cớ hiển-nhiên này không những đă được những nhà Úc-Châu-học công-nhận, mà các khoa-học-gia mọi ngành khoa-học khác cũng đă đồng-ư.
Từ “Địa-Đàng Phi-Châu” loài người qua Trung-Đông, Nam-Ấn rồi đến Đông-Nam-Á. Họ là những di-dân duyên-hải hay đường biển (sau cùng tới Úc) sớm hơn mọi vùng khác. Các bản-đồ theo vết Y-Chromosomes chứng-minh điều này.562
Tiền-nhân chúng ta sống ngoài biển thời Băng Đá Trong khoảng 60,000 năm cho đến nay, Trái Đất trải qua nhiều giai-đoạn nóng và lạnh chen kẽ nhau. Mực nước biển đă dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai-biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18,000 năm, diện-tích Biển-Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Khi băng đá hai cực địa-cầu tan-ră th́ nước biển dâng lên nhanh. Cho đến khoảng 4,000 năm trước Tây-lịch (TTL), hàng trăm ngàn dậm vuông lục-địa đă bị ngập dưới Biển-Đông. V́ diện-tích đất-đai bị suy-giảm nên mật-độ dân-số gia-tăng. Nhiều sự tiếp-xúc, trao đổi, va chạm giữa những giống người khác nhau đă xảy ra. Lúc xưa dân-cư sống rải-rác khắp nơi trong vùng đất thấp rộng-lớn Sunda, nay cùng gặp nhau trong một môi-trường sinh-hoạt mới vùng đồi núi. Tiến-bộ khởi-sự từ đó. Theo ư-kiến của một số nhà khảo-cổ, khi nước ngập nơi cư-trú, dân-chúng từ vùng Sunda (kể cả Hoàng-Sa, Trường-Sa) đă chạy lên các vùng cao.563 Học-giả Thái-Lan Sumet Jumsai cho hay vào khoảng 16,000 năm trước đây, khi mực nước biển dâng lên nhanh th́ số lớn dân-cư đă di-chuyển về khu-vực phía Bắc của Biển-Đông564. Có lẽ v́ nhờ tập-trung nhiều nhân-lực, văn-minh Hoà-B́nh bộc-phát. Peter Bellwood tường-tŕnh công-tŕnh chinh-phục Thái-B́nh-Dương của dân-cư Hoà-B́nh (Hoabinhians) trong cuốn sách nổi-danh của ông, cuốn "Man's Conquest of the Pacific"565 Chester Norman cho rằng vịnh Bắc-phần và vịnh Thái-Lan mà lúc trước là hai vùng đồng-bằng trũng và cạn, nay biến thành hai vịnh biển mới. Văn-minh Hoà-B́nh được tạo-dựng trong thời-gian thềm lục-địa Sunda bị ngập nước. Người ta phải di-chuyển đi khai-phá đồng-bằng. Yếu-tố quan-trọng nhất của đà phát-triển là sự ra đời của các giống cây cho hạt. Những loại ngũ-cốc thuần-hoá sau này thích-hợp cho ruộng nước. Khoảng 5,500 năm trước, cây lúa nước566 đă được trồng trọt.567
Bản-đồ ghi-nhận những đường di-dân “Tây-tiến” từ Nanhailand ngoài Biển Đông vào đất liền trong thời Hậu Băng-Đá568: 1-Dân di-cư đông-đảo nhất theo Hồng-Hà. 2-Theo sông Mekong. 3-Theo sông Chao Phraya. 4-Theo các ḍng sông cổ xưa từ vùng biển Bali Sea. 5-Theo Tây-giang. 6-Theo Dương-Tử.
Sinh-hoạt Biển-Đông thời hậu Băng-Đá Theo những ghi-nhận của ngành Địa-Chất-học, vào thời xa-xưa, khoảng 16,000 năm trước, nước đại-dương dâng-cao với đà gia-tăng nhanh nhất. Tại vùng Biển-Đông vào thời Hậu Băng-Đá, sự thay-đổi của địa-thế rất mănh-liệt. Những thay-đổi địa-thế đă lôi-cuốn theo những thay-đổi lớn về môi-sinh con người. Sự tiến-bộ vượt bực của văn-hoá người Việt (Yüeh) trong bối-cảnh bể dâu đó đă được William Meacham nghiên-cứu và tŕnh-bày trong một bài viết rất nổi-tiếng của Ông, nhan-đề "Origins and Development of the Yüeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia".569 Một số kết-quả khảo-cứu trực-tiếp liên-hệ đến sinh-hoạt thuỷ-sinh như sau: - V́ nguồn-gốc và địa-bàn riêng-biệt, sinh-hoạt người Việt ở duyên-hải khác-biệt với người Tàu ở Trung-thổ. Không thể nào v́ thấy một vài ảnh-hưởng văn-hoá giống nhau giữa Tàu/Việt mà người ta có thể coi dân Bách-Việt như một thứ dân Tàu được. Nhiều chứng-cớ cho hay là loài người đă có mặt trên Sunda Land và Nanhai Land mười mấy ngàn năm trước. Những đồng-bằng thấp, được gọi tên chung là Sunda Land đó, nằm ngoài Biển-Đông ngày nay đă hoàn-toàn bị ngập nước. Những dân-cư thời đó chính là tiền-nhân người (Bách-) Việt sau này. Họ sinh-sống bằng cách thu-nhặt hải-sản như tôm cua, hào nghêu..., săn bắt tôm cá ngoài hồ, ao, sông, biển. Trong khoảng từ 15,000 năm đến 4,000 năm trước đây, nước biển dâng lên570, làm thay-đổi môi-trường sinh-hoạt và tạo nên sự dồn ép mật-độ dân-số. - Văn-minh Hoà-B́nh xuất-hiện 11,000-7,600 trước đây, văn-minh Bắc-Sơn, khoảng 8,300-5,900 năm trước Tây-Lịch (TTL.). - Bè tre và có thể cả loại ghe-thuyền sơ-đẳng được dùng khắp nơi, 10,000 năm TTL. Người Việt và những Phát-minh Thiết-yếu đóng-góp cho Nhân-loại Trái đất chúng ta đang ở có tới gần ba phần tư bề mặt che phủ bởi nước. Các nhà văn-minh-học đều đồng-ư rằng văn-minh loài người tiến-triển được là nhờ sự chuyển-vận. Các sách Bách-Khoa Từ-Điển đồng-ư rằng cho đến ngày nay, chuyển-vận đường thuỷ vẫn quan-trọng hơn đường-bộ và đường hàng-không. Nếu so với sự phát-triển đường-biển th́ "chuyển-vận trên đất-liền phát-triển với một mức-độ chậm-chạp hơn nhiều... Sự chuyển-vận đường-bộ được cải-thiện rất ít cho măi tới năm 1825, khi kỹ-sư người Anh George Stephenson áp-dụng máy hơi-nước để chạy một đầu máy xe-lửa...571
H́nh-ảnh buổi khánh-thành đường xe lửa ở Anh-quốc năm 1825.
Sinh-hoạt trên địa-bàn "Nước", dân Việt là tác-giả hầu-hết những phát-minh thiết-yếu về đường thuỷ. Bè, thuyền độc-mộc, mái-chèo, cánh-buồm, bánh-lái, thuyền nhiều thân (outriggers) cây xiếm... là những công-tŕnh sáng-tạo mà tiền-nhân ta đóng-góp cho sự tiến-bộ của nhân-loại. Về đẩy thuyền (propulsion), kể từ việc dùng bè thả trôi cho đến cả kỹ-thuật cao như việc đi ngược gió hay lái thuyền tự-động cũng đều do tiền-nhân chúng ta sáng-tạo. Thành-quả đáng kể nhất có lẽ là cách sử-dụng phối-hợp tài-t́nh hai hệ-thống buồm và xiếm. Nhờ vậy, một số loại ghe-thuyền ở Việt-Nam có thể tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa-đổi tay lái.572 Người Việt "vượt" từ Ngư-nghiệp sang thẳng Nông-nghiệp Sau khi duyệt-xét lại những biến-chuyển về địa-thế bờ Biển-Đông-Á vào khoảng thời-gian từ 15,000 năm TTL. đến 4,000 TTL., nhà địa-lư-học Carl Sauer đi đến kết-luận: Đông-Nam-Á là nơi khởi-sự nông-nghiệp. Theo một số học-giả Việt-Nam, danh-tự "Việt" có nghĩa là tiến lên, vượt trội lên... Tính kiên-quyết của dân ta vượt mọi khó-khăn trở-ngại biểu-lộ ngay từ trong những ngày đầu sinh-hoạt. Nhà địa-lư-học Carl Sauer đă đề-cao tinh-thần tiến-bộ của dân-cư giống Việt (Yüeh) vào giai-đoạn khởi-nguyên nền văn-hoá Hoà-B́nh ở vùng đất "Sunda -Hoà B́nh" như sau: "Mực nước biển dâng-cao làm tăng thêm nhịp bồi-đắp phù-sa lên những khu thung-lũng duyên-hà trong khi các vùng đất thấp tiếp-tục bị ngập-lụt. Dân-cư khi xưa ở rải-rác th́ lúc này thu lại thành các vùng cư-trú dọc theo những nguồn-nước... Một thế-giới mới đă thành-h́nh, sự thay-đổi môi-trường vật-lư địa-dư đă trở-thành cơ-hội thuận-tiện tối-đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn-rỗi và nhờ trí-óc ṭ-ṃ để t́m thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thời-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp."573 Người Việt với Nông-nghiệp và Thương-Mại Trong sinh-hoạt nông-nghiệp, người ta thường chia người Đông-Nam-Á làm hai loại: dân miền cao và dân miền xuôi.574 Dân miền cao trồng các loại hoa-màu hợp cho vùng đất khô-ráo. Dân miền xuôi canh-tác lúa nước, cần dẫn nước vào ruộng. Phải cần kỹ-thuật cao và có tổ-chức điều-hành tốt th́ số-lượng thực-phẩm sản-xuất mới gia-tăng. Xă-hội miền xuôi lại có thể phân-biệt thành hai thành-phần: là nông-dân và thương-gia. Đặc-điểm sinh-hoạt này được Donald G. McCloud tŕnh-bày. Ông viết rằng: Dân-cư đồng-bằng có hai nghề canh-nông và thương-mại, tức là cầy-bừa ruộng-nương và buôn-bán viễn-dương. Nhóm hải-hành viễn-dương trao-đổi hàng-hoá có nhiều cơ-hội trở nên giàu-sang và thường nắm giữ thế-lực chính-trị.575 Nếu thế trong xă-hội Việt ngày xưa, rất có thể chỉ gồm hai giới Nông và Thương là chính. Ưu-thế của Thương-gia, khác với tin-tưởng thông-thường, nắm quyền-lực ngay trước cả khi vương-quyền thành-h́nh.
Dân ta canh-tác trên ruộng ngập nước.
Sau khi xem-xét t́nh-trạng Đông-Nam-Á từ thế-kỷ thứ 9 đến thứ 14, một số các nhà nghiên-cứu đă hợp-biên một bộ sách nhan-đề: "Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries". Những báo-cáo của nhóm này cho thấy xă-hội Đại-Việt vẫn c̣n mang nhiều nét văn-hoá địa-phương Đông-Nam-Á hơn là văn-hoá Trung-Hoa.576 Hệ-thống xă-hội "Sĩ Nông Công Thương" mới chỉ thành-h́nh khi nước ta nhiễm cái ảnh-hưởng văn-hoá Trung-Hoa một cách nặng-nề mà thôi. Người Tàu lúc xưa rất run-sợ trước những chuyến hải-hành xuyên-dương như: phải đi tàu Man, sợ cướp, sợ bị giết, sợ chết-đuối, sợ xa nhà nhiều năm577... Trong khi đó, sách sử Trung-Hoa ghi chép nhiều chi-tiết về hoạt-động thương mại của người Bách-Việt. Sinh-hoạt của những thương-gia Việt giầu có kiểu "phú-gia địch-quốc" nhờ thương-mại viễn-duyên được ghi lại khá nhiều. Theo học-giả Sterling Seagrave nói trong cuốn sách "Lords of the Rim: The Invisible Empire of the Overseas Chinese" th́ những người Trung-Hoa trong nước và hải-ngoại giàu-có ngày nay là nhờ được thừa-hưởng truyền-thống hải-thương từ người Việt thời chiến-quốc. Seagrave không ngại-ngần, đă sử-dụng những "chữ lớn" như Roots (gốc rễ), như Children of Yüeh (con cháu người Việt) để đề-cập đến nhiều nhân-vật kim cổ giàu-có sang-trọng nổi-danh như vậy.578
Truyền-thống hải-thương của người Việt cổ được kể ra trong cuốn sách “Lords of the Rim”.
Môi-trường Độc-nhất thời Băng-Đá tạo Sinh-hoạt Hàng-hải Vùng Đông-Nam-Á nói chung và vùng Vịnh Bắc-Việt nói riêng là nơi duy-nhất trên thế-giới đă trải qua nhiều cuộc biến-chuyển mạnh-mẽ về địa-lư và nhân-văn đặc-biệt ảnh-hưởng bởi môi-trường nước. Một số nhà nghiên-cứu cho rằng sự thay-đổi về địa-lư Biển-Đông không những chỉ làm thay-đổi môi-trường sinh-sống của sinh, thực-vật trên đất, dưới biển trong vùng mà c̣n tạo-dựng lên cả một cuộc biến-đổi to-lớn làm phát-sinh những nền văn-minh quan-trọng về nông-ngư-nghiệp cùng hàng-hải có thể gọi là tiền-tiến của nhân-loại. Tài-liệu mới nhất là cuốn “Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia” của Bác-Sĩ Stephen Oppenheimer, xuất-bản tại Anh-Quốc năm 1999. Dựa trên những kiến-thức cập nhật mới đây của các ngành khoa-học như di-truyền-học, nhân-chủng-học, thần-thoại, văn-học dân-gian, ngôn-ngữ-học, hải-dương-học, khảo-cổ-học... để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên-cứu Đông-Nam-Á học và khảo-cổ-học phải ngẩn-ngơ... Có người c̣n cho rằng đây là một quyển sách quan-trọng vào bậc nhất trong ngành Đông-Nam-Á học!579 Chính tác-giả Oppenheimer đă viết: "Lư-thuyết mà tôi tŕnh-bày trong cuốn sách này lần đầu-tiên, đặt Đông-Nam-Á vào trung-tâm của các nguồn-gốc văn-hoá và văn-minh. Tôi cho rằng nhiều người đă phải di-tản khỏi vùng duyên-hải của họ ở phương Đông v́ lụt-lội. Những người tị-nạn này từ đó vun-đắp những nền văn-minh vĩ đại ở phương Tây." Đă có nhiều nhà khoa-học cố-gắng giải-thích sự h́nh-thành nền văn-hoá hàng-hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông-Nam-Á nói chung. Những sắc-thái đặc-thù này khác-biệt hẳn với sắc-thái văn-hoá hoàn-toàn lục-địa của Trung-Hoa. Địa-bàn Cư-trú của Tổ-tiên và Nhu-cầu của Quân Thuỷ Địa-bàn cư-trú chủ-yếu của tổ-tiên ta là khu-vực mới được phù-sa sông Hồng, sông Mă bồi-đắp. Vùng đất này nằm giữa một bên là núi cao, một bên là biển-cả. Địa-bàn sinh-hoạt thời-cổ là nơi giao-tiếp giữa hai môi-trường: núi và biển. Có hai đặc-điểm nổi-bật lên như sau: - Hệ-thống sông-ng̣i thoát nước dày-đặc, có h́nh-dạng nan-quạt ở đầu thượng-nguồn. - Mưa lũ hàng năm tràn-lan khắp nơi. Nước chảy đến mấy chỗ-trũng, tạo ra vô-số đầm-lầy, hồ-ao chi-chít. Địa-h́nh tạo nên một 'thế-giới nước' tác-động trực-tiếp đến cuộc sống hàng ngày của người Việt cổ. Các di-tích khảo-cổ cho chúng ta biết rằng tất cả các địa-điểm cư-trú đều nằm trên các g̣-băi. Có thể nói nước bao-quanh làng xă Việt-Nam. Nước tạo nên biên-giới thiên-nhiên chia cắt từng vùng đất. Nước là môi-trường sinh-sống của người Việt-Nam.
Nước bao quanh làng xă Việt-Nam. Từ lâu, khái-niệm về quê-hương, xứ-sở, về lănh-thổ, và cả Tổ-Quốc nữa đă được tổ-tiên ta thể-hiện bằng tên của môi-trường gắn chặt với cuộc sống của ḿnh: Nước! Phương-tiện di-chuyển chính-yếu của người dân Việt thời-cổ suốt mấy chục ngàn năm là thuyền-bè. Ngay khi một tập-hợp vơ-trang nào đó được h́nh-thành, thuyền-bè đương-nhiên trở nên phương-tiện đầu-tiên và căn-bản của các cuộc hành-quân. Những trang-bị trên thuyền lập-tức biến thành khí-cụ cơ-hữu của quân thuỷ. Những người lính Việt đầu-tiên của quân-ngũ không chiến-đấu ngoài sa-trường, xung-thành đoạt-lũy. Nhiệm-vụ của họ không mang nặng mục-tiêu bảo-vệ "diện-địa". Những quân-nhân này nằm ḷng phần trọng-trách ǵn-giữ an-ninh những tuyến "đường thuỷ" nhiều hơn. Từ-ngữ "giữ nước" có thể đă ghi lại dấu vết rằng "các người lính đầu-tiên phục-vụ dưới cờ nước ta là những người lính thuỷ". Có nhiều lư-lẽ tạo nên sự tin-tưởng rằng Thuỷ-quân của ta ra đời trước Lục-quân. Huyền-sử "Nước" và Thần-thoại Dân-tộc Các truyền-thuyết xưa nhất của dân-tộc đều là những truyện cổ-tích mà nội-dung có gốc rễ sâu-đậm về hàng-hải. Xin lược-kê một số nhỏ như sau: - Dân ta khởi đi từ Động-Đ́nh-Hồ, ḍng-dơi Long-Quân với các vua Kinh-Dương-Vương, Lạc-Long-Quân. - Bọc trăm trứng sinh trăm con: 50 con lên núi, 50 con xuống biển. - Người Văn-Lang làm nghề chài lưới, vua bắt dân lấy chàm vẽ ḿnh để thuồng-luồng tưởng rằng đồng-loại mà không làm hại. - Thuyền của dân ta vẽ hai con mắt, có ư để cho các thuỷ-quái ở sông, ở bể không quấy-nhiễu đến. - Truyện Thuỷ-tinh đánh nhau với Sơn-Tinh... Huyền-sử nước ta đưa ra nhiều h́nh-ảnh về những chuyến di-dân từ Biển-Đông vào cư-trú dọc duyên-hải, chẳng hạn như các chuyện sau đây: Truyện Lạc-Long-Quân kể rằng: Ông vua Rồng này có quê Mẹ từ ngoài biển-cả đi vào, giúp dân trừ yêu-quái trên đất-liền, dạy dân cách trồng lúa để ăn, may quần-áo để mặc. Sau này dù Lạc-Long-Quân đă bắt cóc và lấy Âu-Cơ thuộc giống Tiên làm vợ, nhưng ông thường trở về lại Thuỷ-Cung. Huyền-thoại Sơn-tinh Thuỷ-tinh phù-hợp với những khám-phá mới đây về nguồn-gốc cư-dân Đông-Nam-Á. Người Việt và các dân Bách-Việt khác từ Biển-Đông bị dồn vào đất-liền khi nước biển dâng lên vào thời Hậu Băng-Đá từ hàng chục ngàn năm trước. Thần-thoại "Ông Thần Độc-Cước" vùng Sầm-Sơn, Thanh-Hoá cũng vậy. Vị thần loại-trừ bọn cướp từ biển vào, dẹp toán giặc từ núi xuống, giữ cho dân vùng duyên-hải được yên-ổn làm ăn.
Lực-lượng của Thuỷ-Tinh gồm binh tôm, tướng cá đang xông lên, đánh nhau với Sơn-Tinh Danh-hiệu của Kinh-Dương-Vương
Các vùng đất Kinh, Dương và Giao580, các châu thuộc địa-bàn của giống Giao-Chỉ chúng ta. Bàn về danh-hiệu của Kinh-Dương-Vương và Lạc-Long Quân ta không thể quên chữ Kinh tức là đất Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa-bàn của giống Giao-Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc-Long Quân cũng vậy. Danh-hiệu này chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc-Long cũng như Kinh-Dương-Vương là vua miền châu Kinh, châu Dương. Lạc-Long-Quân lấy Âu-Cơ tức nàng con gái đất Âu. Chữ Âu là tên một con sông nước Việt (Chiết-Giang) ngày nay vẫn c̣n. Nó nhắc chữ Âu-Lạc, Âu-Việt, Đông-Âu, Tây-Âu... Tất cả địa-đanh đều ở miền biển, hay duyên-hải chằng-chịt nhiều sông-hồ. Để pḥng-thủ Kinh và Dương, vị “Tổng-Tư-Lệnh” Lạc-Long-Quân tất phải huấn-luyện binh-sĩ về hải và thuỷ-chiến.
H́nh-bóng Thần-kỳ của Hải-quân Truyện Sơn-tinh Thuỷ-tinh làm chứng cho giai-đoạn giao-tiếp giữa những "người đường biển" và những "người đường cao". Huyền-thoại được kể như ghi lại trong thời những Vua Hùng dựng nước, nhưng chứng-tích khảo-cổ lại có thể tiết-lộ khác-biệt v́: - Hàng chục ngàn năm trước, đất-nước ta đă có hai nhóm cư-dân sinh-hoạt khác nhau (1) từ Biển-Đông đi lên và (2) từ Núi Rừng đi xuống. Thời-gian giao-tiếp nhau đă xảy ra trước cả thời Vua Hùng lịch-sử. - Và cũng có thể là... tiền-thân của những người chiến-sĩ biển đă xuất-hiện qua vai-tṛ quân tôm, lính cá của Thuỷ-Tinh. Vả lại, trong giai-đoạn sáu chục ngàn năm, tính từ các chuyến đi Úc của người Đông-Nam-Á đến khi Vua Hùng dựng nước Văn-Lang, hẳn phải có nhiều tổ-chức hay lực-lượng trên Biển-Đông của dân ta được thành-lập. Trong sứ-mạng bảo-vệ các hoạt-động thuỷ-sinh cho đồng-bào, những tổ-chức quân thuỷ này chắc-chắn là các nhóm vơ-trang đầu-tiên của nhân-loại chiến-đấu trên mặt nước. Sinh-hoạt trong môi-trường "nước Biển-Đông", quân thuỷ của ta ngay từ những ngày đầu đă là Hải-quân nước xanh thuần-tuư. Ư-tưởng "Nước Nâu trước, Nước Xanh sau"581 của Đại-tá Thuỷ-Quân Lục-Chiến Mỹ Victor Croizat chỉ đúng cho các khu-vực ngoài Đông-Nam-Á mà thôi. Vua Hồng Lạc (Bua, Bố Rồng) từ biển vào bờ, định-quốc an-dân, mang h́nh-ảnh hào-hùng của một vị Tổ-tiên-khởi-nghiệp Hải-quân ngày nay. Theo ư ông Trần-Quốc-Vượng, Lạc-Long-Quân là vị anh-hùng văn-hoá lớn nhất của Thần-thoại Việt-Nam, từ biển tới, từ sông lên, diệt "Ngư-tinh", "Mộc-tinh", "Hồ-tinh", khai-sáng miền châu-thổ sông Hồng. Lạc-Long-Quân cũng là vị anh-hùng văn-hoá đầu-tiên chống sự xâm-lấn của phương Bắc (Đế-Lai), bảo-hộ lănh-thổ riêng cho con cháu dựng nước…”582 Văn-minh Việt buổi đầu dựng nước vốn là một nền văn-minh sông-nước. Quân-đội Việt, v́ vậy, từ đầu đă là một đội quân sông-nước. Ở Việt-Nam, nước gắn-bó và chở-che cho đất. Một khi cần mở đường giao-thiệp buôn-bán với bên ngoài, dân ta cần những con đường nước với “Hải-Lộ” và phương-tiện của tàu-thuyền. Trống Đồng biểu-hiện những hoạt-động này một cách rơ-ràng nhất từ gần 3,000 năm xưa.
Lạc-Long-Quân từ biển vào bờ, định-quốc an-dân.
Cuối bài nghiên-cứu về Vai-tṛ của Thuỷ-quân Việt-Nam, Ông Văn-Tân kết-luận rằng: "Trước đây khoảng ba ngàn năm, Việt-Nam đă có thuỷ-quân. Thuỷ-quân Việt-Nam càng ngày càng lớn lên với thời-gian và đă góp phần quan-trọng vào sự-nghiệp bảo-vệ đất-nước."583
Những Đường Thuyền-nhân Di-tản Dân Việt là giống dân bản-địa của Biển-Đông. Tuy yêu quê-hương, nhưng cũng có người v́ hoàn-cảnh ngặt nghèo mà phải ly-hương. Di-cư đường biển là đề-tài đă được nhiều học-giả nghiên-cứu. Elden Best t́m ra nhiều nguyên-nhân đă khiến người ta phải rời bỏ quê-hương đi xa. Trường-hợp "Thuyền-nhân Việt ly-hương" ngày nay và 4,000 năm trước, cũng nằm trong những lư-lẽ tương-tự. Học-giả Mỹ Stephen C. Jett có cùng ư-kiến với Elden Best. Jett nhận thấy nhiều chứng-tích của người tị-nạn đă thực-hiện những chuyến xuyên Thái-B́nh-Dương. Các áp-lực của dân Tàu tại vùng Đông-Á, những đợt bành-trướng lănh-thổ của nước Trung-Hoa đă tạo nên nhiều đợt di-dân đông-đảo đi về Nam, chạy ra các đảo, và lang-bạt ra xa cho tới tận Phi-Châu và Mă-Đảo. Jett cũng như nhiều nhà khảo-cứu tiếng-tăm khác cho rằng nhiều ít phải có những nhóm di-tản vượt đại-dương qua Mỹ-Châu. Một số Học-giả tiền-tiến người Trung-Hoa cũng nhận thấy rằng dân Bách-Việt đă tới Mỹ-Châu. Theo Paul Shao, tuy người ta thấy có dấu-vết văn-minh Trung-Hoa trên đất Mỹ nhưng những di-dân Á-Đông mang văn-minh đi truyền-bá phần lớn lại không phải người Trung-hoa thuần-túy mà là các giống dân khác như Đông-Di, Nam-Man...584 Nhân dịp phổ-biến các kết-quả khảo-cứu, Paul Shao đă kêu-gọi mọi người nghiên-cứu kỹ-lưỡng vai-tṛ khai-phá Mỹ-châu của tị-nạn Việt chúng ta, đặc-biệt là các "thuyền-nhân" trốn chạy ngoại-xâm. Nước Văn-Lang, Văn-minh Đông-Sơn và Thế-lực trên Biển Văn-Lang là danh-hiệu nước ta thời-đại Hùng-Vương. Đồ Đồng và nhất là các trống Đông-Sơn được sản-xuất vào thiên-kỷ thứ nhất TTL. tiêu-biểu cho nền văn-hoá của dân-tộc thời-kỳ mở nước và dựng nước. "Không-gian của xă-hội Văn-Lang - Âu-Lạc là không-gian của Văn-Hoá Đông-Sơn, cũng là không-gian t́m được nhiều trống Đông-Sơn nhất và tồn-tại nhiều trống cổ nhất. Đó là vùng Bắc Việt-Nam và khu-vực Nam Hoa-Nam."Thời-gian là thời-đại Hùng-Vương. Những sinh-hoạt (dân-gian) lúc đó được ghi-nhận qua nhiều h́nh-ảnh trên trống đồng.585
Tem thư Kỷ-niệm Hùng-Vương của Hoạ-Sĩ Vơ-Hùng-Kiệt.
Sử-gia D.G.E. Hall nhận-xét về người Việt thời Hùng-Vương như sau: "Dân thuộc văn-hoá Đông-Sơn phát-triển cao-độ khả-năng hàng-hải và kiến-trúc tàu-bè, họ là những nhà hàng-hải gan dạ với số vốn hiểu-biết nào đó về Thiên-văn-học"586. Trong khi nghiên-cứu về sự chinh-phục Thái-B́nh-Dương, Peter Bellwood lấy thêm tài-liệu của Spiegel (1971), Badner (1972) để chứng-minh và đi đến kết-luận là những kiểu-mẫu kỷ-hà đặc-biệt của Đông-Sơn t́m thấy ở vùng Sepik, quần-đảo Admiralties, New Ireland, và Trobriand Islands...587
Một số kiểu-mẫu trang-trí h́nh kỷ-hà đặc-biệt của Đông-Sơn.
Khi khảo-sát văn-hoá thời Đông-Sơn, nhiều học-giả gồm cả Đông-phương lẫn Tây-phương như Chikamouri, Bezacier, Manuel, và nhất là Keith Weller Taylor, đă đồng-ư rằng: "Các h́nh vẽ và trang-trí trên trống đồng Đông-Sơn luôn-luôn tạo nên ư-tưởng về những biểu-tượng của nghệ-thuật hàng-hải, đồng-thời chứng-minh một cách không thể lầm-lẫn về tầm ảnh-hưởng của một thế-lực dựa trên căn-bản của biển-cả.”588 Thuỷ-quân của Vua Hùng và Trống Đồng-cổ Đan-Nê Huyền-thoại sớm-sủa nhất về chiến-công của Thuỷ-quân Văn-Lang được nhắc nhở qua chứng-tích một ngôi đền cổ tại tỉnh Thanh-Hoá. Sau chuyến viễn-chinh thắng giặc vùng duyên-hải phía Nam mà sau này là đất Chiêm-Thành, một vị vua Hùng đă cho đúc trống đồng kỷ-niệm và lập đền thờ Đồng-Cổ trên núi Tam-Thai, xă Đan-Nê. Gần 3,000 năm trước, vùng châu-thổ chưa được phù-sa bồi-đắp, sông-ng̣i, đầm-lầy, ao-hồ khắp nơi. Từ kinh-đô Phong-Châu (huyện Bạch-Hạc, tỉnh Vĩnh-Yên ngày nay) khi muốn viễn-chinh tiễu-trừ giặc miền biển (Trung-Việt ngày nay), nhà Vua chỉ có mỗi một phương-tiện là sử-dụng thuỷ-quân để có thể di-chuyển, tiếp-liệu, bất-thần tấn-công và truy-sát kẻ địch tận ngoài khơi mà thôi. Chiến-tích của Thuỷ-Quân cũng ngẫu-nhiên mang lại vinh-dự cho Trống Đồng Đan-Nê589. Những ghi chép về trống đồng cổ trong sử-sách Việt-Nam c̣n lại rất ít, và thật ra cũng chỉ xoay-quanh hai chiếc trống mà thôi. Nguyễn-Duy-Hinh trong bài "Trống Đồng trong Sử-sách" cũng nhắc đến t́nh-trạng này. Trống Đan-Nê đă được các sách nhắc đến: Việt-Điện U-linh (1029), Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư (1479), Lĩnh-Nam Chích-quái (1492-1493) Đại-Nam Nhất-Thống-Chí590. Những đoạn văn ghi-chép trong các sách này khẳng-định, bổ-sung nhau và được xác-định chắc-chắn thêm qua tư-liệu dân-tộc học. Một chiếc khác có khả-năng là trống Miếu-Môn I, có thể đă được ghi-nhận trong thần-tích của làng Thượng-Lâm, do Đinh-Tiên-Hoàng ban-thưởng để làm trống thờ.
Cổng nghinh-môn của Đền Đồng-Cổ, thôn Đan-Nê, Yên-Định, Thanh-Hoá.
Pháo-tiễn Đầu-tiên trên Chiến-thuyền Trong các trống đồng Đông-Sơn, trống đồng Ngọc-Lũ I là một sản-phẩm đă xuất-hiện hồi thế-kỷ VII trước Công-nguyên. Chiến-thuyền phải có trước trống đồng một thời-gian và có cơ-sở để giả-định rằng trước đây khoảng 2,800 năm hoặc 2,900 năm hay hơn nữa, người Việt-Nam cổ-đại đă biết chế-tạo ra chiến-thuyền có gắn pháo-tháp Nỏ-Thần cho thuỷ-quân. Huyền-thoại "Nỏ-Thần" đă được tiền-nhân chúng ta kể đi kể lại từ nhiều ngh́n năm qua. Tuy vậy, chỉ mới vào thế-kỷ thứ 20, người ta mới t́m được chứng-tích trên trống đồng. Và hiển-nhiên hơn nữa, các nhà khảo-cổ đă đào được hàng ngàn mũi tên đồng ở Đồng-Đậu, G̣-Mun và Cổ-Loa. Các chiến-thuyền đời Hùng-Vương với Nỏ-Thần được ghi lại rất rơ nét trên nhiều chiếc trống đồng. Cánh nỏ và mũi tên lớn quá khổ, có thể tới 2-3m. Nỏ-Thần gắn trong Pháo-tháp đặt trên thượng-tầng kiến-trúc của chiến-thuyền. Nét vẽ tuy ít nhưng cho thấy cơ-quan máy-móc để nạp pháo-tiễn liên-hoàn. Vào thời đó, vũ-khí này rất lợi-hại v́ có tầm xa, bắn cả tên bằng đồng hay tên lửa.
Nỏ-Thần gắn trong Pháo-tháp các Chiến-thuyền đời Hùng-Vương.
Bạch-Hạc, Căn-cứ Thuỷ quân lớn Đầu-tiên của Nước ta Thuỷ-Quân Hùng-Vương từng vượt Biển-Đông đánh Chiêm-Thành, quân ấy cũng là Hải-Quân xông-pha ngoài biển-cả. Căn-cứ xuất-phát của các chiến-thuyền thời ấy rất có thể là từ Bạch-Hạc. Ngày nay, người ta tin-tưởng rằng Lễ-hội bơi-chải Bạch-Hạc mang tinh-thần thượng-vơ của dân-tộc. Tờ Hà-Nội mới viết như sau: Tục bơi-chải, đua-chải ở Bạch-Hạc (vùng đất ngă-ba sông) đă có từ rất lâu-đời, nó phản-ánh lịch-sử việc sử-dụng thuyền của Tổ-tiên ta trong quá-tŕnh dựng-nước và giữ-nước đă có từ xa-xưa. Cùng với sự h́nh-thành của Nhà nước Văn-Lang, ngoài chức-năng là “Quốc-đô” đầu-tiên trong buổi sơ-khai, Bạch-Hạc c̣n là một căn-cứ thuỷ-quân lớn của nước ta. Lễ-hội Bơi-chải cũng chính là phản-ánh h́nh-thức luyện thuỷ-quân của cha ông ta. “Hội-chải” truyền-thống Bạch-Hạc xưa được tổ-chức hàng năm vào ngày 19 - 20/5 Âm-lịch, nhưng sau này được chuyển tới ngày 9 – 10/3 Âm-lịch để phù hợp với ngày Giỗ-Tổ Hùng-Vương và tránh vào mùa nước lũ. Nói về Hội-chải Bạch-Hạc đă từng có những câu thơ: “Trống thúc, loa vang, sóng-gió mênh-mông, Thuyền chải lướt, mái-chèo xé nước. Ngỡ quân-sĩ bao triều vua thuở trước, Thuỷ-chiến trên sông, quân giặc kinh-hoàng…” Bạch-Hạc là vùng đất ngă-ba sông, đoạn giữa của sông Lô nhập vào sông Đà, nối ḍng sông Cái (sông Hồng) hợp-lưu với Sông Thao ở trên có băi Kiều-Mộc, phía dưới là băi Vấn-Cốc với những trảng cát dài nên rất thuận-lợi cho việc dựng các vạn-chài, lập công-trường đóng những lâu-thuyền (thuyền chiến loại lớn) các “Tiểu-khinh-thuyền” (thuyền chiến loại nhỏ cơ-động nhanh) và luyện-tập quân-sĩ mà B́nh-Khôi Công-chúa Trưng-Nhị cùng các tướng tâm-phúc như Quách-Gia, Đặng-Thị-Nội, Bát-Nàn (năm 42). Sau này, Phụ-Quốc Thái-Sư Lư-Thường-Kiệt (năm 1007), Chiêu-Văn-Vương Trần-Nhật-Duật (năm 1285)… cũng đă sử-dụng địa-h́nh này đánh-thắng giặc. Lễ-hội bơi-chải được tổ-chức cũng chính là để ôn lại những sự-kiện lịch-sử nói trên.591
Đua Thuyền trong Hội-chải Bạch-Hạc. Cổ-Loa thành, Căn-cứ Hải-Quân Khi vượt Biển-Đông, Hải-Quân của Vua Hùng thường xuất-phát từ Bạch-Hạc. Căn-cứ này có lẽ lúc đó chưa được xây-cất bề-thế, về sau bị quên-lăng.
Cổ-Loa không chỉ là một căn-cứ bộ-binh mà c̣n là một căn-cứ thuỷ-binh nữa. Tiếp thời-kỳ Văn-Lang của Hùng-Vương đến thời-kỳ nước Âu Lạc của An-Dương-Vương Thục-Phán. Theo Ông Văn-Tân, thuỷ-quân của nước Việt-Nam cổ-đại lại được tổ-chức quy-mô hơn. Các công-tŕnh nghiên-cứu về thành Cổ-Loa cho chúng ta biết rằng: Bao quanh thành Cổ-Loa có ba con hào ăn thông với nhau và thông với sông Hoàng-Giang. Nhờ vậy thuyền-bè có thể đi lại xung-quanh cả ba ṿng thành và có thể ra sông Hoàng-Giang, sông Hồng, sông Cầu, sông Lục-Đầu để tiến ra Biển-Đông. Truyền-thuyết nói An-Dương-Vương thường ngự thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hoàng-Giang. Như vậy thành Cổ-Loa không chỉ là một căn-cứ bộ-binh mà con là một căn-cứ thuỷ-binh nữa. Khu Đầm và cả khu "Vườn thuyền" của miền Cổ-Loa xưa có đủ chỗ cho hàng trăm chiếc thuyền đậu và đi lại.592 Theo Tiểu-Diệp (Xứ Việt): Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ-Huyền-Khê - Hoàng-Giang thông với sông Cầu ở Thổ-Hà, Quả-Cảm (Hà-Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh-Thanh (Đông-Anh). Ngay sau khi xây thành, Thục An-Dương-Vương đă chiêu-tập những thợ mộc giỏi, sử-dụng gỗ ở địa-phương đóng thuyền chiến. Với thuật đi-sông vượt-bể là sở-trường của người Lạc Việt, chẳng bao lâu, các đầm-phá quanh thành Cổ-Loa biến thành thuỷ-quân-cảng. Cổ-Loa có vị-trí thuận-lợi hơn bất-kỳ ở đâu tại đồng-bằng Bắc-Bộ vào thời nhà Thục (257-207 TTL.). Căn-cứ thuỷ-binh này chính là vị-trí chiến-lược, nối liền mạng-lưới đường thuỷ của sông Hồng cùng với mạng-lưới của sông Thái-B́nh. Hai mạng-lưới này chi-phối toàn-bộ hệ-thống đường thuỷ tại Bắc-Bộ. Qua con sông Hoàng, chiến-thuyền có thể toả đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng, có thể thâm-nhập vào vùng Bắc hay Tây-Bắc của Bắc-Bộ. Nếu xuôi sông Hồng, chiến-thuyền có thể ra đến Biển-Đông. C̣n muốn đến vùng Đông Bắc-Bộ th́ dùng con sông Cầu để thâm-nhập vào hệ-thống sông Thái-B́nh đến tận sông Thương và sông Lục-Nam.
Đến núi Mộ-Dạ cụt đường, Thục-Phán định tự-tử th́ thần Kim-Quy hiện lên bảo nhà vua: Tâu bệ-hạ, giặc ngồi ngay sau lưng bệ-hạ ḱa!
Thành-tích Viễn-dương của Tiền-nhân Việt Trên quan-điểm của một người Á-Đông, Wang Gungwu đă làm một cuộc nghiên-cứu về giao-thương thời-cổ trong biển Nam-Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để phổ-biến kết-quả của công-tŕnh đó, cơ-sở xuất-bản của Journal of the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát-hành một cuốn sách nhan-đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of the Chinese Trade in the South China Sea". Wang mô-tả khá đầy-đủ về những hoạt-động hàng-hải trong khoảng 11 thế-kỷ trước khi thành-lập triều-đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, thổ-dân người Việt, sau khi đế-quốc Nam-Việt của nhà Triệu bị sụp-đổ, vẫn tiếp-tục nắm giữ hầu-hết ngành hàng-hải dọc duyên-hải hay đường viễn-duyên đến các nước Đông-Nam-Á và Ấn-Độ, như đă từng nắm-giữ trước kia. Những Thương-cảng Sầm-uất Ngày xưa Về các thương-cảng, Wang cho rằng từ thời-cổ xưa cho đến đời Tống, cảng sầm-uất hàng đầu vùng Đông-Á và Đông-Nam-Á đều ở Bắc-phần nước ta. Đặc-biệt là Luy-Lâu hay Long-Biên (Hà-Nội ngày nay) với vùng hậu-cảng trù-phú nhất đế-quốc Nhà Hán là quận Giao-Chỉ. Con đường biển buôn-bán các đồ gia-vị (Spice route) cổ-thời không qua thẳng đến nước Tầu mà chỉ đến Trung và Bắc Việt-Nam rồi mới theo đường-bộ để chuyển-tiếp sang Nam Trung-Hoa. G.R.G. Worcester cho rằng Hà-Nội đúng là trạm hải-hành cuối-cùng giữa Tây-phương và Đông-Á trong cổ-thời. Worcester h́nh-dung một "hải-tŕnh tơ-lụa" như sau: "...có thể đă có những ảnh-hưởng qua giao-tiếp đường biển rất sớm-sủa với dân Địa-trung-Hải, v́ người ta tin rằng những thương-gia Phoenicia trên hải-tŕnh t́m-kiếm "đường tơ lụa", đă tới Đông-Dương vào năm 650 TTL."
Trong các bản-đồ cổ, tận-cùng thế-giới về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese, biển Sinus Magnus với hải-cảng Kattigara. Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển và viết sách địa-lư. Ông h́nh-dung ra một bản-đồ thế-giới mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese, biển Sinus Magnus với hải-cảng Kattigara. Không c̣n nghi-ngờ ǵ, Sinus Magnus chính là Biển-Đông nước ta. Có người cho rằng bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara (hay Catigara hay Cattigara) chỉ Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày nay. Sau khi nước ta thâu-hồi được nền tự-chủ, các sách Việt-sử ghi-nhận những hoạt-động hải-thương sầm-uất nơi các hải-cảng như Vân-Đồn, Phố-Hiến, Hội-An... Những Đô-thị cạnh bờ Nước Theo Giáo-sư Trần-Quốc-Vượng, tính-chất bán-đảo của Việt-Nam nổi-bật nhất Đông-Nam-Á. Ông mô-tả các đô-thị cổ Việt-Nam đều có một đặc-điểm chung là nằm giữa những tuyến đường-thuỷ: - Việt-Tŕ là đô-thị cổ nhất Việt-Nam, mà vùng chung-quanh đó được gọi là Đất-Tổ, xuất-hiện vào thế-kỷ thứ VII trước Công-nguyên. Việt-Tŕ, thành-phố nằm trên ngă ba các con sông Hồng-Hà, Đà-Giang và Lô-Giang, ngay trong thời-đại các vua Hùng đă trở-thành đô-thị dịch-trạm với hệ-thống thuyền-mảng dưới sông và hệ-thống voi - gùi trên đường bộ xuyên-sơn. - Cổ-Loa, trung-tâm của nước Âu-Lạc, nằm giữa vùng châu-thổ, là nơi hội-tụ của nhiều đường sông-rạch, vị-trí có nhiều mặt ưu-thế hơn Việt-Tŕ, nhất là gần biển hơn. - Sau cuộc xâm-lược của Hán-Vũ-Đế, các cảng Luy-Lâu rồi Long-Biên ở hạ-lưu sông Hồng và Lạch-Trường ở hạ-lưu sông Mă đă thành-h́nh. Các đô-thị này đều gần biển và là những cảng-thị sầm-uất và lớn-lao vào hạng nhất-nh́ trên Biển-Đông. - Hà-Nội, đi từ một Thăng-Long truyền-thống với mạng-lưới cơ-bản là đường thuỷ, có phương-tiện giao-thông cơ-bản là thuyền. Với lưới sông thông-thương với nhau, giao-thông đường thuỷ rất thuận-lợi. Thuyền từ sông Đáy vào sông Nhuệ rồi "lên Kinh" bằng sông Tô hoặc ngược lại từ quân-cảng Đông-Bộ-Đầu và thương-cảng ở cửa sông Tô trên sông Nhị, qua sông Tô, sang sông Nhuệ rồi xuống sông Đáy mà ra biển vào Nam, hay xuôi sông Đuống, sông Dâu xuống Lục-Đầu-Giang mà ra Hải-Đông, Hạ-Long biển Bắc... Ta có thể gọi Hà-Nội là thành-phố sông. Nói đúng hơn, Hà-Nội cổ là thành-phố sông-hồ: Hồ-Tây, Hồ-Gươm, Thuyền-Quang, Bảy-mẫu v.v...593 Kinh-đô Thăng-Long là trung-tâm thương-mại quốc-tế lớn nhất của Việt-Nam và cũng của Đông-Nam-Á suốt thời trung-cổ. Dân-số các đô-thị loại này tăng lên rất nhiều khi giới thương-buôn và hành-thuỷ ngoại-quốc ghé tàu cặp bến, đặc-biệt tùy theo mùa gió thuận-tiện. Theo tài-liệu của Samuel Baron viết lại vào đầu thế-kỷ 18, đường phố Thăng-Long rất đông-đảo trong những phiên chợ vào các ngày mùng một và ngày rằm âm-lịch. Một số du-khách ngoại-quốc đă nghĩ rằng kinh-đô nước Việt đông người nhất thế-giới vào những ngày này. Muốn đi 100 bước cũng phải tốn mất nửa giờ.594 Giáo-sư Peter Bellwood nhận-xét về phát-triển hải-thương của người Việt-Nam, ước-lượng dân-cư kinh-đô nước ta vượt con số 100,000 người trong các thế-kỷ 15 đến 18, sau khi nhà Lê mở rộng tường-thành tới 10km đường kính.595
Kinh-đô Thăng-Long triều Lư là một thành-phố nằm giữa sông-hồ. Cho đến cuối thế-kỷ 15, những vùng nước lớn (không kể kinh-rạch nhỏ) vẫn c̣n bao-phủ khắp nơi (bản-đồ địa-chất 1490).
Trước Thăng-Long, thủ-đô nước ta đă đóng tại Hoa-Lư. Khi quốc-gia vừa tái-lập được nền tự-chủ, nhà Đinh đóng đô ngay trên bờ con sông Hoàng-Long-Giang. Từ nơi này, đường thuỷ chạy ra Biển-Đông chỉ chừng hơn hai mươi hải-lư...596 Theo cuốn sách Đại-Việt Sử-kư Toàn-thư của Sử-gia Ngô-Sĩ-Liên, thương-thuyền thuộc nhiều nước cặp bến Hoa-Lư buôn-bán tấp-nập. Hải-thương tiếp-tục bành-trướng đúng như truyền-thống ngàn đời của dân-tộc.
Trưng-Vương và các Nữ-tướng của bà vừa chiến-đấu trên ḿnh voi (h́nh trên) vừa chiến-đấu trên thuyền chiến.
Thuỷ-quân thời Trưng-Vương Các sách sử giáo-khoa ghi chép sơ-sài về triều-đại Trưng-Vương. Những khám-phá gần đây t́m ra những hoạt-động của thuỷ-quân thời đó. Cả tên của các vị chỉ-huy quân thuỷ cũng đă được mang ra ánh-sáng. Thần-tích nhắc nhớ tới đội quân thuỷ tài-giỏi của nữ-tướng Lê-Chân ngay từ cuộc khởi-nghĩa Hai Bà Trưng. Đội quân thuỷ này sau đó đă đảm-nhiệm trọng-trách chặn-đánh thuỷ-quân của Mă-Viện từ biển Bắc tiến vào.
Cao 7.42 m, nặng 19,250 kg; tượng-đài Nữ-tướng Thuỷ-Quân Lê-Chân (bằng đồng), vị thủ-lĩnh của "Hải-thành pḥng-thủ" quật-cường năm xưa đă được dựng lên tại Hải-Pḥng ngày 31/12 năm 2000.
Lạc-tướng Cao-Đoan là một tên tuổi hăn-hữu c̣n sót lại như là vị Bộ-Trưởng Thuỷ-Quân kiêm Đô-Đốc Tư-Lệnh Hạm-Đội đầu-tiên của nước ta. Tham-khảo một số tài-liệu mới, các nhà sưu-tầm sử-liệu t́m thấy như sau: Tướng Cao-Đoan là người làng Hạ-Lôi, cùng huyện Châu-Phong với hai vua Trưng. Ông tự chiêu-mộ nghĩa-quân nổi lên đánh quân Tàu, sau theo pḥ Trưng-Vương. Ông lập được nhiều công-trạng thuỷ-chiến. Phu-Nhân họ Cao là trợ-thủ đắc-lực cho chồng. Tướng Cao-Đoan nắm trọng-trách coi giữ thuỷ-quân trong suốt triều-đại Trưng-Vương. Khi Hán-Đế sai Mă-Viện đem quân sang xâm-lược, Ông cùng vợ đem quân thuỷ chống-giữ các nơi hiểm-yếu. Tướng Cao-Đoan bị tử-thương, Ông chết ngày 20 tháng 7 năm 43. Dân ta nhớ ơn, lập đền thờ hương khói cả hai vợ chồng. Ngoài chiến-công của các nữ-tướng về bộ-chiến, nhiều thành-tích thuỷ-chiến vào thời Hai Vua Bà cũng đang được các nhà viết sử thu-nhặt. Dựa trên tài-liệu của các thần-phả, nhiều lần Bác-sĩ Trần-Đại-Sĩ đă tôn-vinh các chiến-công thuỷ-chiến thời xưa trong pho thiểu-thuyết "Anh-Hùng Lĩnh-Nam."
Hai Vua Bà họ Trưng trầm ḿnh xuống sông Hát. Tướng-lănh Thuỷ-quân và Đền thờ Rồng-Rắn Thờ-kính và noi gương anh-hùng dân-tộc là truyền-thống của dân-tộc. V́ ảnh-hưởng của sinh-hoạt đi vào tín-ngưỡng, dân ta lập đền thờ Rồng-Rắn khắp nơi, đồng-hoá thuỷ-quái với danh-nhân cứu-quốc. Giáo-sư Trần-Quốc-Vượng nhận ra rằng: "Dọc sông-ng̣i miền Bắc - sông con, sông cái - đâu chẳng có đền thờ rắn hay rồng (cho dù với xu-hướng "lịch-sử-hoá", rắnrồng đă hoá thành tướng Hùng-Vương, tướng bà Trưng, tướng Triệu-Việt-Vương...). Và bao quanh những đền thờ đó là hội nước, hội đua-thuyền597 cầu mưa. Rắn-rồng, thuồng-luồng, cá sấu... là biểu-tượng của Nước, của Thần Nước, của Mưa-Giông."
Khi xưa đua thuyền rồng, Trưởng thuyền dùng Trống Đồng điều-khiển nhịp bơi. Thuỷ-quân Việt Kháng-chiến thời Đô-Hộ Sau khi Triệu-Đà đánh-chiếm nước Âu-Lạc (năm 180 trước Công-nguyên) cho đến đầu thế-kỷ X, nước Việt-Nam cổ-đại bị đặt dưới nền đô-hộ của giai-cấp phong-kiến phương Bắc. Thời-gian đen-tối này dài đến hơn mười thế-kỷ. Hơn mười thế-kỷ này là hơn mười thế-kỷ nước Việt-Nam mất chủ-quyền, nhưng trong thời-gian đó nhân-dân Việt-Nam vẫn không ngừng đấu-tranh nhằm giành lại nền độc-lập đă bị mất. V́ vậy trong suốt hơn mười thế-kỷ đó, bằng các trận đánh giặc cứu nước, nhân-dân Việt-Nam không thể không dùng thuỷ-quân... Cũng như nhiều truyền-thống tốt-đẹp khác của thời dựng nước đầu-tiên, truyền-thống đánh thuỷ không có điều-kiện phát-triển trong t́nh-trạng Tổ-Quốc bị nô-dịch. Nhưng nhờ chuỗi khởi-nghĩa liên-tục, truyền-thống đó không những không bị mất đi mà c̣n thường-xuyên được thử-thách. Đó là quân thuỷ hai Bà Trưng đánh Hán ở Bạch-Đằng, Lăng-Bạc. Quân thuỷ của nước Vạn-Xuân đánh Lương ở sông Tô-Lịch, hồ Điển-Triệt598. Đó là đội quân du-kích trong đầm nước Dạ-Trạch của Triệu-Quang-Phục. Đó cũng là quân thuỷ của ông Vua đen họ Mai trên ḍng sông Lam, của Bố-Cái Đại-Vương trong trận vây thành Đại-La, bức chết Cao-Chính-B́nh... Nghệ-thuật đánh thuỷ của dân-tộc không ngừng trưởng-thành, đă chuẩn-bị vật-chất (và tinh-thần) cho những cuộc nổi-dậy có tính-chất quyết-định của nhân-dân ta vào thế-kỷ thứ X.599
Ngôi Đền tại làng Giang-Xá (Hoài-Đức, Hà-Tây) cạnh bờ nước, thờ Lư-Nam-Đế Nhà Tiền-Lư, một vị anh-hùng thuỷ-chiến.
Thuỷ-quân Dạ-trạch và chiến-thuật Du-kích trên sông-rạch Người Việt chúng ta có lẽ là giống dân đầu-tiên biết khai-thác thành-công kỹ-thuật du-kích-chiến trên đồng-lầy, hồ-ao, sông-rạch. Về bằng-chứng, người viết xin kể đến truyện ông Triệu-Quang-Phục, vị anh-hùng có công giải-phóng dân-tộc khỏi ách thống-trị của nhà Lương bên Tàu vào thế-kỷ thứ 5. Chuyện Thuỷ-Hử600, nếu mang ra so-sánh, thành-tích của chiến-dịch Dạ-Trạch thực-sự to-lớn hơn nhiều. Chiến-công lừng-lẫy nhất của vị "vua đầm lầy" này (458-471) nhờ việc Ông dùng thuỷ-quân thật hữu-hiệu ở đầm Dạ-Trạch. Sử-gia Trần-Trọng-Kim viết như sau: "Dạ-Trạch là chỗ đồng-lầy, chung-quanh cỏ mọc như rừng, ở giữa có băi cát làm nhà ở được. Triệu-Quang-Phục vào ở đấy ngày nấp ẩn, tối th́ cho lính chở thuyền độc-mộc ra đánh quân của tướng Tàu Trần-Bá-Tiên, cướp lấy lương-thực về nuôi quân-sĩ. Trần-Bá-Tiên đánh măi không được. Người thời bấy giờ gọi Triệu-Quang-Phục là Dạ-Trạch-Vương".
Thuỷ-quân Triệu-Quang-Phục đánh du-kích trên đồng-lầy.
Phùng Hưng (761-801) nổi lên khi nhà Đường suy-yếu v́ Giặc biển Năm 759, quân Mă-Lai từ biển vào cướp-phá châu Ái (tên gọi Cửu-Chân từ năm 523) bị quan cai-trị là Trương-Bá-Nghi tiêu-diệt. Năm 797, quân Mă-Lai lại cướp-phá châu Ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai-trị là Trương-Châu đánh-đuổi, san-phẳng thành-tŕ thu-hồi mọi của-cải. Đinh-Mùi [767], (Đường-Đại Tông-Dự, Đại-Lịch thứ 2). [Người] Côn-Lôn601, Chà-Bà602 đến cướp, đánh lấy châu-thành. Kinh-lược-sứ Trương-Bá-Nghi cầu-cứu với Đô-Úy châu Vũ-Định là Cao-Chính-B́nh. Quân cứu-viện đến, đánh-tan quân Côn-Lôn, Chà-Bà ở Chu-Diên. Bá-Nghi đắp lại La-Thành.603 Quyền thống-trị của nhà Đường dần-dần suy-yếu từ năm Đinh-Mùi (767). Vào năm Đại-Lịch thứ hai của đời Đường có giặc Côn-Lôn và Chà-Và đi đường biển tới quấy-nhiễu. Trương-Bá-Nghi, quan Kinh-lược-sứ nhà Đường, chỉ biết giữ thành chờ cứu-viện. Vua Đường ra lệnh Cao-Chính-B́nh đem quân sang dẹp-tan giặc ở Cửu Chân và sau đó hắn được giữ chức Đô-hộ ở An-Nam. Cao-Chính-B́nh ỷ-thế mạnh ra sức tàn-sát dân lành, cướp-bóc vơ-vét của-cải của dân ta. Hành-động ngông-cuồng của hắn làm người người đều căm-ghét. Lúc ấy, Phùng-Hưng và hai anh em là Phùng-Hải và Phùng-Đĩnh nhân cơ-hội này đă cùng dân Việt nổi lên chống lại nhà Đường. Thuỷ-quân và Công-trạng giành lại quyền Tự-Chủ Năm 905 Khúc-Thừa-Dụ đánh-bại quân Đường, giành được nền độc-lập cho dân-tộc. Từ đấy các nhân-vật lănh-đạo nước Việt-Nam độc-lập chú-ư nhiều đến xây-dựng thuỷ-quân. Chúng ta có thể tin rằng dưới thời Khúc-Thừa-Dụ, Khúc-Thừa-Hạo và Khúc-Thừa-Mỹ, thuỷ-quân đă được tổ-chức; đến thời Dương-Diên-Nghệ thuỷ-quân đă trở nên khá quy-mô, tỏ ra rất thiện chiến. Cho nên vào tháng 9 năm Mậu-Thân (938) khi Hoằng-Thao mang quân Nam-Hán vào cửa Bạch-Đằng, đă bị thuỷ-quân của Việt-Nam do Ngô-Quyền chỉ-huy đánh cho tan-tành. Ngô-Quyền không những lợi-dụng địa-h́nh thiên-nhiên, mà c̣n biết lợi-dụng cả chế-độ thuỷ-triều. Đây cũng là một trận đánh biết lợi-dụng thuỷ-triều sớm nhất trong lịch-sử quân-sự nước ta. Trận thuỷ-chiến thắng-lợi này chấm-dứt hơn 1000 năm Bắc-thuộc. Ngô-Quyền bắt-tay xây-dựng quốc-gia. Vương băi-bỏ chức Tiết-độ-sứ, định-đô ở Cổ-Loa (Đông-Anh, Hà-Nội). Ông đặt ra chức quan văn, vơ, nghi-lễ trong triều và quân thuỷ giữ vai-tṛ quan-yếu dưới thời Ông.
Hai bức tranh mộc-bản vẽ Ngô-Quyền đại-phá quân Nam-Hán trên sông Bạch-Đằng, tranh màu và tranh trắng đen.
Đinh-Tiên Hoàng-Đế và Chiến-thuyền Đôi khi chúng ta thấy tranh vẽ Đinh-Bộ-Lĩnh oai-phong trong bộ giáp-trụ nặng-nề. Có sách ghi vị Hoàng-Đế đầu-tiên của nước ta như là một tướng cả đời trên lưng ngựa phá-thành đoạt-lũy. Điều này tương-phản hẳn sự thực: Vua Đinh sống trong nhà sàn, ăn-mặc giản-dị và… chiến-đấu trên thuyền, trên nước. Vào thế-kỷ thứ X, phần lớn vùng châu-thổ sông Hồng, sông Mă c̣n ngập ch́m trong biển nước. Trong mùa mưa, nước lũ từ thượng-du đổ về, mực nước dâng-cao. Mùa lụt thường kéo dài tới 4, 5 tháng trong một năm. Khắp nơi, đồng-ruộng ngập-ch́m trong làn nước đục-ngầu phù-sa, người ta chỉ c̣n thấy làng-xóm và g̣-đống lơ-thơ nổi lên. Hoa-Lư dựa lưng vào núi, phía trước bao-bọc bởi nước. Dù là vua-chúa mỗi khi bước ra khỏi kinh-đô, ai-ai cũng phải đi thuyền.604 Hai học-giả ngoại-quốc, Pierre Huard và Maurice Durand diễn-tả cảnh hành-quân của vua nhà Đinh khác hẳn với các sách sử của ta. Các Vị này nghĩ rằng nhờ có quân thuỷ, vua nhà Đinh đă toàn-thắng địch-quân. Đội chiến-thuyền thời đó có khả-năng chuyên-chở quân-sĩ vượt sông-ng̣i, đầm-lầy để đổ-bộ thần-tốc. Các loại thuyền như ghe thúng chài, thúng cái, thuyền nan, thuyền thúng... đă thay cho bộ-binh và chiến-mă. Thuỷ-Quân và Hạm-Đội tạo thành chủ-lực-quân giúp nhà Vua tung-hoành khắp một vùng sông-nước rộng-lớn của Đại-Cồ-Việt.605 Trần-Ứng-Long và Thuyền Mê Một danh-nhân Việt-Nam hiếm hoi, một vị tướng thuỷ-quân biệt-tài được nhiều sách vở ngoại-quốc ghi-nhận là một khoa-học-gia, một nhà phát-minh lớn mà dân ta ít nhắc nhở tới. Đó là ông Trần-Ứng-Long. Bách-khoa Từ-Điển của Nhật, tuy có ít từ-mục về Việt-Nam, nhưng lại có ghi tên Trần-Ứng-Long. Từ-Điển "Encyclopaedia of Asian Civilizations" chép những ḍng như sau: Ông Trần-Ứng-Long là "xảo-thủ" đóng chiếc thuyền đầu-tiên có vỏ mê mềm-dẻo ở Hà-Đông năm 968. Theo sách "Thanh-thư về Tàu-thuyền Cận-duyên Miền-Nam Việt-Nam" sẽ nói thêm ở đoạn sau, những thuyền có đáy-mê rất thông-dụng từ cổ-thời tại Việt-Nam. Đủ mọi cỡ ghe-thuyền lớn nhỏ, nhiều kiểu khác nhau như canoes, dinghies, thuyền thúng, thuyền chạy buồm, thuyền buôn, thuyền đánh-cá các loại… khắp mọi nơi".
Một loại thuyền mê, có vỏ bằng tre đan.
Tương-truyền, ông Long là bộ-tướng của vua Đinh-Tiên-Hoàng (960-980). Khi Sứ-quân Đỗ-Cảnh-Thạc bị đuổi gấp phải chạy trốn qua Nhuệ-Giang. Thạc qua được sông, ra lệnh đốt hết thuyền-bè. Tướng Trần-Ứng-Long nghĩ ra cách cho lính đốn tre để đan thứ thuyền nan rồi lấy nhựa bôi vào thân thuyền. Nhờ đó, Ông đưa được quân lính qua sông và đuổi bắt được Đỗ-Cảnh-Thạc.606
Kinh-đô Hoa-Lư tức đất Trường-An vùng Sông-Nước Theo các tài-liệu sử-kư địa-lư, th́ cố-đô Hoa-Lư nay nằm trong quận Hoa-Lư, tỉnh Ninh-B́nh, miền Bắc Việt-Nam. Khi lựa-chọn cứ-điểm này làm kinh-đô, Đinh-Tiên Hoàng-Đế đă lợi-dụng địa-thế pḥng-thủ thiên-nhiên kiên-cố với những dải núi làm b́nh-phong đồng-thời với những đường thuỷ sông-ng̣i vây quanh, tiện-lợi trong việc tiến-thoái quân-binh và chiến-cụ. Hoa-Lư ở làng Trường-Yên (hay Tràng-An) nằm trong khu-vực nước ngập mênh-mông trong mùa lụt, phong-cảnh kỳ-thú, ghe-thuyền qua lại giữa những khoảng-núi, hang-động và đồng-ruộng lúa nước mùa chiêm. Ngày nay, du-khách khắp thế-giới đến thăm Việt-Nam không bao giờ quên vùng đất “Hạ-Long trên cạn” mỹ-miều này. Về hướng Bắc của kinh đô Hoa-Lư là sông Hoàng-Long; con sông này gắn-liền với truyền-kỳ về Đinh-Bộ-Lĩnh thuở c̣n ấu-thơ dựng cờ-lau tập-trận với anh em. Trong một lúc cao-hứng v́ đánh-thắng được trận giả, Đinh-Bộ-Lĩnh giết đi con trâu của cậu ḿnh để khao bạn. Cậu ông giận lắm t́m ông để trừng-phạt. Ông chạy đến bờ sông th́ theo truyền-thuyết có một con rồng vàng hiện ra cứu-giải, nên sau này đặt tên sông ấy là Hoàng-Long.607 Nối liền với hai con sông sẵn có là sông Lăng và sông Bội.
Con rồng vàng hiện ra cứu-giải cho Đinh-Bộ-Lĩnh vượt sông.
Một nhánh của Hoàng-Long chảy theo sông Bội đổ vào Động Hoa-Lư, căn-cứ-địa đầu-tiên của Đinh-Tiên-Hoàng (tỉnh Gia-Viễn) và xuyên đến Hoà-B́nh. Cùng với sông Lăng, sông Bội, Hoàng-Long tạo thành một hệ-thống thuỷ-lộ chằng-chịt nối liền với các vùng đất khác của miền Bắc. Như vậy, vào thế-kỷ thứ 10, giao-thông bằng thuỷ-lộ hết sức quan-trọng, không những đối với binh-bị mà c̣n đối với đời sống kinh-tế và văn-hoá của dân-tộc ta. 608 Vị “Hoàng”-đế đầu “Tiên” của Đại-Cồ-Việt biết rằng nếu nắm được thuỷ-lộ th́ bước tiến của quân-đội sẽ dễ-dàng hơn và giúp đưa đến thắng-lợi trên chiến-trường. Không những chỉ ở Việt-Nam, các đế-quốc lớn trong lịch-sử thế-giới cũng đă chứng-minh một cách hùng-hồn rằng, tiềm-năng thuỷ-chiến gắn liến với sự lớn mạnh và bành-trướng của các đế-quốc đó. Vai-tṛ Quyết-định của Thuỷ-Quân nhà Tiền-Lê Vai-tṛ Thuỷ-quân thời Lê-Đại-Hành bị hầu-hết Sử-sách "nhẹ nhàng" bỏ qua. Tuy vậy có nhiều điều rất đáng để chúng ta lưu-tâm ghi-nhận cho chính-xác và đặt lại đúng vị-trí trọng-yếu của nó. Trước hết là trận-chiến chặn địch trên Bạch-Đằng-Giang. Cũng trên cùng một ḍng sông lịch-sử này, chiến-công lừng-lẫy của Ngô-Quyền và Trần-Hưng-Đạo đă làm mờ-nhạt những thành-tích cứu-quốc của người lính thuỷ trong những năm đầu của triều Tiền-Lê. Sử-gia Trần-Trọng-Kim viết như sau: “Vua Đại-Hành đem binh-thuyền ra chống-giữ ở Bạch-Đằng. Quân nhà Tống tiến quân lên thế mạnh lắm, quan-quân ta đánh không lại, phải lùi. Bấy giờ Lục-Quân của bọn Hầu-Nhân-Bảo tiến sang đến Chi-Lăng(thuộc Ôn-Châu, Lạng-Sơn), vua Đại-Hành sai người sang trá-hàng để dụ Hầu-Nhân-Bảo đến chỗ hiểm bắt chém đi, rồi đuổi-đánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được 2 người bộ-tướng. Bọn Lưu-Trừng thấy Lục-Quân đă tan-vỡ, vội-vàng đem thuỷ-quân rút về.”
Tượng trong đền thờ Lê-Hoàn, tức Đại-Hành Hoàng-Đế.
Rất ít người trong chúng ta biết rằng những đoàn thuyền chiến của Đại-Việt từng tung-hoành trên Biển Đông làm chủ-nhân suốt dọc vùng duyên-hải Trung-phần tới tận mũi-đất Varella ngay từ trước những năm 1,000 609. Quân thuỷ ta thời đó gồm rất nhiều dân-cư vùng sông-nước Hoa-lư, có người Hà-Nam-Ninh, hiển-nhiên đă từng kiểm-soát tới gần 2/3 bờ-biển nước Chiêm. Sử-sách xưa do văn-quan viết ra, đôi khi có một chút bất-công với những chiến-công quân-sự, và đặc-biệt hạ thấp tầm thiết-yếu của “hải-sử” thời Tiền-Lê. Tại-sao Việt-Sử lại sơ-xuất quá lớn đến như vậy. Một vị Sử-gia kim-thời là Ông Hồ-Văn-Châm đưa ra nhận-xét như sau: v́ triều-đại Tiền-Lê quá ngắn-ngủi, Lê-Đại-Hành lại không có sử-thần riêng để tán-tụng công-đức, mà trong thực-tế, công-nghiệp của Lê-Đại-Hành lại quá to-lớn, chiến-công của Lê-Đại-Hành lại quá oanh-liệt, Vua đă thu-hồi toàn-bộ đất Nhật-Nam và lưu-quân trú-pḥng ở lại chiếm-giữ, lại liên-tiếp chiến-thắng quân Tống hai trận lớn ở sông Bạch-Đằng và ở ải Chi-Lăng, chém chết tướng Tống Hầu-Nhân-Bảo và vua Chiêm Tỳ-Mi-Thuế đều ở ngay trận-tiền, đánh tiến-công giáp-mặt chứ không đánh pḥng-ngự giằng-co. Sự-nghiệp hiển-hách như vậy các triều Lư Trần cũng không hơn được, nên sử-quan các đời sau đă v́ chúa ḿnh mà lược-bớt.610 Nhà Vua tự làm Tướng Thuỷ-Quân Sách Khâm-Định Việt-Sử Thông-Giám Cương-mục ghi: “Lưu-Trừng kéo đến sông Bạch-Đằng. Nhà vua tự làm tướng, ra kháng-chiến: sai quân-sĩ đóng cọc ở sông Bạch-Đằng để ngăn-cản địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan-quân ta đánh bất-lợi: hai trăm thuyền chiến đều bị địch lấy mất cả. Hầu-Nhân-Bảo đem tiền-quân tiến lên trước. Tôn-Toàn-Hưng đóng quân lại, không đi; Nhân-Bảo thường phải thúc-giục. Khi quân Tống kéo đến sông Chi-Lăng, nhà vua sai người trá-hàng, dụ bắt được Nhân-Bảo, đem chém. Bọn Lưu-Trừng rút-lui.” Hai cuốn Việt-sử trên có thể đă căn-cứ vào các tài-liệu không chính-xác hay chăng? Chúng ta có thể không bao giờ biết được. Gần đây các cuốn Sử mới xuất-bản ở Hà-Nội hay Sài-G̣n mô-tả thuỷ-chiến Bạch-Đằng năm 980 cũng là một trận đại-thắng, cứu quốc-gia non-trẻ của chúng ta qua cơn nguy-biến bên bờ vực-thẳm nô-lê ngoại-bang. Sau kh́ đọc lại các Sử-liệu cũ mới, nhà giáo Bùi-Văn-Bảo lược-duyệt các “phân-cảnh Bạch-Đằng năm 980” trong cuốn “Lịch-Sử Bằng Tranh” như sau: - Đoàn chiến-thuyền của Lưu-Trừng đang vun-vút lao đi. Bỗng có tiếng chiêng, tiếng trống ầm-ầm nổi lên. Rồi những thuyền lớn chở đầy lính của vua Lê-Đại-Hành ở đâu ập tới. Họ nhảy lên thuyền giặc đâm, chém, đốt, phá. Bị đánh bất-ngờ, Lưu-Trừng phải ra lệnh lui-quân, chạy ra biển. - Lúc này nước thuỷ-triều đă rút. Thuyền giặc bị mắc vào cọc nhọn, tiến lên không được, mà rút-lui cũng không xong. Một phần bị vỡ và đắm, một phần bị bốc-cháy, lửa-khói ngập-trời. Quân lính nhà Tống, kẻ bị đâm-chém, người bị đốt cháy, nhảy bừa xuống sông mà chết, tiếng kêu-khóc vang trời. - Lưu-Trừng bị thương nhẹ ở đầu. Y vội trút bỏ mũ-áo, trà-trộn vào đám lính thường, dùng thuyền nhỏ để chạy trốn ra ngoài cửa-biển thuộc vịnh Hạ-Long. Chưa đầy một ngày mà đoàn thuỷ-quân hùng-hậu của nhà Tống đă bị phá tan. Máu giặc lại một lần nữa loang đỏ cả một khúc sông Bạch-Đằng. Sử-sách như vậy có thể mô-tả chiến-công Bạch-Đằng lần thứ 2 này khác nhau611, nhưng điều cần nhấn-mạnh ở đây là sự ư-thức tầm-mức quan-trọng của quân thuỷ trong sự tồn-vong đất-nước ta ngày đó. Đây là lần duy-nhất trong Việt-Sử, một vị đương-kim Hoàng-Đế thân-chinh nắm quyền chỉ-huy thuỷ-quân trực-tiếp ngoài chiến-trường. Kết-quả sự toàn-thắng của ta và việc đại-bại của địch-quân, dù là trong Sử cũ hay Sách mới đều đi theo số-phận chiến-thuyền Lưu-Trừng mà ch́m trong ḷng-sông, khi mà “Đô-Đốc” địch “ôm đầu máu”, tủi-nhục kéo hạm-đội tơi-tả trốn về Tàu.612
Ba “phân-cảnh Bạch-Đằng năm 980” trong cuốn sách “Lịch-Sử Bằng Tranh”của nhà giáo Bùi-Văn-Bảo: (1) Thuỷ-Quân Việt xung-kích, (2) Các thuyền lớn của địch bị cháy, (3) Tướng Tàu “ôm đầu” và quân lính hỗn-độn trốn-chạy vào bờ bằng thuyền nhỏ..
Lực-lượng chính của quân Tiền-Lê vốn là quân thuỷ “Vạn-Thắng-Vương” trên sông, rạch, đầm, phá trước kia Lực-lượng này đă có công thống-nhất toàn-thể vùng châu-thổ ngập nước của sông Hồng và sông Thái-B́nh về một mối thời nhà Đinh. Ngoài việc dùng quân thuỷ chặn giặc Bắc, Lê-Hoàn đă nhiều lần dùng thuỷ-quân vượt-biển xuôi Nam đánh-tan lực-lượng thuỷ-bộ của Chiêm-Thành. Lê-Hoàn cũng là vị Vua Việt đầu-tiên ư-thức đến việc mở-mang phương-tiện chuyển-vận đường thuỷ trong nội-địa. Nhà Vua khởi-sự cho đào kinh nối thẳng từ Ninh-B́nh xuống Thanh-Hoá. Con kinh này giúp cho đoạn đường thuỷ-vận huyết-mạch từ b́nh-nguyên sông Hồng vào b́nh-nguyên sông Mă không những ngắn hơn mà c̣n an-toàn hơn v́ khỏi ṿng ra ngoài Biển-Đông. Dân Việt đi theo con kinh này trong kế-hoạch bành-trướng đất-đai phương Nam để giải-quyết nạn nhân-măn ở đồng-bằng sông Nhị.613 Truyền-thống Sông-Nước và Hải-Giới thời Vua Lê-Đại-Hành Lê-Hoàn cũng phát-huy truyền-thống sông-nước trong nhân-dân. Nhà Vua chính-thức lấy lễ đua thuyền hàng năm làm quốc-lễ, với ư-thức rơ-ràng rằng nước Việt như một ḥn núi (Nam-Sơn) được đặt trên một thuyền bồng-bềnh sông-nước.614 Lê-Hoàn khuyếch trương quân thuỷ hùng-mạnh, dùng khí-thế uy-dũng của quân-chủng này để nâng cao phong-thể quốc-gia. Nhà Vua cũng lại là người đầu-tiên nghĩ đến việc xác-định hải-phận quốc-gia. Ta xem cách Ngài tiếp-đón Sứ-giả nơi hải-giới Liêm-Châu nhà Tống th́ đủ rơ.
Hải-giới thời Lư-Tống, so-sánh với hải-giới hiện nay. H́nh trích ra từ sách “Chinas March Toward the Tropics” của Harold Wiens [Yale University xuất-bản năm 1954]. H́nh phóng lớn (phía dưới) cho thấy hải-giới Việt-Nam bị cắt lùi lại khoảng 65 Km. Trong "Hành-Lục-Tập", sứ-giả Tống-Cảo đă viết: "Cuối Thu năm ngoái, bọn Cảo chúng tôi đi đến hải-giới Giao-Chỉ, Nha-Nội Đô-chỉ-huy-sứ của Hoàn là Đinh-Thừa-Chính đem 9 chiến-thuyền và 300 quân đến Thái-B́nh-Trường (Liêm-Châu) để đón. Từ cửa sông đi ra biển lớn, xông-pha sóng-gió, trải bao nguy-hiểm, đi nửa tháng trời đến sông Bạch-Đằng615... Đến Trường-Châu th́ đă gần đến kinh-đô nước ấy. Hoàn đem hết thuỷ-quân và chiến-cụ ra để thị-uy. Từ đó đi đêm đến bờ biển, cách Giao-Châu chừng 10 dậm về kinh-đô Hoa-Lư... Hoàn đem dân mặc áo đủ màu, trà-trộn với binh-lính, đi thuyền, đánh trống, reo-ḥ, kéo cờ trắng và dàn thành trận-thế...” Dời đô về Thăng-Long-Thành Vua Lư-Thái-Tổ thấy đất Hoa-Lư chật-hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời-đô về La-Thành. Tháng 7 năm Thuận-Thiên nguyên-niên (1010), th́ khởi-sự dời đô. Khi ra đến La-Thành, Thái-Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-La-Thành là Thăng-Long-Thành, tức là thành Hà-Nội bây giờ. Cải Hoa-Lư làm Trường-An-phủ và Cổ-Pháp làm Thiên-Đức-phủ.
Vua Lư-Thái-Tổ dời đô ra Thăng-Long (sách Quốc-Văn Giáo-Khoa Thư Lớp Dự-Bị, Nha Học-Chính Đông-Pháp xuất-bản 1935).
Quân-đội và Thuỷ-quân thời nhà Lư Sự-kiện quân-đội nhà Lư616 đặt nặng về Hải-quân không thấy Việt-Sử mô-tả chi-tiết. Hồi gần đây, chúng ta được đọc một số nhận-xét mới-mẻ của Giáo-Sư Lê-Đ́nh-Thông tại Pháp về chiến-lược và chiến-thuật của Hải-Quân Việt-Nam. Theo đó, lưu-động-tính của quân-đội triều Lư đặt căn-bản trên hạm-đội. Và do đó, toàn-thể quân-đội hiển-nhiên được coi như một tổ-chức Thuỷ-Quân.617 Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư ghi nhà Lư đóng nhiều chiến-thuyền rất lớn mang tên rất oai-vệ và nhiều du-thuyền có tên rất hoa-mỹ, gần như hàng năm đều có sản-xuất. Tuy vậy, chi-tiết kỹ-thuật và cách-thức sử-dụng tả rất mơ-hồ. Các nhà Sử Việt c̣n cần nghiên-cứu thêm chi-tiết về quân-dụng, tổ-chức cùng chiến-thuật của quân thuỷ nhà Lư.
Hải-Quân đánh Tống Như mọi người đă biết, ngày 27 tháng 10 năm 1075, để phá các căn-cứ xâm-lược của Tống ở trên đất Tống. Lư-Thường-Kiệt đă cho Tướng Tôn-Đản chỉ-huy quân Tầy- Nùng vượt biên-giới đánh vào đất Quảng-Tây, sau đó đến cuối tháng 12 năm 1075, ông thân dẫn thuỷ-quân xuất-phát từ Vĩnh-An đánh Khâm-Châu và Liêm-Châu. Hoàn-thành nhiệm-vụ, Lư-Thường-Kiệt đă chủ-động rút quân về nước để ngăn-cản quân Tống sắp kéo sang xâm-lược Đại-Việt. Ông đă xây-dựng một pḥng-tuyến rất vững-chắc ở bờ Nam sông Cầu nhằm ngăn-chặn quân Tống qua sông để đánh vào Thăng-Long.
Làng Đào Xá, Phú-Thọ có tục bơi-chải, diễn lại sự-tích Lư-Thường-Kiệt cùng dân làng xây-dựng pḥng-tuyến đánh giặc Tống. 618
Lư-Thường-Kiệt lại biết rằng để hỗ-trợ cho bộ-binh do Quách-Quỳ và Triệu-Tiết chỉ-huy, Tống-Thần-Tôn và Vương-An-Thạch đă cho một đạo thuỷ-quân do Dương-Tùng-Tiên chỉ-huy tăng-viện. Đạo thuỷ-quân này có nhiệm-vụ tiến vào sông Bạch-Đằng rồi vào sông Lục-Đầu để cuối-cùng vào sông Cầu giúp bộ-binh của Quách-Quỳ và Triệu-Tiết qua sông. Ông đă sai Tướng mang chu-sư đóng ở Đông-Kênh để chặn đường tiến của thuỷ-quân Tống. Tướng Lư-Kế-Nguyên đă hoàn-thành nhiệm-vụ một cách vẻ-vang, đánh-bại thuỷ-quân của Dương-Tùng-Tiên. Chiến-thắng của Tướng Lư-Kế-Nguyên đă góp phần quan-trọng vào việc làm phá-sản mọi kế-hoạch tiến-công của Quách-Quỳ, buộc họ Quách cuối-cùng phải chấp-nhận rút quân về nước. Thuỷ-quân của nước Đại-Việt dưới triều Lư là một lực-lượng hùng-mạnh, nó đă góp phần quan-trọng vào sự-nghiệp Phá-Tống B́nh-Chiêm vô-cùng hiển-hách. Suốt thế-kỷ XII và đầu thế-kỷ XIII, nó vẫn là một nguồn tự-hào của cả dân-tộc.
Quân-đội triều Lư đặt căn-bản trên Hạm-đội. Khi nắm quyền Nguyên-soái, Lư-Thường-Kiệt thân dẫn thuỷ-quân xuất-phát từ Vĩnh-An đánh Khâm-Châu và Liêm-Châu.
Nam-Quốc Sơn-Hà Vào triều Lư-Nhân-Tôn (1072-1127) nhà Tống đem binh sang đánh, thế mạnh như hổ dữ; tháng chạp năm Bính-Th́n (1076) quân Tống vào địa-hạt nước ta, nhà vua sai Lư-Thường-Kiệt đem binh cự-địch. Lư-Thường-Kiệt đánh chẹn quân Tống ở sông Như-Nguyệt (tức sông Cầu bây giờ) quân Tống thua, chết trận hơn 1000 người. Chiêu-thảo-sứ Quách-Qú tiến quân về đóng ở phía tây sông Phú-Lương, Thường-Kiệt lại đem binh-thuyền đón-đánh ngăn không cho quân Tống qua sông. Quân Tống chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta thủng-nát mất nhiều, quân-sĩ chết mấy ngh́n người. Lúc bấy giờ, quân Tống đánh hăng lắm, Thường-Kiệt hết-sức chống-giữ nhưng sợ quân ḿnh có ngă-ḷng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ: Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư, Tiệt-nhiên định-phận tại thiên-thư Như hà nghịch-lỗ lai xâm-phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư! Dịch: (Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành phân-định ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm-phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi-bời) Quân lính nghe đọc mấy câu thơ ấy ai nấy đều nức ḷng đánh giặc, quân nhà Tống không tiến lên được. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này đă được ghi vào lịch-sử coi như bản “Tuyên-Ngôn Độc-Lập Đầu-Tiên” của dân-tộc ta: Xin ghi thêm: anh-hùng Lư-Thường-Kiệt (1019-1105), tức Ngô-Tuấn, sinh ra và lớn lên ở phường Cơ-Xá, về sau là đất cấm-thành, với chiến-công lẫy-lừng đánh Tống và với hai áng văn thuộc loại tác-phẩm khai-sáng cho nền văn-học viết về dân-tộc: bài thơ huyền-thoại Nam-quốc Sơn-hà và hịch Lộ-bố-văn.619
Bài vị của danh-tướng Lư-Thường-Kiệt tại Đền Cơ-Xá tức “Cơ-Xá linh-tự”, Hà-Nội.
Quốc-nạn từ Đường biển: Chiêm-Thành Dân Chiêm-Thành là những thuỷ-thủ lành nghề, một số làm hải-tặc hay cướp bóc ngoài biển. Quân-đội Chiêm-Thành quen cậy hung-mạnh thường hay quấy-nhiễu dân ta, ngay từ thế-kỷ thứ hai đời vua Hoà-Đế (102 sau Công-lịch) nhà Đông-Hán. Từ khi nước ta giành được độc-lập, việc đánh Chiêm-Thành trở nên nhiệm-vụ thường-xuyên của quân thuỷ. Cuộc đụng-độ Việt-Chiêm xảy ra ngay từ giai-đoạn hai triều vua Đinh, Lê. Sứ-quân Ngô-Nhật-Khánh không chịu thần-phục nhà Đinh, chạy qua Chiêm-Thành xui Chiêm đem quân tấn-công vào đất Việt. Năm Kỷ-Măo (979) hơn một ngàn chiến-thuyền Chiêm tiến vào cửa Đại-An sông Đáy. Không may cho họ, một trận băo nổi lên đánh-ch́m cả hạm-đội. Nhật-Khánh cùng phần lớn quân Chiêm làm mồi cho cá. Quân Chiêm gặp trận "Thần-Phong" không đánh đă tan. Thuỷ-quân Việt tại kinh-đô Hoa-Lư tuy sẵn-sàng tác-chiến nhưng không phải ra-tay. Trong cuộc Nam-tiến, lực-lượng địch trực-tiếp đối-đầu với ta thường là hải-quân Chiêm-Thành. Sách "Việt-sử xứ Đàng-Trong" nói đến khả-năng của họ như sau: "Thuỷ-quân Chiêm-Thành gồm những thuyền lớn, trên có pháo-tháp và những thuyền nhẹ. Trong nhiều trận đánh, người ta thấy hạm-đội gồm hơn trăm chiến-thuyền yểm-trợ lục-quân... Người Chàm là giống người hung-bạo, gan-dạ, và là những thuỷ-thủ cang-cường. Sống ở những thung-lũng chật-hẹp dọc theo duyên-hải, phía Tây ngăn-chặn bởi núi cao, phía Đông là bể cả, họ phải đi t́m những ǵ đất họ không có. V́ vậy họ thường mưu-đồ tiến ra phía Bắc, tiến vào phía Nam, xâm-chiếm những đồng-bằng ph́-nhiêu của Việt-Nam và của Chân-Lạp. Với những ghe nhẹ lướt trên biển-cả, họ cũng thường tấn-công các thương-thuyền đi ngang qua hải-phận họ để cướp bóc.
H́nh-ảnh thuỷ-chiến giữa Chiêm-Thành và Cambodge trên Biển-Hồ Tonlé-Sap. Thuỷ-quân Chiêm-Thành đầu đội nón h́nh hoa sứ. Lính chèo thuyền ngồi trong khoang, có giáp che-trở. Lính tác-chiến cầm khiên, chuẩn-bị phóng lao. (H́nh trạm nổi trên đá tại đền Angkor-Wat).
Người Chiêm-Thành: Thuyền-nhân thời-cổ Khảo-cổ-học cho biết tính-cách liên-tục của nền văn-minh nước ta. Dân-tộc ta cũng được chứng-minh là dân bản-địa. Trường-hợp người Chàm hơi khác, người ta biết chắc-chắn Tổ-tiên họ là thuyền-nhân đă di-cư đến bờ-biển Trung-Việt ngày nay, sau khi người Việt Văn-Lang chúng ta lập-quốc rất lâu. Giáo-sư Phan-Khoang viết về những ngày đầu của nước Chiêm-Thành như sau: “Tổ-tiên người Chàm từ các hải-đảo Mă-Lai, Nam-Dương tràn lên bờ-biển Trung-Việt ngày nay từ nhiều thế-kỷ trước Tây-lịch kỷ-nguyên. Ở đây, họ tiếp-xúc với thổ-dân là người Kiritas, thuộc giống Indonésiens; số người Kiritas không chịu họ chế-ngự nên dồn lên các miền núi Trường-Sơn, những người ấy sau này chúng ta gọi là Mọi.”620 Căn-cứ trên những tài-liệu của Blust (The Austronesian Homeland, 57), của W. G. Solheim ('Pottery and the Malayo-Polynesians', Current Anthropology, 5 (1964); Peter Bellwood đưa ra giả-thuyết là nhờ đi theo những đường giao-thương và trao-đổi văn-hoá ngang qua Biển-Đông trong khoảng một thiên-kỷ trước Công-nguyên, người Chàm đă dùng thuyền di-cư đến sinh-sống tại vùng Sa-Huỳnh, Trung-Việt ngày nay.621 Dân Chiêm-Thành như vậy, rất có thể phát-triển từ các bộ-lạc Hải-Du vùng đảo Bornéo. Hải-Quân Vua Lư-Thái-Tông đánh Chiêm Ngay thời Lư-Thái-Tổ, tháng chạp năm Canh-Thân (1020) vua đă sai Khai-Thiên-Vương và Đào-Thác-Phụ đi dẹp loạn Chiêm-Thành tại trại Bố-Chính (Quảng-B́nh ngày nay). Quân ta chém được Tướng Chiêm là Bồ-Linh. Quân Chiêm đại-bại.
Vua Lư-Thái-Tổ không những vũ-dũng mà lại nhân-từ nữa. (H́nh QVGKT Lớp Dự-Bị).
Khi Thái-Tông lên làm vua đă hơn 25 năm mà nước Chiêm-Thành không chịu thông sứ, lại cứ quấy-nhiễu mặt biển. Thái-Tông bèn sắp-sửa binh-thuyền sang đánh Chiêm-Thành. Năm Giáp-Thân (1044) vua ngư-giá đi đánh. Quân Chiêm-Thành dàn trận ở phía nam sông Ngũ-Bồ (?), Thái-Tông truyền thúc quân đánh-tràn sang. Quân Chiêm-Thành thua chạy. Quân ta bắt được hơn 5,000 người và 30 con voi. Tướng Chiêm-Thành là Quách-Gia-Di chém Quốc-Vương là Sạ-Đẩu đem đầu sang xin hàng. Quan-quân chém giết người bản-xứ rất nhiều. Vua Thái-Tông động ḷng thương, xuống lệnh cấm không được giết người Chiêm-Thành, hễ ai trái lệnh th́ theo phép quân mà trị-tội. Thái-Tông đưa binh-thuyền tiến đến quốc-đô là Phật-Thệ (nay ở làng Nguyệt-Biều, huyện Hương-Thuỷ, tỉnh Thừa-Thiên), vào thành bắt được Vương-Phi là Mị-Ê và các cung-nữ đem về. Khi đoàn thuyền xa-giá về đến sông Lư-Nhân, Thái-Tông cho đ̣i Mị-Ê sang chầu bên thuyền ngự, Mị-Ê giữ tiết không chịu, quấn chiên lăn xuống sông mà tự-trầm. Nay ở phủ Lư-Nhân c̣n có đền thờ.
Vương-phi Mị-Ê khi được lệnh sang chầu bên thuyền ngự, đă giữ tiết không chịu, quấn chiên lăn xuống sông mà tự-trầm.
Thuỷ-Quân B́nh-Chiêm thời Lư-Thánh-Tôn Trong các đời vua trước, cái cớ đánh Chiêm-Thành là v́ tội bỏ tiến-cống. Đến đời Lư-Thánh-Tôn, vua dựa vào tội Chiêm thờ hai chủ: vừa xưng-thần với Việt nay lại thần-phục nhà Tống. Năm 1068, vua Lư-Thánh-Tôn ra lệnh sửa-soạn thuyền chiến dùng hải-đạo đánh Chiêm. Mỗi chiến-thuyền chở 250 quân-sĩ. Tổng-số thuyền chở lương-thực có tất cả 200 chiếc. Quân viễn-chinh vào khoảng 30,000 người đặt dưới quyền điều-khiển của Lư-Thường-Kiệt. Từ biên-giới Việt-Chiêm đến cửa Thị-Nại tức cửa-biển Quy-Nhơn sau này, Chiêm-Thành có các cửa-biển sau đây: Cửa Di-Luân tức cửa Ṛn ở cực bắc. Cửa-biển này nhỏ nên không thể là một căn-cứ thuỷ-quân. Cửa-biển thứ hai là cửa Bồ-Chánh hay cửa Gianh. Cửa-biển này rộng, nhưng lại cạn, nên cũng không thể là một căn-cứ thuỷ-quân quan-trọng được. Cửa-biển thứ ba là cửa Nhật-Lệ, sau này là cửa Đông-Hà. Nhật-Lệ là một cửa-biển lớn. Chế-Củ đă tập-trung một phần quan-trọng thuỷ-quân ở đây, Cửa-biển thứ tư là cửa Tư-Dung sau gọi là Tư-Hiền. Tại cửa-biển này không có thuỷ-quân Chiêm hay có nhưng không đáng kể. Cửa-biển thứ năm là cửa Thị-Nại tức cửa-biển Quy-Nhơn. Đây là cửa ngơ vào cánh-đồng B́nh-Định, nơi có kinh-đô Chà-Bàn (Vijaya) của Chế-Củ. Một bộ-phận quan-trọng của thuỷ-quân Chiêm đóng ở cửa Thị-Nại. C̣n đại-bộ-phận bộ-binh đóng ở Chà-Bàn và cánh đồng-bằng B́nh-Định. Ngày 8 tháng 3 năm 1086, vua Lư-Thánh-Tôn giao việc nước cho Ỷ-Lan Nguyên-phi và Tể-Tướng Lư-Đạo-Thành rồi xuống thuyền xuôi ḍng sông Hồng bắt đầu cuộc Nam-chinh. Chiến-thuật của Thuỷ-quân Đại-Việt Cuộc hành-quân của Lư-Thánh-Tôn và Lư-Thường-Kiệt tỏ ra phía Đại-Việt nắm rất rơ việc bố-trí lực-lượng của nước Chiêm-Thành, cho nên thuỷ-quân Đại-Việt không đánh cửa Di-Luân và cũng không vào cửa Bố Chánh, mà tiếp thẳng vào cửa Nhật-Lệ và đă đánh tan thuỷ-quân Chiêm ở đây, Thuỷ-quân Chiêm bị phá hoàn-toàn ở Nhật-Lệ có nghĩa là thuỷ-quân Đại-Việt có thể cứ giương-buồm thuận-gió tiến thẳng vào Nam, mà không sợ bất-cứ lực-lượng nào đánh vào lưng ḿnh nữa. Cho nên sau khi đánh thắng thuỷ-quân Chiêm, thuỷ-quân Đại-Việt không chiếm đất và cũng không đổ-bộ: quân Đại-Việt thuận-buồm tiến xuống phía Nam rồi vào cửa Tư-Dung để nghỉ-ngơi ở đó, chuẩn-bị một trận quyết-chiến sắp diễn ra. Ngày 3 tháng 4 năm 1069, thuỷ-quân Đại-Việt vào cửa Thị-Nại rồi đổ-bộ ở ven bờ Vũng Nước-Mặn. Sau đó quân Đại-Việt tiếp đến sông Tu-Mao để đánh-tan quân Chiêm ở đó... 622 Chiến-dịch “B́nh-Chiêm” toàn-thắng trong chớp-nhoáng rơ-ràng nhờ sức-mạnh ưu-việt của mũi-dùi thần-tốc xuyên-phá địch của quân thuỷ.
Tiến-tŕnh cuộc hành-quân của Vua Lư-Thánh-Tôn. Vị-trí các cửa-biển Chiêm-Thành được tŕnh-bày tương ứng với những địa-danh hiện nay.
Đă giành lại quyền Tự-chủ, Thuỷ-quân c̣n mở rộng Biên-cương Việt-Sử không những đă khiếm-khuyết trong việc tŕnh-bày thành-tích hải-quân mà c̣n sai-lạc khi b́nh-luận về vai-tṛ của quân-chủng này về việc mở rộng biên-cương: - Thuỷ-quân nhà Lư mạnh, biên-cương nước ta ăn sâu vào Trung-Quốc hàng 300 đến 400 cây-số. Có thể v́ sau này thuỷ-quân cứ suy-thoái, dân Việt không bao giờ c̣n trở lại đất xưa, ta đành cam-nhận chịu ranh-giới như hiện nay. Xem cuốn sách “China's March Towards the Tropics” th́ ta biết rơ ranh-giới Bách-Việt cứ lùi xa về Nam.623 - Sau khi Bắc-tiến bị chặn lại, thuỷ-quân chính là nỗ-lực trong mũi dùi Nam-tiến. Nh́n chung những sử-sách cận-đại của CHXHCN đă không chấp-nhận một sự-kiện hiển-nhiên rằng: Hải-quân nhà Nguyễn nối cánh tay dài, bảo-vệ toàn-dân trải dài cuộc định-cư từ Quảng-Nam đến mũi Cà-Mau. Về phía Tây, lực-lượng ấy bao-trùm an-ninh tận Hà-Tiên. Phía Đông Hải-quân đă tuần-pḥng Hoàng-Sa Trường-Sa, trước khi bị giặc Pháp tiêu-diệt. Nói tóm lại, nếu không có hải-quân hùng-mạnh, Việt-quân không thể Bắc-tiến đánh Tống và Nam-tiến B́nh-Chiêm được. Sử Việt-Nam và Trung-Hoa c̣n ghi một chi-tiết nữa chứng-minh sức mạnh quân thuỷ của một nước nhỏ đă làm cho “thiên-triều” tuy e-ngại mà đành bỏ qua. Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư - Bản kỷ I-21b chép rằng: Bấy giờ nhà Tống ngại việc chinh-chiến, vua nhà Lư cậy có núi và biển hiểm-trở, buông-thả cho dân biên-giới lấn cướp vào cơi của nhà Tống. Mùa xuân năm ấy, Chuyển-vận-sứ Lộ Quảng-Tây nước Tống là Trương-Quan, Binh-mă giám-áp-trấn Như-Hồng thuộc Khâm-Châu là Vệ-Chiêu-Mỹ đều tâu rằng chiến-thuyền của Giao-Chỉ hơn trăm chiếc, xâm-phạm trấn Châu-Hồng, cướp-bóc cư-dân và lương-thực rồi đi. Mùa hạ năm ấy, châu Tô-Mậu nước ta lại đem 5 ngh́n hương-b́nh xâm-lược Ung-Châu… Vua Tống muốn vỗ-yên, không muốn dụng-binh, bỏ không hỏi đến. Trường-hợp Hoàng-Thân Lư-Long-Tường Nhưng vào khoảng năm 1226 một việc đáng-tiếc đă xảy ra. Chúng ta đều biết rằng tháng chạp năm Ất-Dậu (1225) do mưu-mô của Trần-Thủ-Độ, Lư-Chiêu-Hoàng lấy Trần-Cảnh rồi nhường ngôi vua cho chàng. Khi ngôi vua đă về tay họ Trần. Trần-Thủ-Độ t́m cách hăm-hại những người họ Lư. Thuỷ sư Đô-đốc chỉ-huy toàn-bộ chu-sư của nhà Lư bấy giờ là Lư-Long-Tường. Lư-Long-Tường cho rằng do cương vị trọng-yếu của ông (Tư-Lệnh thuỷ-quân toàn-quốc), sớm muộn ông có thể bị Trần-Thủ-Độ sát-hại. Cho nên vào một ngày nào đó năm Bính-Tuất (1226), sau một thời-gian chuẩn-bị, ông đă đem vợ-con, gia-nhân đầy-tớ, tướng-lĩnh cùng hạm-đội rời đất-nước Đại-Việt tiến lên phía Bắc và cuối-cùng đă xin cư-trú ở nước Triều-Tiên (theo Tạp-chí Sử-học của Nhật-Bản số 2 năm 1941). Sử của Việt-Nam không hề nói đến việc trên. Nhưng chúng ta tin rằng việc đó là có thực. T́nh-h́nh xă-hội Đại-Việt sau khi nhà Trần lên thay nhà Lư rất dễ đề ra những nhân-vật như Lư-Long-Tường 624. Bước đầu của họ Trần: Dân Di-Cư đường Biển Họ Trần được tiếng oanh-liệt v́ những trận thuỷ-chiến thắng Nguyên-Mông. Tuy vậy ít ai đă lưu-tâm đến nguồn-gốc di-dân đường biển của tiền-nhân ḍng Vua này. Ảnh-hưởng thuyền-nhân như vậy đôi lần đă tác-dụng mạnh-mẽ trên lịch-sử nước ta. Việt-Nam Sử-Lược của Trần-Trọng-Kim viết rất ít câu sơ-sài về những ngày đầu của họ Trần như sau: Khi Thái-Tử Sam, con vua Lư-Cao-Tông chay loạn, về Hải-Ấp vào ở nhà Trần-Lư. Nguyên Trần-Lư là người làng Tức-Mạc (huyện Mỹ-Lộc, phủ Xuân-Trường, tỉnh Nam-Định) làm nghề đánh cá, nhà giàu, có nhiều người theo phục. Sau nhân buổi-loạn cũng đem chúng đi cướp-phá... T́m hiểu kỹ hơn nữa, các nhà nghiên-cứu t́m thấy tổ-tiên Trần-Lư là nhóm người Phước-Kiến mới đến Tức-Mặc không lâu. Ḍng họ này tiếp-tục giữ những cổ-tục riêng, khác với hầu-hết dân Đại-Việt cho đến nhiều đời sau.625 Ông Claude Madrolle trong bài "Le Tonkin Ancien" đă phát-biểu ư-kiến là ở Phước-Kiến có một nhóm Việt-tộc làm nghề chài-lưới, hàng-hải đă dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hàng năm theo gió-mùa, nhân gió-bấc phiêu-lưu theo dọc miền duyên-hải rồi ghé vào miền trung-châu sông Nhị, sông Mă (Việt-Nam.) Nhóm này cũng có phen xuống cả Nam-Dương, rồi lại nhân tiết gió-nồm quay về căn-cứ. Một số đă ở lại sinh-sống 626... Tục vẽ chàm và Tinh-thần Quyết-tử của Quân-đội đời Trần Nhà quân-sử Phạm-Văn-Sơn viết rằng : Xét lại các cuộc xung-đột với giặc Nguyên, ta có thể nói lực-lượng thuỷ-quân của Việt-Nam đời Trần thuở đó khá mạnh. Nhờ đó, ta đă thắng địch oanh-liệt ở các bến Chương-Dương Hàm-Tử, Vân-Đồn, Bạch-Đằng. Duy quân-số bao nhiêu, sử ta không cho biết.627 Trong thuỷ-quân, có các đội Trạo-Nhi gồm những trai tráng khỏe-mạnh628 (trang 64) Từ xưa, người Việt-Nam, kể cả hoàng-thân quốc-thích và vua chúa đều giữ cổ-tục của thuỷ-dân là vẽ chàm trên ḿnh. Về đời Trần, Việt-sử ghi chép thêm một vài h́nh-thức đặc-biệt khác. Người lính trong quân-đội đời Trần đều có thích chàm ở cánh tay hai chữ “Sát-Thát” để tỏ ư quyết-tâm sống mái với giặc Mông-Cổ. Như vậy họ chỉ có một sống một chết với giặc, giặc bắt được thấy 2 chữ “Sát-Thát” ắt không khi nào có sự dung-tha. Đời Trần-Anh-Tôn (1293-1314), binh-sĩ phải thích ba chữ trên trán như "Thượng-Chân-Độ", "Toả-Kim-Cương", "Thuỷ-Dạ-Soa" ngoài sự thích rồng ở lưng và ở đùi629. Ba chữ “Thuỷ-Dạ-Soa” có lẽ dành riêng cho các thuỷ-thủ. Vai-tṛ Thuỷ-quân trong những trận kháng giặc Nguyên-Mông Sau khi trừ xong các tôn-thất-nhà Lư. Trần-Thủ-Độ tính ngay đến việc tăng cường lực-lượng vũ-trang. Năm 1246, ông đă tuyển thêm quân mới lấy thêm người để chèo các thuyền chiến của nhà nước. Nhờ vậy cho nên ngày 24 tháng chạp năm Mậu-Ngọ tức ngày 29 tháng 1 năm 1258, chiến-thuyền nhà Trần từ căn-cứ Thiên-Mạc đă ngược ḍng sông Hồng trở về Thăng-Long đánh-bại quân Mông Cổ ở Đông Bộ Đầu, buộc quân giặc phải rút khỏi Thăng-Long chạy về Vân-Nam để khỏi bị tiêu-diệt hoàn-toàn. Tháng 8 năm Giáp-Thân (1284), sau khi được cử giữ chức Quốc-Công Tiết-chế thống-lĩnh toàn quân-đội, Trần-Quốc-Tuấn đă tổ-chức một cuộc duyệt-binh lớn ở Đông-Bộ-Đầu. Sau đó ông lại hội quân trong đó có thuỷ-quân ở Vạn-Kiếp. Trong cuộc kháng-chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285), sử cũ của ta chỉ nói Chiêu-Thành-Vương, Hoài-Văn-Hầu Trần-Quốc-Toản, Nguyễn-Khoái và Trần-Nhật-Duật đem quân đánh quân giặc ở Tây-Kết, Hàm-Tử. Chương-Dương, mà không cho biết quân đó là quân bộ hay quân thuỷ. Do chỗ Tây-Kết, Hàm-Tử, Chương-Dương đều là những địa-điểm nằm ở bên tả hoặc ở bên hữu sông Hồng, chúng tôi đoán rằng các cánh-quân đánh các địa-điểm nói trên trước hết có thuỷ-quân. Như thế có nghĩa là quân Trần, chủ-yếu là thuỷ-quân đă ngược ḍng sông Hồng đánh Tây-Kết, rồi đánh Hàm-Tử, rồi đánh Chương-Dương. Sau khi quân Trần giải-phóng Chương-Dương, th́ Thoát-Hoan bỏ Thăng-Long vượt sông chạy sang bờ Bắc, nếu không th́ quân Trần cứ thẳng ḍng sông mà tiến lên đánh Thăng-Long rồi.
Đền thờ Ông Trần-Quốc-Tuấn ở Kiếp Bạc (H́nh QVGKT Lớp Dự-Bị).
Mùa xuân năm Mậu-Tư (1288), Trần-Khánh-Dư cả phá đoàn thuyền lương của Trương-Văn-Hổ chở 70 vạn thạch lương qua vùng biển Vân-Đồn. Mở đường cho đoàn thuyền lương là 500 chiến-thuyền hung-mạnh do Ô-Mă-Nhi chỉ-huy. Trần-Khánh-Dư đă để cho đoàn chiến-thuyền của Ô-Mă-Nhi qua vùng biển Vân-Đồn. Đoàn chiến-thuyền qua Vạn-Ninh (Mống-Cái), núi Ngọc mà không gặp một sức chống-cự nào đáng kể cả. Sau đó đoàn chiến-thuyền đến An-Bang, và chỉ thấy thuỷ-quân Đại-Việt chống-cự một cách yếu-ớt mà thôi. Ô-Mă-Nhi chủ-quan cho lực-lượng thuỷ-quân Đại-Việt chỉ có thế, cho nên sau khi vào cửa An-Bang, y cho đoàn chiến-thuyền vào cửa Bạch-Đằng để vào Vạn-Kiếp, bỏ lại đoàn thuyền lương của Trương-Văn-Hổ ở đằng sau không có chiến-thuyền bảo-vệ. Khi đoàn thuyền lương của Trương-Văn-Hổ lọt vào trận-địa phục-kích ở vùng biển Vân-Đồn, Trần-Khánh-Dư ra lệnh cho chiến-thuyền Đại-Việt đổ ra đánh. Bị đánh bất-ngờ, đoàn thuyền rối-loạn, nhiều chiếc bị đắm, nhiều chiếc khác bị bắt. Trương-Văn-Hổ phải đổ thóc xuống biển rồi chạy trốn về Quỳnh-Châu thuộc đảo Hải-Nam.
Đoàn thuyền lương của Trương-Văn-Hổ lọt vào trận-địa phục-kích, có chiếc bị cháy.
Chiến-thắng Vân-Đồn vào tháng 1 hoặc đầu tháng 2 năm 1288 là một đ̣n rất nặng-nề giáng vào quân xâm-lược, không những làm cho chúng mất hết lương ăn mà c̣n làm cho chúng tiêu-tan hết ư-chí chiến-đấu. Các tướng-lĩnh đă nói với Thoát-Hoan: "Ở Giao-Chỉ không có thành-tŕ để giữ, không có lương-thực để ăn mà thuyền lương của Trương-Văn-Hổ lại không đến. Vả lại khi trời đă nóng-nực, sợ lương hết quân mệt không lấy ǵ chống-giữ lâu được, làm hổ-thẹn cho triều-đ́nh, nên toàn-quân mà về th́ hơn" Thần-nỗ Tổng-quản là Giả-Nhược-Ngu cũng nói: "quân nên về không nên giữ". Cuối-cùng Thoát-Hoan chia quân Mông-Cổ ra làm hai đạo: Đạo thuỷ-binh do Ô-Mă-Nhi chỉ-huy theo đường biển về trước. Sau đó đạo bộ-binh do Thoát-Hoan chỉ-huy sẽ về sau.
Thuỷ-chiến Bạch-Đằng năm 1288 là chiến-thắng vào cỡ lớn nhất trong lịch-sử Việt-Nam. Ngày mồng 7 tháng 3 năm Mậu-Tư tức ngày 8 tháng 4 năm 1288, đoàn chiến-thuyền của Ô-Mă-Nhi đến Trúc-Động trên sông Giá. Sáng ngày 8 tháng ba tức ngày 9 tháng 4, Ô-Mă-Nhi đến sông Bạch-Đằng, quân Trần trên thuyền nhẹ ra đón-đánh rồi giả-thua chạy nhử quân giặc vào băi cọc mà Trần-Quốc-Tuấn đă cho đóng từ trước. Đoàn chiến-thuyền giặc vào trận-địa phục-kích của quân ta vào lúc nước triều đang rút. Phục-binh Đại-Việt từ các phía thuỷ bộ đổ ra đánh. Thuyền giặc vướng phải cọc bị vỡ rồi bị đắm rất nhiều, nước triều càng xuống nhanh, thuyền giặc càng bị vỡ và bị đắm càng nhiều. toàn-bộ đoàn chiến-thuyền bị tiêu-diệt. Vạn-bộ thuỷ-quân Trương-Ngọc bị giết ngay tại trận. Phàn-Tiếp bị bắt sống. Ô-Mă-Nhi cũng bị bắt sống. Số thuyền giặc bị quân ta bắt được lên đến trên bốn trăm chiếc. Đây là chiến-thắng Bạch-Đằng lần thứ ba. Trước đó đă có chiến-thắng Bạch-Đằng lần thứ nhất năm 938, và chiến-thắng Bạch-Đằng lần thứ hai năm 981. Chiến-thắng Bạch-Đằng năm 1288 là một chiến-thắng trên thuỷ vào cỡ lớn nhất trong lịch-sử Việt-Nam. Thuỷ-quân Việt-Nam hồi thế-kỷ XIII là một quân-chủng tài-giỏi đă góp phần quan-trọng vào sự-nghiệp bảo-vệ đất-nước. Trong thuỷ-quân đó nổi-bật lên vai-tṛ của Yết-Kiêu và Dă-Tượng. Yết-Kiêu và Dă-Tượng vốn là gia-nô của Trần-Quốc-Tuấn được Ngài nuôi-nấng và giáo-dục, rồi trở-thành những kiện-tướng đánh đặc-công rất tài-t́nh ở dưới nước. Yết-Kiêu và Dă-Tượng thường lặn dưới nước đến đục-phá chiến-thuyền của quân Nguyên hoặc kéo chiến-thuyền địch xa rời vị-trí của chúng rồi bất-ngờ cướp chiến-thuyền địch. Trong lịch-sử đấu-tranh chống ngoại-xâm của dân-tộc Việt-Nam, Yết-Kiêu và Dă-Tượng630 nổi-bật lên là những chiến-sĩ mở-đầu lối đánh đặc-công: Lối đánh cực-kỳ táo-bạo chỉ dùng rất ít lực-lượng mà có thể gây cho địch những tổn-thất rất nặng-nề.
Tượng-đài Trần-Hưng-Đạo, Yết-Kiêu, Dă-Tượng tại công-viên Trần-Hưng-Đạo, thành-phố Phan-Thiết.
“Người-Nhái” Yết-Kiêu, cũng như Dă-Tượng thường lặn dưới nước, đục phá chiến-thuyền của quân Nguyên.
Việc phục-kích trên con Sông Chiến-lược Bạch-Đằng Chiến-lược, chiến-thuật kháng Nguyên của nhà Trần đă được cơ-quan quân-sự cũng như nhiều người nghiên-cứu. Nhiều điểm thắc-mắc vẫn c̣n được nêu ra. Nhân buổi nói chuyện về đời Trần tại California Hoa-Kỳ mới đây, một tham-dự-viên có hỏi rằng: Việt-Nam là một quốc-gia ṿng theo biển. Tuy-nhiên, học sử tôi không thấy được các trận chiến-thắng của ta ở cửa-biển. Phần lớn, ta thắng giặc ở sông-ng̣i. Tôi không hiểu tại sao chúng ta lại không chặn giặc ngay khi chúng mới đổ-bộ xuống cửa-biển của ḿnh, mà phải để chúng vào đất-liền, rồi dụ chúng vào sông Bạch Đằng đóng cọc mà thắng? Ông Lê-Bắc, một người đọc nhiều và cũng viết nhiều về Việt-Sử đă trả lời rằng: Thật ra các trận đánh ở sông Bạch-Đằng là ở ngay gần cửa-biển. Sông Bạch-Đằng đổ ra vịnh Hạ-Long ở cửa Nam-Triệu (tỉnh Quảng-Yên). ở vịnh Hạ-Long, ngay gần bờ có ḥn đảo, trên đó có hang Đầu-Gỗ (dấu gỗ ???). Tương-truyền khi xưa đức Trần-Hưng-Đạo đă dấu các cọc gỗ trong đó trong khi chuẩn-bị cho trận phục-kích ở sông Bạch-Đằng. Về mặt quân-sự th́ ở ngoài biển rộng, trống-trải khó đánh, hơn nữa quân giặc đâu có đổ-bộ lên cửa-biển, chúng dùng chiến-thuyền vào sông để ngược lên tới Thăng-Long, cho nên phục-kích hai bên bờ sông chật-hẹp để đợi giặc từ cửa-biển vào và dùng xạ-tiễn, hoả-công để đánh là một điều hợp-lư. Khi Thuỷ-quân yếu, Nước Non Nhà Trần Nghiêng-ngả. Quân nhà Trần, đặc-biệt nhất là thuỷ-quân thời Đức Trần-Hưng-Đạo hùng-mạnh như vậy, nhưng từ Vua Trần-Dụ-Tôn (1341-1369) về sau, nhà Trần suy-yếu nhanh-chóng, khởi-nghĩa của gia-nô đă bùng ra ở nhiều nơi. Trong bối-cảnh lịch-sử đó, thuỷ-quân của nước Đại-Việt cũng càng ngày càng mất dần t́nh-thần chiến-đấu. Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư chép rằng: Người Chiêm thấy binh-thế nước Nam suy-nhược, có ư khinh-dễ, cho nên qua năm Mậu-Thân (1368) vua nước Chiêm cho sứ sang đ̣i đất Hoá-Châu. Bấy giờ nước Nam ta, vua Dụ-Tông chỉ lo việc hoang-chơi, không tưởng ǵ đến việc vơ-bị; mà ở bên Chiêm-Thành th́ có Chế-Bồng-Nga là một vị vua anh-hùng (rất giỏi thuỷ-chiến), có ư đánh An-Nam để rửa những thù trước. quân Chiêm-Thành từ đó mạnh lắm, sau đánh-phá thành Thăng-Long mấy lần, làm cho vua tôi nhà Trần phải kinh-sợ mấy phen.631 Tháng ba năm Tân-Sửu (1361), thuỷ-quân Chiêm đột-nhiên vượt-biển tiến ra Bắc đánh Lâm-B́nh, nhưng bị quân Đại-Việt đánh lui. Năm Tân-Hợi (1371) thuỷ-quân Chiêm-Thành bất-ngờ tiến vào sông Hồng rồi cướp-phá Thăng-Long. Năm Đinh-Tị (1377) thuỷ-quân Chiêm lại đánh-chiếm Thăng-Long lần thứ hai, chúng cướp của, bắt người rồi rút về. Những hành-động xâm-lược của quân Chiêm làm cho nhà Trần lo-ngại. Năm Quư-Sửu (1373) ngay khi vừa lên ngôi vua, Trần-Duệ-Tôn đă cho tuyển thêm quân-đội sửa-soạn chiến-thuyền để đánh Chiêm-Thành. Tháng giêng năm Đinh-Tị (1377) nhà vua thân cầm-quân đi đánh Chiêm-Thành, bị vua Chiêm là Chế-Bồng-Nga đánh-bại. Nhà vua chết tại trận. Trận đại-bại của Trần-Duệ-Tôn (1377) khuyến-khích mưu-mô xâm-lược của Chế-Bồng-Nga. Tháng 5 năm Mậu-Ngọ (1378) thuỷ-quân Chiêm do Chế-Bồng-Nga chỉ-huy vượt-biển tiến vào Đại hoàng giang, rồi ngược ḍng sông đánh-chiếm Thăng-Long. Quân Chiêm vơ-vét tài-sản, bắt nhiều người rồi lại xuống thuyền rút về nước. Nhà Trần lúc này đang suy-yếu nghiêm-trọng. Đó là điều-kiện thuận-lợi để quân Chiêm luôn-luôn ra xâm-lược nước Đại-Việt. Tháng 2 năm Nhâm-Tuất (1382) thuỷ-quân Chiêm lại ra đánh Thanh-Hoá, nhưng bị thất-bại. Tháng sáu năm Quư-Hợi (1383), thuỷ-quân Chiêm bất-ngờ tiến ra đổ-bộ vào một nơi nào đó của nước Đại-Việt, rồi đi đường núi đánh vào miền Quảng-Oai làm cho kinh-thành Thăng-Long náo-động, Thượng-hoàng Nghệ-Tôn phải lánh sang Đông-Ngàn ở bờ Bắc sông Hồng. Tháng 10 năm Kỷ-Tị (1381), thuỷ-quân Chiêm-Thành tiến ra đánh Thanh-Hoá. Hồ-Quư-Ly mang thuỷ-quân ra chống cự. Quư-Ly cho đóng cọc gỗ ở sông Lương, rồi đem thuyền vây chung-quanh. Quân Chiêm đắp đập ở thượng-lưu để mai-phục quân và voi chiến, rồi giả vờ dọn-dẹp quanh trại để kéo quân về. Quư-Ly cho quân xô ra đánh. Quân Chiêm phá đập rồi lùa voi chiến ra trận. Chiến-thuyền của Quư-Ly bị nước từ thượng-lưu dồn vào một chỗ, không sao tiến lên được, bộ-binh của Quư-Ly bị quân Chiêm giết hết. Quư-Ly phải bỏ quân-đội trốn về.
Vũ-Nữ Chiêm-Thành. Trận Thuỷ-Chiến cuối-cùng của Chế-Bồng-Nga Tháng 11 năm Kỷ-Tị, quân Chiêm tiến ra Hoàng-Giang, vua Trần-Thuận-Tôn sai Đô-Tướng là Trần-Khát-Chân mang quân ra chống-cự. Lúc này, một tôn-thất nhà Trần là Trần-Nguyên-Diệu đầu-hàng quân Chiêm-Thành. Chế-Bồng-Nga liền dùng ngay Nguyên-Diệu làm kẻ dẫn đường. Vào tháng giêng năm Canh-Ngọ (1390) Chế-Bồng-Nga đi thuyền tới xem h́nh-thế quân của Trần-Khát-Chân. Bấy giờ có một người đầy-tớ của Chế-Bồng-Nga là Ba-Lậu-Kê có tội, sợ phải bị giết, chạy sang hàng với Trần-Khát-Chân. Nhân khi Chế-Bồng-Nga đem hơn 100 chiếc thuyền đến gần trại của quân nhà Trần đóng, tên đầy-tớ này chỉ cái thuyền của Chế-Bồng-Nga là chiếc sơn màu lục cho Khát-Chân. Khát-Chân mới sai tập-trung hoả-pháo nhất-tề bắn vào thuyền ấy, Chế-Bồng-Nga trúng phải đạn chết. Quân ta đổ ra đánh, quân Chiêm thấy quốc-vương chết đều bỏ chạy cả. Quân ta đánh-đuổi rồi cắt lấy đầu Chế-Bồng-Nga đem về dâng triều-đ́nh. Thượng-hoàng thấy đầu Chế-Bồng-Nga, tự ví ḿnh như Hán-Cao-Tổ thấy đầu Hạng-Vũ, rất là vui-vẻ. Đoạn rồi định-công thưởng-tước cho các tướng-sĩ. Từ đấy biên-giới nước Đại-Việt về phía Nam được yên. V́ sau khi Chế-Bồng-Nga chết, nước Chiêm-Thành ngày một yếu đi quân Chiêm không đủ sức xâm-lấn nước Đại-Việt nữa. Tháng 2 năm Canh-Th́n (1400), Hồ-Quư-Ly cướp ngôi vua của nhà Trần, đặt tên nước là Đại Ngu, niên hiệu là Thánh Nguyên. Tháng 8 năm ấy, thấy chúa Chiêm-Thành là La-Ngai chết, con là Ba-Đích-Lại mới được lập làm chúa, Quư-Ly thừa-cơ sai Đỗ-Mẫn làm Đô-Tướng thuỷ-quân, Trần-Vấn làm phó, Trần-Tùng làm Đô-Tướng bộ-quân, Đỗ-Nguyên-Thái làm phó, đem 15 vạn quân thuỷ lục đi đánh Chiêm-Thành. Quân của Quư-Ly bị quân Chiêm đánh-bại phải rút về.
Khát-Chân tập-trung hoả-pháo nhất-tề bắn vào thuyền màu lục, Chế-Bồng-Nga trúng phải đạn chết.
Năm Quư-Mùi (1403), Hồ-Quư-Ly lại đánh Chiêm-Thành một lần nữa. Phạm-Nguyên-Côi được cử làm Đô-Tướng Thuỷ-quân, Hồ-Vân làm phó: Đỗ-Mẫn làm Đô-Tướng quân bộ, Đỗ-Nguyên-Thái làm phó, thống-lĩnh 20 vạn quân thuỷ-bộ, chia đường vào đánh. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ-Bàn hơn một tháng trời mà đánh không đổ, lương-thực hết cả, phải rút quân về. Lần này hao-binh tổn-tướng mà cũng không có công-trạng ǵ. Hồ-Quư-Ly và Hải-Quân Hồi này ở nước Minh, Chu-Đê đă đoạt được ngôi vua và đă lên ngôi Hoàng-đế (Minh-Thành-Tổ). Dă-tâm của Minh-Thành-Tổ là xâm-lược Việt-Nam, biến Việt-Nam thành quận-huyện cả nước Minh. Ngay từ đầu thế-kỷ 15, khi Hồ-Quư-Ly đă nắm trọn binh-quyền, Ông khuyếch-trương mạnh-mẽ việc quân v́ biết rằng sớm-muộn quân Minh cũng sẽ lần sang. Thuỷ-quân là một tổ-chức lớn. Ông chia quân-đội ra làm 4 mà Hải-quân được tổ-chức thành một quân-chủng. Bốn quân-chủng đó là: Vệ-quân, Đại-quân, Cấm-quân và Thuỷ-quân.632 Cha con Hồ-Quư-Ly đă nh́n rơ âm-mưu của Minh-Thành-Tổ, cho nên từ năm 1404. Quư-Ly đă cho tuyển thêm lính mới và cho đóng nhiều thuyền chiến. Những thuyền chiến nay gọi là "Tải-lương Cổ-lâu", bên trên bắc tre làm đường đi lại, bên dưới cứ hai người chèo một mái chèo. Tuy gọi là "Tải-lương Cổ-lâu", nhưng đúng ra là những thuyền chiến thực-sự, rất tiện cho việc chiến-đấu trên thuỷ. Hồ-Quư-Ly là nhà chính-trị biết đề ra các biện-pháp nhằm đẩy mạnh sản-xuất kinh-tế. Nhưng trong hành-động, ông đă làm nhiều việc khiến cho "nhân-tâm oán-phản". Do đó khi Minh-Thành-Tổ sai Trương-Phụ mở cuộc xâm-lược vào Việt-Nam. Hồ-Quư-Ly đă thua trận một cách quá dễ-dàng, mặc dầu ông có một lực-lượng vũ-trang lớn mạnh trong đó có những thuyền chiến gọi là "Tải-lương Cổ-lâu". Sau khi hạ thành Đa-Bang vào cuối năm Bính-Tuất (1406), tháng 2 năm Đinh-Hợi (1407), Mộc-Thạnh cả phá 300 chiến-thuyền của Hồ-Nguyên-Trừng ở sông Mộc-Hoàn. Tháng 3 năm Đinh-Hợi, Hồ-Nguyên-Trừng đem đại-binh đến đón quân Minh ở cửa Hàm-Tử. Hồ-Xạ, Trần-Đĩnh chỉ-huy đạo quân đóng ở bờ nam sông. Đỗ-Nhân-Giám, Trần-Khắc-Trang chỉ-huy đạo quân đóng ở bờ bắc: Đỗ-Nhẫn, Hồ-Vấn chỉ-huy thuỷ-quân gồm bảy vạn người, nói phao lên là 21 vạn. Các chiến-thuyền đều kéo đến cửa Hàm-Tử, nối đuôi nhau dài đến hơn mười dặm, chắn ngang cả mặt sông. Quân thuỷ và quân bộ của Trương-Phụ biết lực-lượng quân thuỷ của Quư-Ly mạnh, chúng chờ khi quân của Quư-Ly tỏ ra chủ-quan, trễ-nải, mới xông ra đánh. Quân của Quư-Ly thua to.633 Trong cuộc đời làm Tướng và làm vua của Hồ-Quư-Ly, thuỷ-quân đă giúp Ông xây-dựng sự-nghiệp, nhưng trong hai trận lớn sau cùng đều là thuỷ-chiến, Ông lại bị thua “sát-ván” và “Thân-bại Danh-liệt”.
Khi Thuỷ-Quân bị thua trận Hàm-Tử, Quư-Ly theo đường biển chạy vào Thanh-Hoá. Sau đó cha con Quư-Ly đều bị bắt.
Bị thua nặng ở cửa Hàm-Tử. Quư-Ly và Hồ-Hán-Thương đem trăm quân theo đường biển chạy vào Thanh-Hoá. Quân Minh đuổi theo. Đến Lỗi Giang th́ quân của Quư-Ly tan-vỡ. Sau đó cha con Quư-Ly chạy đến cửa-biển Kỳ-La, rồi bị bắt tại đó cùng với con cháu và các quan.
Đoàn Thuỷ-quân Góp Công trong việc Thu-hồi Độc-lập Trong hai mươi năm thuộc Minh, bọn đô-hộ vơ-vét rất nhiều tài-sản của dân-tộc Việt-Nam. Chúng đă cướp của Việt-Nam 8,670 chiếc thuyền634 và 2,539,500 vũ-khí các loại. Hai mươi năm thuộc Minh, v́ vậy, là hai mươi năm dân-tộc Việt-Nam không có thuỷ-quân. Trần-Ngỗi, Trần-Quư-Khoáng, Lê-Lợi cũng có một ít thuỷ-quân, nhưng lực-lượng không có ǵ mạnh lắm. Tuy vậy ngay khi cần-thiết, nhà vua “10 năm kháng-chiến” Lê-Lợi cũng thu-góp được một số thuyền làm thuyền chiến. Sự hiện-diện của các đoàn thuỷ-quân nhỏ-bé này trong giai-đoạn kết-thúc và quyết-liệt của trận kháng Minh cũng quan-trọng và đă được chính-sử ghi-chép rơ-ràng. Chúng ta cần đọc cẩn-thận để thấy những hoạt-động quân thuỷ trên ghe-thuyền sông-nước rất quan-trọng như sau: Vua muốn đánh thành Nghệ-An, nhưng chưa biết t́nh-thế ra sao. Gặp khi vua Minh mới lên ngôi, sai Nội-quan Sơn-Thọ dùng lời lẽ quỷ-quyệt để dụ-dỗ vua. Vua biết dụng-ư của chúng liền nói: "Giặc sai ngươi đến lừa ta, ta nhân chỗ sơ-hở của chúng mà lừa lại, chính là dịp này đây". Rồi lại trao-đổi đi-lại với giặc, trinh-sát t́nh-h́nh của chúng để mưu đánh-úp thành Nghệ-An. Bọn Thọ biết là mưu-kế của chúng không đánh-lừa nổi, mới lại đoạn-tuyệt không cho sứ đi lại nữa. Bấy giờ vua chấn-chỉnh binh-tượng, tiến quân bao-vây thành Nghệ-An. Quân sắp đi, vừa lúc có tin báo quân Minh đă sắp đặt voi ngựa, thuyền-bè, tiến quân cả hai đường thuỷ và bộ, định ngày mai sẽ tới. Vua chia hơn 1,000 quân, cho bọn Lê-Liệt đi đường tắt đóng giữ huyện Đỗ-Gia. Vua đích-thân chỉ-huy đại-quân giữ chỗ hiểm-yếu để đánh chúng. Được ba bốn hôm, quân Minh quả-nhiên đến Quán-Lậu và cửa Khả-Lưu, bày doanh-trại ở hạ-lưu. Vua ở thượng-lưu, ban ngày dựng cờ đánh trống, ban đêm th́ đốt lửa sáng-trưng. Nhưng ngầm sai binh-tượng vượt qua sông, phục sẵn ở chỗ hiểm-yếu. Trời gần sáng, giặc liền đem quân đến đánh dinh Vua. Vua giả-vờ rút-lui, dẫn giặc tới chỗ có quân mai-phục. Giặc không để ư, đem quân tiến vào sâu, quân mai-phục bốn mặt nổi-dậy, xông ra đánh-phá. Quân giặc bị chém đầu và chết đuối tới hàng vạn tên. Hôm sau, giặc liền dựa vào thế núi, đắp hào-lũy để ở, không ra đánh nữa. Bấy giờ lương-thực của giặc có rất nhiều mà quân của vua th́ không đủ lương ăn cho 10 ngày. Vua nói với tướng-sĩ: "Giặc cậy có nhiều lương, cố-thủ để làm kế lâu-dài, ta lương ít không thể cầm-cự dài ngày với giặc". Rồi đốt cháy doanh-trại, ngược ḍng sông giả-cách trốn đi, nhưng lại ngầm đi đường tắt trở về, đợi giặc đến th́ đánh. Quân Minh cho là vua đă chạy, mừng lắm, bèn tiến quân vào đóng ở doanh-trại cũ của vua, lên núi đắp lũy. Ngày hôm sau, vua cho quân tinh-nhuệ ra khiêu-chiến. Giặc đem quân ra ngoài lũy để đánh. Vua phục sẵn ở Bồ-Ải, giữa nơi hiểm-yếu. Giặc lại không ngờ tới, đem hết quân ra đánh. Vua bèn tung phục-binh xông vào trận giặc. Bọn Lê-Sát, Lê-Lễ, Lê-Vấn, Lê-Nhân Chú, Lê-Ngân, Lê-Chiến, Lê-Tông-Kiều, Lê-Khôi, Lê-Bôi, Lê-Văn-An tranh nhau lên trước phá quân giặc, chém đầu giặc không sao kể xiết. Thuyền giặc trôi ngổn-ngang, xác chết đuối nghẹn-tắc khúc sông, khí-giới vứt đầy cả rừng núi. Ta bắt sống Đô-ty Chu-Kiệt, chém tướng tiền-phong là Đô-ty Hoành-Thành, bắt sống hàng ngh́n tên giặc. Trần-Trí, Sơn-Thọ thu-nhặt tàn-quân chạy về thành Nghệ-An. Vua thừa-thắng đuổi dài suốt 3 ngày, đến tận dưới chân thành. Bọn Trí vào thành cố-thủ. Mùa hạ, tháng 4 Ất-Tỵ, [1425], Tham-Tướng nhà Minh là An-B́nh-Bá Lư-An đem thuỷ-quân từ thành Đông-Quan đến cứu. Vua đoán là Trần-Trí bị cùng-quẫn lâu ngày, thấy quân cứu-viện đến, tất mở cửa thành ra đánh, bèn dời quân tới đóng ở huyện Đỗ-Gia, đào cửa sông, phục-quân trên bờ sông đợi quân giặc đến để đánh. Ngày 17, bọn Trí đem hết quân ra đánh trại Lê-Thiệt. Đợi quân của Trí sang một nửa, quân mai-phục liền nổi-dậy đánh-tan, chém hơn ngàn thủ-cấp giặc, bọn chết đuối cũng rất nhiều. Từ đó, giặc càng sợ-hăi, đắp thêm hào-lũy gắng sức cố-thủ. Tháng 5, vua sai Tư-không Lê-Lễ (Lễ là cháu gọi Vua bằng cậu, vốn họ Đinh, được ban họ Lê) đi tuần ở Diễn-Châu. Lễ đặt phục-binh trước. Quân Minh không biết. Gặp khi Đô-ty Trương-Hùng của nhà Minh đem hơn 300 chiếc thuyền chở lương từ Đông-Quan đến. Trong thành mừng lắm, tranh nhau mở cửa thành ra đón. Quân-phục th́nh-ĺnh nổi-dậy, chém viên Thiên-hộ họ Tưởng và hơn 300 quân giặc. Hùng tháo-chạy, Lễ cướp lấy thuyền lương rồi đuổi theo, vừa đi vừa đánh, đến tận thành Tây-Đô. Trong cuốn sách “Hoàng-Sa Trường-Sa”, Giáo-Sư Lăng-Hồ xếp chiến-công cướp thuyền này có tính-cách xoay-chuyển t́nh-thế. Ông viết: Vào năm 1425 sau khi quân ta đánh-cướp được 300 chiếc thuyền lương của quân Minh từ biển tới, với nhiều trận thắng tiếp-theo, quân nhà Minh đành phải triệt-thoái khỏi nước ta vào năm 1427.635 Đinh-Lễ cướp được 300 chiếc thuyền lương của quân Minh. Mùa thu, tháng 7, vua dự-đoán thành giặc ở các xứ Thuận-Hoá, Tân-B́nh đă từ lâu không thông tin-tức với Nghệ-An và Đông-Đô, bảo các tướng: "Người làm tướng giỏi ngày xưa bỏ chỗ rắn đánh chỗ mền, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, như thế chỉ dùng một nửa sức mà nên công gấp đôi". Bèn sai Tư-đồ Trần-Hăn và Thượng-Tướng Lê-Nỗ báo cho bọn Lê-Đa-Bồ đem hơn 1000 quân và 1 thớt voi ra đánh các thành Tân-B́nh, Thuận-Hoá và chiêu-dụ nhân-dân. Đến sông Bố-Chính th́ gặp giặc Minh, bọn Hăn đưa quân vào chỗ hiểm-yếu, bí-mật mai-phục ở Hà-Khương để nhử giặc. Tướng Minh là Nhậm-Năng đem hết quân tiến vào. Bọn Hăn hợp binh-tượng c̣n lại để đánh rồi giả cách thua chạy. Năng đuổi theo, quân mai-phục đánh-kẹp hai bên, giặc Minh tan-vỡ, bị chém đầu và chết đuối rất nhiều. Bấy giờ, quân của Hăn và Nỗ có ít mà quân giặc c̣n rất đông, đă sai người báo gấp và xin thêm quân từ trước. Vua sai tiếp bọn Lê-Ngân, Lê-Bôi, Lê-Văn-An đem 70 chiếc thuyền chiến vượt-biển đến thẳng chỗ đó. Đến khi được tin thắng-trận của Nỗ, liền thừa-thắng đánh vào các xứ ở Tân-B́nh, Thuận-Hoá. Quân và dân các nơi bị giặc chiếm đều quy-thuận. Quân Minh vào thành cố-thủ. Thế là Thuận-Hoá, Tân-B́nh đều thuộc về ta cả. Các Tướng suy-tôn vua là "Đại-thiên Hành-hoá"636 Quân thuỷ nhà Lê và những Ngày tàn của Chiêm-Thành Tháng 12 năm Mậu-Thân (1428). Lê-Thái-Tổ định ra quy-chế cho quân thuỷ, quân bộ. Ta có thể tin rằng sau đó không lâu, nước Đại-Việt đă có một đạo thuỷ-quân lớn mạnh. Cho nên đến năm Ất-Măo (1435) Lê-Thái-Tôn sau khi đi xem quân bộ diễn-tập ở Bao-Động, đă xem quân thuỷ diễn-tập ở sông Hồng: Tháng giêng năm: Mậu-Ngọ (1438), Lê-thái-Tôn lại sai chiến-thuyền của năm đạo quân diễn-tập thuỷ-chiến. Năm Bính-Dần (1446), thấy chúa Chiêm-Thành là Bí-Cái hay cho quân-đội ra xâm-phạm biên-giới. Lê-Nhân-Tôn sai Lê-Thụ, Lê-Khả đem thuỷ-quân đánh Chiêm-Thành, Quân Đại-Việt đánh-chiếm cửa-biển Thị-Nại rồi tiến lên đánh-chiếm thành Chà-Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí-Cái. Tháng 11 năm Canh-Dần (1470), Lê-Thánh-Tôn thân chinh Chiêm-Thành. Quân-đội có đến 26 vạn, chiến-thuyền có đến hàng ngàn chiếc. Khi quân Đại-Việt đến cửa-biển Tân-Ấp và cửa-biển Cựu-Toạ, vua Chiêm là Trà-Toàn sai em đem sáu viên Tướng cùng 5,000 quân lên đến sát doanh-trại của Lê-Thánh-Tôn. Lê-Thánh-Tôn mật sai Tả-du-kích Tướng-quân là Lê-Hi-Cát đem 500 chiến-thuyền lẻn vào cửa-biển Sa-Kỳ chặn đường về của quân Chiêm. Rồi Lê-Thánh-Tôn dẫn hơn một ngàn chiến-thuyền tiến thẳng vào doanh-trại quân Chiêm. Quân Chiêm tan-vỡ, chúng toan chạy về thành Lê-Hi-Cái chặn đường. Lê-Niệm và Ngô-Hồng tung quân ra đánh-thốc vào quân Chiêm, quân Chiêm đại-bại. Trà-Toàn sợ quá dâng biểu xin hàng. Lê-Thánh-Tôn bảo bọn Lê-Quyết-Trung rằng: "Chí-khí chiến-đấu của giặc đă ră-rời, khí-cụ đánh thành của ta đă đầy-đủ. Nay quân-sĩ trèo lên thành, chỉ thúc một hồi trống cũng có thể phá được thành". Rồi nhà vua lại dụ các tướng-sĩ: "Trong lúc thành Trà-Bàn đă bị hạ, các kho-tàng đều phải niêm-phong, canh-giữ không được thiêu-huỷ, bắt sống chúa Chiêm-Thành là Trà-Toàn giải đến hành-doanh không được giết-hại". Rồi nhà vua ra lệnh đánh thành. Thành Chà-Bàn bị vỡ. Quân Đại-Việt loại ra ngoài ṿng chiến hơn bảy vạn người. Trà-Toàn cũng bị bắt sống và bị giải đến trước Lê-Thánh-Tôn. Chiến-thắng năm 1471 của Lê-Thánh-Tôn đối với Trà-Toàn là một đ̣n chí-tử làm cho nước Chiêm-Thành phải đi đến chỗ bị diệt-vong. Thành-phần quân Thuỷ triều Lê-Thánh-Tôn Dưới triều Lê-Thánh-Tôn, thuỷ-quân của nước Đại-Việt càng ngày càng hùng-mạnh và đă lập được nhiều chiến-công. Nhà Lê có nhiều loại chiến-thuyền lớn nhỏ, có chiến-thuyền được trang-bị bằng hoả-khí. Năm 1465 Lê-Thánh-Tôn đă ban phép trận-đồ cho thuỷ-quân và bộ-binh thao-dượt. Thuỷ-quân nhà Lê (1428-1527) tổ-chức quy-củ, thành-phần là các trai-tráng khoẻ-mạnh, giỏi nghề bơi-lội. Thuỷ-quân chia ra làm 4 đội, có danh như sau: - Hải-Hồng-Quân - Hải-Mă-Quân - Hải-Ḱnh-Quân - Hải-Điểu-Quân.637 Trong Lịch-Triều Hiến-Chương Loại-Chí, Binh-Chế-Chí; tác-giả Phan-Huy-Chú cho ta biết được đại-khái vài chi-tiết về tổ-chức Hải-Quân Triều Lê. Chẳng hạn như chiến-thuyền lớn nhất là thuyền Kiệu-Nhất chứa được 86 người, thuyền nhỏ nhất chứa 20 người. Vị Anh-quân bậc nhất và Bài thơ “Đi Tuần Biển-Đông” Lê-Thánh-Tông lên làm vua năm 1460, có hai niên hiệu: Quang-Thuận (1460-1469) và Hồng-Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đă đưa triều Lê phát-triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính-trị, xă-hội, kinh-tế, quốc-pḥng, văn-hoá. Sử-gia Ngô-Sĩ-Liên khen Vua Lê-Thánh-Tông là "vua sáng-lập chế-độ, mở-mang đất-đai, bờ-cơi khá rộng, văn-vật tốt-đẹp, thật là vua anh-hùng, tài-lược". Về phương-diện văn-học, Lê-Thánh-Tông là một nhà thơ lớn. Đứng đầu hội văn-học Tao-Đàn, Lê-Thánh-Tông cũng dẫn đầu phong-trào sang-tác. Thơ Lê-Thánh-Tông để lại khá nhiều và có giá-trị cao về nội-dung tư-tưởng. Qua thơ ông, chúng ta không chỉ hiểu sâu hơn nhân-cách, tâm-hồn ông, một tâm-hồn gắn-bó mật-thiết với non-sông, đất-nước, với nhân-dân, với những truyền-thống anh-hùng của dân-tộc, của Tổ-tông, mà c̣n thấy được khí-phách cả một thời đang vươn lên, đầy hào-tráng638. Mấy câu thơ trong bài “Buổi sớm từ sông Cấm đi tuần Biển-Đông” như sau: Nắng ấm ngh́n trượng toả trên ngọn cờ, Khí-thế ba quân át cày cáo. Phương Đông mặt trời mọc, áng mây nhẹ trôi, Phóng mắt ngắm núi sông muôn dặm. Thuỷ-quân thời Chiến-tranh Lê-Mạc Như mọi người đều biết năm 1527, Mạc-Đăng-Dung giết hoàng-đệ Xuân cướp ngôi vua của nhà Lê. Năm 1529 Nguyễn-Kim khởi-nghĩa ở Sầm-Châu chống lại nhà Mạc. Từ đấy bùng ra cuộc nội-chiến giữa một bên là nhà Mạc, một bên là nhà Lê. Chiến-tranh Lê-Mạc chưa chấm-dứt, th́ từ năm 1627 đến năm 1672 lại bùng ra chiến-tranh Trịnh-Nguyễn. Trong chiến-tranh Lê - Mạc, chúng ta thấy họ Mạc nhiều lần dùng quân thuỷ đánh quân Lê. Tháng 9 năm Ất-Sửu (1563) Tướng Mạc là Mạc-Kính-Điển đem chiến-thuyền vượt-biển đánh vào Thanh-Hoá. Thuỷ-quân Mạc vào cửa Linh-Tràng rồi thừa-thắng đánh-phá các huyện Thuần-Hựu, Hoằng-Hoá, giết quân Lê-Trịnh đến mấy ngàn người. Tháng giêng năm Nhâm-Thân (1572), Tướng Mạc là Lập-Bạo đem hơn sáu mươi chiến-thuyền vượt-biển đánh vào đất Thuận-Hoá. Lập-Bạo bị Nguyễn-Hoàng dùng mưu giết chết. Tháng 7 năm Mậu-Dần (1578), Mạc-Kính-Điển lại vượt-biển đánh vào Thanh-Hoá, nhưng thất-bại. Năm Kỷ-Măo (1579) Mạc-Kính-Điển, năm Tân-Tị (1581) Mạc-Đôn-Nhượng lại đem thuỷ-quân vào đánh Thanh-Hoá, nhưng bị thua to. Tháng 11 năm Nhâm-Th́n (1592), Trịnh-Tùng cho đem 500 chiến-thuyền đi đánh Mạc-Mậu-Hợp ở Kim-Thành. Quân Mạc thua to, Mậu-Hợp bỏ quân-doanh chạy trốn. Thuỷ-quân thời Nhà Lê Trung-hưng Nhà Lê trung-hưng, vua Lê làm v́ và chúa Trịnh nắm thực-quyền. Hệ-thống quân-lực trở nên phong-phú. - Đơn-vị thấp nhất là Đội, có 20 người. - Cơ có 20 đội (400 người). - Vệ gồm 5 hay 6 Cơ (2000 đến 2400 người) - Ngoài ra bên Vệ có Tứ là đơn-vi có 100 người. - Thuyền có từ 40 đến 50 người. Tổng-số quân-đội khi động-viên có 115,000 người, 10,000 ngựa và 600 voi trận. Thuỷ-quân có 500 chiến-thuyền đầu mũi sơn-son thếp-vàng, mỗi chiến-thuyền có 26 tay chèo và được bố-trí 3 đại-bác 14 livres639 gọi là thần-công. Thuyền chiến của nhà Lê thuở đó có cái lớn hơn chiến-thuyền của các nước Âu-châu. Các giáo-sĩ Alexandre De Rhodes và Tisannier trong kư-sự khen quân-lực của chúa Nguyễn hùng-hậu hơn cả Pháp và Bồ-Đào-Nha.640 Theo Cố-đạo Alexandre De Rhodes, chiến-thuyền của Thuỷ-quân chúa Trịnh vận-chuyển mau-lẹ, trang-bị hoả-lực hùng-hậu có thể khuất-phục được cả những chiến-hạm Âu-Châu thường lai-văng trên Biển-Đông hồi đó. Thuyền có từ 40 đến 50 người. Lương lính thuỷ thường cao hơn lính bộ. Đọc Kiến-Văn Tiểu-Lục của Lê-Quư-Đôn, ta được biết thêm một vài con số về lương-tiền của Thuyền-trưởng thời Lê như sau: Thuyền-trưởng thuyền lớn (86 người) được nhiều nhất. Lương hơn gấp ba lương Thuyền-trưởng tàu nhỏ. "Chánh-đội-trưởng thuyền Kiệu-Nhất (86 Thuỷ-Thủ) cổ tiền 100 quan.. Thuyền Tứ-Kiệu (71 Thuỷ-Thủ) 30 quan, thuyền Thị-Trạch (72 Thuỷ-Thủ) 36 quan.."641 Chiến-tranh Trịnh-Nguyễn Chiến-tranh Trịnh - Nguyễn lần thứ nhất kéo dài đến 45 năm. Trong 45 năm này, nói chung họ Trịnh khởi thế-công, họ Nguyễn chủ-yếu chỉ làm cái công-việc bảo-vệ đất-đai của họ. Trong tất cả các đợt tấn-công, họ Trịnh chủ-yếu dùng quân bộ. Năm 1774 khi Hoàng-Ngũ-Phúc vâng lệnh Trịnh-Sâm mang quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, quân-đội của Trịnh cũng tiến theo đường bộ. Nghĩa là sau khi chiếm châu Bố-Chính, quân Trịnh vượt sông Gianh, rồi tiến đến Bồ-Đề huyện Minh-Linh. Đến đây, Ngũ-Phúc cho người cầm thư đưa cho chúa Nguyễn là Nguyễn-Phúc-Thuần khuyên Phúc-Thuần sớm đầu-hàng. Nguyễn-Phúc-Thuần một mặt sai bắt Trương-Phúc-Loan nộp cho Hoàng-Ngũ-Phúc, và dâng vàng-bạc để xin băi binh, nhưng một mặt khác vẫn đem quân ra chống-cự. Nhưng rồi chúa Nguyễn vẫn phải bỏ Phú-Xuân. Sau khi chiếm được Phú-Xuân, quân Trịnh lại vượt đèo Hải-Vân tiến vào Quảng-Nam. Đến Quảng-Nam, quân Trịnh hầu như kiệt-sức. Binh-sĩ ốm-đau rất nhiều. Chừng một nửa binh-sĩ đă chết v́ bệnh dịch. Giả-sử quân Trịnh tiến-đánh Miền-Nam theo đường biển, th́ quân-sĩ đâu có đến nỗi vất-vả, khó-nhọc như thế. Như thế không có nghĩa là họ Trịnh không có thuỷ-quân. Khi lên làm chúa, Trịnh-Doanh đă chú-ư đến thuỷ-quân. Tháng 6 năm Giáp-Tuất (1759), Trịnh-Doanh đă tổ-chức một cuộc diễn tập thuỷ-quân ở sông Hồng. Sử cũ chép rằng: "Thuỷ-binh bày hàng chiến-thuyền ở giữa sông, dung-nghi quân-sĩ rất chỉnh-tề, bơi chèo ngược ḍng nước, thuyền phóng đi như bay". Nhưng nói chung, thuỷ-quân xứ Đường ngoài không có ǵ là hùng-mạnh lắm. Đó là lư-do chủ-yếu khiến cho trong tất cả các lần đánh Miền-Nam, họ Trịnh không dám dùng thuỷ-quân làm lực-lượng chính. Hồi nửa cuối thế-kỷ XVIII, Nguyễn-Hữu-Chỉnh cũng nổi tiếng là một viên tướng có tài chiến-đấu trên mặt nước. Khi theo Hoàng-Đ́nh-Bảo, Nguyễn-Hữu-Chỉnh lập nhiều chiến-công trên mặt biển, cho nên được cử sang chỉ-huy đội tuần-hải, rồi được cử sang chỉ-huy cơ Tiền-Ninh thuộc Nghệ-An. Chiến-thuyền của Đàng-Trong H́nh-ảnh của chiến-thuyền Đàng-Trong (Cochin-China) do Giáo-sĩ Choisy viết năm 1685 như sau: "Mỗi chiến-thuyền của Cochin-china có 30 tay chèo mỗi bên thuyền. Ở mui thuyền và đằng sau là khoang lầu (poop and prow) cho Sĩ-Quan. Một người Quản-binh (captain) cầm gậy điều-khiển các tay chèo. Không có ǵ trật-tự hơn thế. Những tay chèo phải chăm-chú theo lệnh người Quản-binh, và người này ra lệnh bằng cây gậy chỉ-huy. Họ chèo nhịp-nhàng cho đến nỗi một người nhạc-trưởng cũng không điều-khiển giàn-nhạc của ḿnh hay hơn là người Quản-binh Cochin-china điều-khiển các tay chèo… Thân tàu sơn dầu đen, Ḷng-Tàu sơn đỏ bóng-lưỡng đến có thể soi gương được, mái chèo đều thếp vàng.”
Tàu-thuyền Việt-Nam & Đông-Nam-Á sơn-son thếp-vàng trong cuốn sách “Early mapping of Southeast Asia” của Thomas Suarez.
Nhà sư Thích-Đại-Sán thăm Đàng-Trong được Thuỷ-quân chúa Nguyễn ra đón, tả lại trong Hải-Ngoại Kỷ-Sự (1694) của Ông như sau: “Qua giờ Th́n, có hai chiếc chiến-hạm của nhà vua (chúa Nguyễn-Phúc-Châu) sai Quốc-cựu đem ra đón. Vài mươi thuỷ-quân vơng ta xuống, nổi trống đồng ḥ-hát chèo đi. Thuyền sơn láng-bóng soi mặt được, tả hữu đều 25 tay chèo, thuỷ-quân rất mạnh-mẽ, cửa khoang-thuyền chạm long-vân, sơn đỏ, trên che đệm có đằng-văn, dưới trải chiếu lác mịn màu xanh-lục, ḷ đốt kỳ-nam hương, hộp vàng bày cau-trầu, có đủ các thứ gối tựa, ống nhổ”.. Thuỷ-quân Tây-Sơn Rượt-đuổi Nguyễn-Ánh Qua 9 đời làm Chúa, sau thời hưng-thịnh do`ng Chúa Nguyễn đến lúc suy-vong. Nguyễn-Ánh may-mắn sống sót, trốn chạy bằng đường thuỷ. Trong khi bị thuỷ-quân Tây-Sơn truy-sát, sinh-mạng Nguyễn-Ánh nhiều lúc như chỉ mành treo chuông, Năm 1782, khi thế-lực của Nguyễn-Ánh mới khá lên, Nguyễn-Huệ liền chỉ-huy chiến-thuyền tiến vào cửa Cần Giờ đánh quân của Ánh ở Ngă-Bảy. Quân Nguyễn thua to phải rút về thủ-hiểm ở Ba-Gịng. Sau đó, Nguyễn-Huệ lại đem chiến-thuyền đến Lữ-Phụ, bày trận quay lưng ra sông đánh quân của Nguyễn-Ánh, Quân Tây-Sơn đánh rất hăng, phá tan quân Nguyễn. Nguyễn-Ánh tiếp-tục phải chạy trốn ra đảo Phú-Quốc.
Nhiều lần Nguyễn-Ánh phải chạy trốn kẻ địch bằng thuyền (H́nh QVGKT Lớp Dự-Bị).
Năm 1783, Nguyễn-Huệ và Nguyễn-Lữ lại dẫn thuỷ-quân Tây-Sơn vào cửa Cần Giờ đi ngược ḍng sông đánh quân của Chu-Văn-Tiếp. Quân của Chu-Văn-Tiếp tan-vỡ. Nguyễn-Ánh lại chạy về Ba-Giồng. Nguyễn-Hoàng-Đức đi hộ vệ Nguyễn-Ánh bị quân Tây-Sơn bắt sống. Nguyễn-Ánh phải cưỡi thuyền chạy ra đảo Côn-Lôn. Pḥ-mă Tây-Sơn là Trương-Văn-Đa mang chiến-thuyền đuổi theo, suưt bắt được Nguyễn-Ánh. Trận cả-phá quân xâm-lược Xiêm và quân bản-bộ của Nguyễn-Ánh đầu năm 1785 lại càng làm cho mọi người phải khâm-phục. Chi-tiết thuỷ-chiến Rạch Gầm - Xoài Mút Theo yêu-cầu của Nguyễn-Ánh, vua Xiêm là Chất Tri năm 1784 đă cho hai Tướng là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem năm vạn quân và 300 chiến-thuyền sang xâm-lược miền Gia-Định. Năm 1784 sau khi kéo vào Gia-Định, thuỷ-quân Xiêm chiếm Kiên Giang, rồi Trấn Giang, Sa-Đéc. Cuối-cùng quân Xiêm và quân của Nguyễn-Ánh đánh-chiếm Trà-Tân và Ba-Lai, Ba-Lai là miền đất thuộc tỉnh Bến-Tre sau này nằm ở bờ Nam sông Ba-Lai đối-diện với thị-xă Mỹ-Tho nằm ở bờ Bắc. Trà-Tân nằm ở tả-ngạn sông Mỹ-Tho đối-diện với mỏm tây của cù-lao Năm-Thôn. Chiếm được Trà-Tân và Ba-Lai, quân Xiêm và quân của Nguyễn-Ánh có căn-cứ để đánh-toả ra chiếm địa-điểm ngày nay là thị xă Mỹ-Tho, Sài-G̣n và các địa-điểm khác thuộc ba tỉnh miền Đông. Sau khi đem chiến-thuyền vào Sài-G̣n, Nguyễn-Huệ đă nghiên-cứu rất kỹ t́nh-h́nh ta và địch. Ông quyết-định muốn tiêu-diệt quân Xiêm, phải đánh nhanh, và phải tiêu-diệt chúng ở Rạch-Gầm – Xoài-Mút. Chủ-lực quân Xiêm đóng Long-Hồ và Trà-Tân, lừa chúng ra khỏi Long-Hồ và Trà-Tân rồi nhử chúng vào khúc sông Mỹ-Tho từ Rạch-Gầm đến Xoài-Mút để tiêu-diệt chúng là tốt nhất. Bố trí xong trận-địa phục-kích Rạch Gầm – Xoài-Mút, Nguyễn-Huệ cho một đội khinh-thuyền ngược ḍng sông Mỹ-Tho tiến đến Trà-Tân, một đội tiến đến gần Long-Hồ (Vĩnh-Long) khiêu-chiến. Từ ngày vào Gia-Định, quân Xiêm thắng trận luôn-luôn; quân của Nguyễn-Ánh cùng thắng trận luôn-luôn và chưa hề thất-trận một lần nào. Thấy quân Tây-Sơn kéo đến khiêu-chiến, Tướng Chiêu-Tăng và tướng Chiêu-Sương dốc toàn-lực ra đuổi-đánh với ư-định là sau khi đă tiêu-diệt cánh quân Tây-Sơn đến khiêu-chiến, sẽ thừa-thắng đánh Mỹ-Tho và Sài-G̣n để tiêu-diệt toàn-bộ quân Tây-Sơn hay đuổi chúng ra ngoài biển-cả. Khi tung lực-lượng ra đánh quân Tây-Sơn, Tướng Chiêu-Tăng và Tướng Chiêu-Sương lại thấy quân Tây-Sơn thua chạy. Họ lại càng chủ-quan khinh-địch, thúc quân Xiêm đuổi theo quân Tây-Sơn. Đến ngă ba sông Cửu-Long và sông Cái-Bé, quân Tây-Sơn men theo cù-lao Cồn-Tiên, cù-lao Cồn-Ông mà chạy để rồi rẽ vào sông Mỹ-Tho. Vào sông Mỹ-Tho, quân Xiêm thấy khúc sông này quang-đăng, họ lại càng thúc chiến-thuyền tiến nhanh đuổi quân Tây-Sơn. Khi đoàn chiến-thuyền Xiêm đă lọt vào trận-địa phục-kích Rạch-Gầm – Xoài-Mút, th́ từ cửa Rạch-Gầm, chiến-thuyền Tây-Sơn đổ ra đánh quân Xiêm bằng súng lớn. Từ trên bờ sông Mỹ-Tho, bộ-binh Tây-Sơn cũng dùng súng lớn bắn vào chiến-thuyền Xiêm. Đội-h́nh đoàn chiến-thuyền Xiêm rối-loạn. Giữa lúc quân Xiêm đang hoảng-hốt, th́ từ cửa Xoài-Mút, lại có một đoàn chiến-thuyền Tây-Sơn đổ ra đánh thúc vào giữa, cắt đoàn chiến-thuyền Xiêm ra làm hai khúc. Quân Xiêm đang bị đánh tơi-bời như thế, th́ Nguyễn-Huệ lại mang chiến-thuyền đến tăng-viện cho quân ḿnh. Lực-lượng chiến-đấu của quân Tây-Sơn lại càng dồi-dào, tinh-thần chiến-đấu của họ lại càng phấn-chấn. Toàn-bộ chiến-thuyền Xiêm bị dồn vào một trận-địa chỉ dài có năm hay sáu kí-lô-mét và rộng độ một hoặc hai hai ki-lô-mét trên một khúc sông quang-đăng. Việc tiêu-diệt chúng bằng súng từ các phía rất thuận-lợi.
Toàn bộ chiến-thuyền Xiêm lọt vào trận-thế phục-kích Rạch Gầm - Xoài Mút và bị Tây-Sơn tiêu-diệt.
Quân Xiêm bị hăm vào một t́nh-thế hết sức hiểm-nghèo, họ chỉ có thể chọn một trong hai để rồi bị bắn chết hay bị chết đuối ngay tại trận, hoặc nhảy xuống sông liều chết bơi vào bờ để t́m đường chạy trốn. Cuối-cùng một toán quân Xiêm chừng độ hai ngàn người trong đó có tướng Chiêu-Tăng và tướng Chiêu-Sương liều chết đổ-bộ lên một địa-điểm nào đó trên bờ sông Mỹ-Tho để rồi cố sống cố chết chạy về phía ngày nay là ấp Thượng, ấp Trung. Ấp Nam, ấp Tây để chạy tiếp về địa-điểm ngày nay là Ấp-Bắc. Từ Ấp-Bắc họ chạy về phía Đồng-Tháp-Mười rồi vượt Đồng-Tháp-Mười chạy về Châu-Lạp, để rồi từ Châu-Lạp chạy về nước. Như vậy là chỉ trong một trận, quân Tây-Sơn do Nguyễn-Huệ chỉ-huy đă diệt năm vạn quân Xiêm và hầu như toàn-bộ quân bản-bộ của Nguyễn-Ánh. Chiến-thắng Rạch Gầm - Xoài Mút đầu năm 1785 được ghi vào lịch-sử đấu-tranh chống ngoại-xâm của dân-tộc Việt-Nam như một trận chiến tiêu-diệt địch lớn vào bậc nhất trong lịch-sử dân-tộc chúng ta: Chỉ trong một trận, quân Tây-Sơn đă tiêu-diệt 48000 quân Xiêm và mấy ngàn quân bản-bộ của Nguyễn-Ánh. Trận Rạch Gầm - Xoài Mút như một đ̣n sấm-sét đánh vào toàn-bộ quân địch, nó làm cho quân bản-bộ của Nguyễn-Ánh đóng ở Trấn-Giang, Trà-Ôn, Mân-Thít, Sa-Đéc, Ba-Xắc Ba-Lai, Long-Hồ tan-ră hoàn-toàn. Đại-Nam Chính-biên Liệt-truyện Sơ-tập quyển 30 chép rằng sau chiến-thắng Rạch-Gầm – Xoài-Mút, người Xiêm sợ quân Tây-Sơn như sợ cọp.
Sơ-đồ trận Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn-Huệ đại-phá quân Xiêm.
Năm 1786, Nguyễn-Huệ lại dùng thuỷ-quân tiến ra Bắc đánh họ Trịnh. Ông sai Nguyễn-Hữu-Chỉnh đem thuỷ-quân vượt-biển ngược ḍng sông vào chiếm Vị-Hoàng (thị-xă Nam-Định ngày nay). Chiến-thuyền Tây-Sơn vào Vị Hoàng, viên trấn-thủ Vị-Hoàng bỏ chạy. Chỉnh đoạt được tất cả các kho lương có đến một trăm vạn hộc thóc. Chỉnh sai đốt lửa báo tin cho Nguyễn-Huệ. Ngày ấy là mồng 6 tháng 6 năm Bính-Ngọ (1786). Nguyễn-Huệ dẫn đại đội chiến-thuyền đi sau Nguyễn-Hữu-Chỉnh. Đoàn chiến-thuyền của Nguyễn-Huệ ra đến Nghệ-An, th́ gặp gió nồm. Mấy trăm chiến-thuyền của ông lướt trên mặt biển như bay, khí-thế thật là hùng-vĩ. Phụ-lăo Nghệ-An và Thanh-Hoá đă chứng-kiến các khí-thế ấy, họ thưa: “Thật là một hành-động ít có ở đời! “ Việc quân Tây-Sơn chiếm Vị-Hoàng làm chấn-động Thăng-Long và các trấn. Chúa Trịnh-Khải vội sai Thái-đ́nh-hầu Trịnh-Tự-Quyền đem bộ-binh xuống Sơn-Nam. Định-Tích-Nhưỡng được lệnh đem thuỷ-quân đến Lỗ-Giang đón quân Tây-Sơn. Đinh-Tích-Nhưỡng dàn chiến-thuyền thành hàng chữ nhất để đón đánh chiến-thuyền Tây-Sơn. Đến đêm, Nguyễn-Huệ cho năm chiến-thuyền tiến thẳng vào hàng trận chiến-thuyền của Đinh-Tích-Nhưỡng. Quân-lính của Tích-Nhưỡng tranh nhau bắn. Năm chiến-thuyền của Tây-Sơn không bắn trả lại. Đến sáng, Tích-Nhưỡng mới biết năm chiếc thuyền ấy là năm chiếc thuyền không. Thuốc đạn của Tích-Nhưỡng đă hết cả rồi. Lúc ấy, chiến-thuyền Tây-Sơn thuận gió tiến lên, đại-bác của Tây-Sơn nổ ầm trời. Một cây cổ-thụ trúng đạn đổ. Quân của Trịnh-Tự-Quyền tan-vỡ. Đinh-Tích-Nhưỡng vội chạy trốn. Trấn-thủ Sơn-Nam là Đỗ-Thế-Dận cũng chạy trốn. Chiến-thuyền Tây-Sơn thừa-thắng tiến thẳng đến Hiến-Doanh (tức Phố-Hiến thuộc Hưng-Yên cũ). Thăng-Long náo-động. Trịnh-Khải phải gọi Lăo-Tướng Hoàng-Phùng-Cơ trấn-thủ Sơn-Tây về để chống-giữ Thăng-Long. Phùng-Cơ cho bộ-binh đóng ở hồ Vạn-Xuân, thuỷ-quân đóng ở bến Thúy-Ái nhằm chặn đường quân Tây-Sơn tiến vào Thăng-Long. Nhưng bộ-binh và thuỷ-binh Trịnh bị quân Tây-Sơn phá-tan. Nguyễn-Huệ cho binh-sĩ ở trên thuyền vừa ḥ-reo vừa đánh trống tiến thẳng đến bến Tây-Luông. Hoàng-Phùng-Cơ vội chạy trốn. Trịnh-Khải mang kiêu-binh ra chống cự, nhưng kiêu-binh-bị quân Tây-Sơn đánh-bại. Trịnh-Khải phải bỏ chạy lên phía Sơn-Tây và cuối-cùng bị bắt ở làng Hạ-Lôi, huyện Yên-Lăng, tỉnh Vĩnh-Phú.
Thuỷ-quân Diệt quân Thanh Năm Mậu-Thân (1788-1789) trên dăy Tam-Điệp, Nguyễn-Huệ tổ-chức cuộc hành-quân đánh-đuổi quân Thanh. Trong ba đạo quân có hai đạo thuỷ-quân. Một đạo do Đô-Đốc Tuyết chỉ-huy vượt-biển đánh vào miền Hải-Dương để diệt quân Thanh ở đó; một đạo do Đô-Đốc Lộc chỉ-huy vượt-biển tiến vào sông Bạch-Đằng, rồi sông Lục-Đầu để cuối-cùng đổ-bộ lên miền Phương-Nhỡn (Lục-Ngạn) để chặn đánh Tôn-Sĩ-Nghị ở đấy.
Trong các đạo quân chặn địch có hai đạo thuỷ-quân. Một đạo do Đô-Đốc Tuyết chỉ-huy vượt-biển đánh vào miền Hải-Dương để diệt quân Thanh ở đó; một đạo do Đô-Đốc Lộc chỉ-huy vượt-biển tiến vào cửa Bạch-Đằng, rồi vào sông Lục- Đầu. Tài-liệu lịch-sử không cho biết ǵ về đạo thuỷ-quân do Đô-Đốc Tuyết chỉ-huy. Nhưng về cuộc hành-quân của Đô-Đốc Lộc, th́ chúng ta được biết rằng đến huyện Phương-Nhỡn, bọn Tôn-Sĩ-Nghị vừa xuống ngựa cho đỡ mệt, th́ bỗng có tin báo quân Tây-Sơn do Đô-Đốc Lộc chỉ-huy đang tiến nhanh đến chỗ quân Tàu đang nghỉ! Thế là Tôn-Sĩ-Nghị vội quẳng cả sắc-thư, ấn-tin, cờ hiệu, bài-lệnh, bản-đồ rồi cùng bộ-hạ chạy trốn cho nhanh để khỏi bị bắt sống cả lũ! Trong các trận đánh địch, thuỷ-quân Tây-Sơn cũng biết sử-dụng đặc-công và nhờ vậy dễ làm cho địch hoang-mang, tan-ră. Sau khi quân Xiêm bị quân Tây-Sơn đánh-bại vào đầu năm 1785, Nguyễn-Ánh dựa vào Tây-phương một phần súng-đạn, người và kỹ-thuật đóng tàu-biển. Khi Nguyễn-Huệ mất, Nguyễn-Ánh mở cuộc tấn-công quy-mô vào lực-lượng Tây-Sơn. Đến khi mâu-thuẫn nội-bộ trong phong-trào Tây-Sơn trầm-trọng đến mức bùng ra thành cuộc xung-đột công-khai, th́ Nguyễn-Ánh phản-công thắng-lợi, đưa thuỷ-quân đánh Thị-Nại, chiếm Phú-Xuân, rồi đánh-chiếm Bắc-Hà. Nhà Tây-Sơn sụp-đổ. Nguyễn-Huệ với cuộc cách-mạng về Chiến-Lược Thuỷ-Quân Trước giai-đoạn suy-tàn của quân-thuỷ Việt-Nam, chúng ta cũng đă có một cuộc cách-mạng về Chiến-Lược Thuỷ-Quân. Nh́n các bức hoạ của Quang-Trung Hoàng-Đế, không ai thấy nhà vua từng tác-chiến trên tàu-thuyền. Nhưng theo Giáo-sư Nguyễn-Nhă, Nguyễn-Huệ đă làm một cuộc cách-mạng quân-sự quan-trọng: đó là việc sử-dụng “Thuỷ-quân Chiến-Lược”. Cuộc tương-tranh Trịnh-Nguyễn kéo dài 45 năm, 7 lần đại-chiến; bất-phân thắng-bại. Hai bên không có bên nào thắng v́ cả hai đều áp-dụng chiến-thuật, chiến-lược cổ-điển. Một khi đối-đầu với Chiến-lược mới của Nguyễn-Huệ, cả hai quân-đội đều bị tan-ră. Không phải quân Trịnh hay quân Nguyễn đă không có Thuỷ-quân. Theo Alexandre de Rhodes642, lực-lượng chúa Nguyễn có khoảng 200 chiến-thuyền, c̣n thuỷ-quân chúa Trịnh c̣n nhiều hơn tới ba lần. Tuy vậy thuỷ-quân của hai Chúa chỉ đóng vai phụ-thuộc hay yểm-trợ, không bao giờ được nắm giữ vị-thế tối quan-trọng như thuỷ-quân Tây-Sơn. Trong các cuộc đánh-chiếm Gia-Định, Phú-Xuân cũng như ra Bắc-Hà để diệt hai họ Nguyễn, Trịnh; Nguyễn-Huệ luôn tiến đại-quân bằng đường thuỷ. Nguyễn-Huệ là chiến-lược-gia đại-tài về “chiến-lược gió-mùa”, lợi-dụng đường biển và mùa gió đại-thắng địch-quân. Nguyễn-Huệ thấy rơ vai-tṛ quyết-định của thuỷ-quân đối với một chiến-trường có bờ-biển dài như bờ-biển Việt-Nam. Vào thời bấy-giờ, đường thuỷ là phương-tiện chính, chuyên-chở được nhiều nhất và mau-lẹ nhất, rất thích-hợp với đánh nhanh, đánh mạnh và bất-ngờ. Dùng đường thuỷ lại có thể đánh tập-kích sâu vào hậu-tuyến địch một cách dễ-dàng. Nếu xưa kia, quân Trịnh cũng dùng đường thuỷ là cốt-yếu tiến đánh thốc vào thành Phú-Xuân và hậu-tuyến của đối-phương th́ quân Nguyễn thật khó ḷng chống-đỡ, và chiến-lũy Trường-Dực tất sẽ thành vô-dụng...643 Cũng như vậy, trong cuộc chiến Việt-Nam Cộng-Hoà và Cộng-Sản Bắc-Việt, tất cả chiến-lược của quốc-gia đều được hoạch-định kiểu diện-địa, chiến-thuật hoàn-toàn mang tính-chất bộ-chiến. Nếu như VNCH thực-hiên được những chuyến tấn-công đường biển vào hậu-phương của địch ngoài Bắc-Việt, t́nh-thế ắt đă đổi khác. Thuỷ-quân nhà Nguyễn với những Thành-tích Vô-song Những đoạn văn dưới đây đặc-biệt đề-cập chi-tiết hơn đến nhà Nguyễn với những thành-tích về Thuỷ-Quân. Trong giai-đoạn này, lănh-thổ nước ta bành-trướng gấp đôi. Đáng kể về hải-phận, nước ta nhanh-chóng vượt quá 3 lần diện-tích lớn hơn trước kia. Nghiệp Đế của họ Nguyễn đă xuất-phát từ lư-do pḥng-thủ hải-biên. Sử cho biết rằng khi Trịnh-Kiểm âm-mưu chiếm gọn binh-quyền, giết người anh của Ông là Nguyễn-Uông, Nguyễn-Hoàng t́m cách thoát-hiểm và trả-thù họ Trịnh. Tính-toán măi chưa biết nên làm ǵ, bèn sai người thỉnh-ư Trạng-Tŕnh Nguyễn-Bỉnh-Khiêm, th́ được khuyên một câu: "Hoành-Sơn nhất-đái, vạn-đại dung-thân" (một dải núi Hoành-Sơn có thể dung-thân muôn-đời). Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc-Bảo nói với Trịnh-Kiểm cho Hoàng vào trấn-thủ Thuận-Hoá với lư-do: "Đất ấy hiểm-trở, xa-xôi, khí-hậu khắc-nghiệt, lại là mặt Nam đễ bị tập-kích, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt-biển đánh sau lưng bất-cứ lúc nào". Kiểm buộc-ḷng phải thuận theo v́ biết chỉ có họ Nguyễn là giỏi thuỷ-chiến, đủ sức pḥng-thủ hải-biên an-toàn cho phía Nam. Trịnh-Kiểm dâng biểu tâu vua trao-quyền cho Nguyễn-Hoàng làm trấn-thủ Thuận-Hoá, toàn-quyền xử-lư mọi việc. Hoàng đem người nhà và nhóm quân bản-bộ xuống chiến-thuyền vào Nam năm Mậu-Ngọ (1558) khi 34 tuổi. Cùng đi với Ông, c̣n có số người nghĩa-dũng Tống-Sơn Thanh-Hoá. Mấy ngàn người này, hầu-hết có ít nhiều hiểu-biết về thuỷ-quân, đă mở đầu ra một sự-nghiệp rất dài 400 năm (cho đến 1954). Năm 1572, sau khi đem quân đánh Thanh-Nghệ, tiến về Thuận-Hoá, Mạc-Kính-Điển dùng 60 chiến-thuyền do hải-đạo vào tiến chiếm làng Hồ-Xá và Lăng-Uyển, vượt qua sông Cửa-Việt. Nguyễn-Hoàng lập mưu mỹ-nhân-kế. Tướng địch là Lập-Đạo trúng kế cầu-hoà, bị bắn chết. Nguyễn-Hoàng đánh tan đạo quân này. Sau khi việc trấn-thủ vùng Thuận-Quảng đă yên-ổn, năm 1593 Nguyễn-Hoàng lại đưa Hạm-đội ra giúp vua Lê dẹp nhà Mạc và gian-đảng gần 8 năm. Năm Canh-Tư (1600) được lệnh vua Lê từ Thăng-Long đem thuỷ-quân đi dẹp các tướng nổi loạn Phan-Ngạn, Ngô-Đ́nh-Hàm và Bùi-Văn-Khuê ở vùng sông-ng̣i Nam-Định, Nguyễn-Hoàng cùng quân bản-bộ kéo qua Cửa Đại-An, bất-thần giương buồm thẳng ra Biển-Đông vào ngay Thuận-Hoá. Sau chuyến hải-hành quyết-tâm ra đi này, Hoàng lo việc lập-nghiệp tại duyên-hải phương Nam, không nghĩ việc quay về lại đất Bắc lần nữa. Khởi-nghiệp bằng đoàn Thuỷ-quân nhỏ-bé Nói chung, hầu-hết các triều-Đại-Việt-Nam thường-thường khởi-nghiệp bằng những chiến-công diệt ngoại-xâm hay thống-nhất đất-nước. Anh-hùng nước ta đă quy-tụ được những tấm ḷng yêu-nước thuộc mọi ngành-nghề sinh-hoạt, đến từ khắp nơi trong nước, hợp-quần cùng nhau đứng lên giết giặc, giành độc-lập cho quê-hương. Đặc-biệt sự-nghiệp họ Nguyễn lại có một chỗ đứng hoàn-toàn riêng-rẽ. Thoạt tiên, đoàn quân của họ rất nhỏ-bé chỉ mong được thoát-hiểm, gồm các đồng-hương vùng Thanh-Hoá, tương-đối đồng-nhất về khả-năng và kinh-nghiệm chuyên-biệt về thuỷ-chiến. Nếu được kể là từ khi Nguyễn-Hoàng có quyết-tâm khởi-đầu cơ-nghiệp cho đến khi họ Nguyễn đủ thế-lực xưng Chúa, thành-phần ṇng-cốt của họ đă chiến-đấu sinh-hoạt cạnh nhau trong ṿng nhiều chục năm trời. Nhóm quân lính đó đặt cứ-điểm trên Hạm-đội, thường qua lại khắp các vùng biển Quảng-Nam, Thuận-Hoá, Nghệ-An, Thanh-Hoá và ra vào các sông-ng̣i miền châu-thổ hai sông Hồng và Thái-B́nh, Bắc Đại-Việt. Truyền-thống thuỷ-chiến được con cháu họ Nguyễn chuyên-cần phát-triển và nuôi-dưỡng suốt một chiều dài lịch-sử gần 350 năm, kéo theo con đường Nam-Tiến của họ từ Thanh-Hoá đến tận Phú-Quốc Hà-Tiên. Truyền-thống này theo một vài sử-gia chính là động-lực lớn nhất đưa Nhà Nguyễn đến sự thành-công trong việc mở-mang bờ-cơi, thống-nhất giang-sơn và duy-tŕ được vương-quyền sau nhiều cơn sóng-gió. Hành-lang Biển-Đông Đi từ một nhóm binh-lính dân-đinh năm, bảy ngàn người; bám chặt vào duyên-hải Miền Trung, chúa Nguyễn đă không bị nghiền-nát bởi hàng chục vạn binh-sĩ của chúa Trịnh tấn-công liên-tục mọi mặt gần một thế-kỷ. Trái lại, Nguyễn-Hoàng và những người lănh-đạo tiếp-theo đă đưa Việt-Nam tiến những bước thật dài chưa từng có trong lịch-sử. Biển-Đông biến thành hành-lang hữu-hiệu đưa đoàn thuyền Nam-tiến. Thuỷ-quân thường đi trước, làm nơi nương-tựa cho quân-dân lập-nghiệp trên bờ phối-hợp cùng di-chuyển. Làng-mạc định-cư cứ thế chuyển dần về Nam, chinh-phục toàn-bộ miền Trung và Nam-Bộ. Các Chúa Nguyễn đă đưa đất-nước vươn-ḿnh đến tận vịnh Thái-Lan và toả ảnh-hưởng văn-hoá trên toàn bán-đảo Hoa-Ấn. Đàng-Trong dần-dần trở-thành một vương-quốc hùng-mạnh, tự-trị với Chúa Trịnh ở Đàng-Ngoài (Bắc-Hà). Các nhà truyền-giáo ngoại-quốc trong giai-đoạn này đă hết sức ngạc-nhiên và khâm-phục trước lực-lượng quân-sự hùng-mạnh, sức sống mănh-liệt của nhân-dân cũng như trước mức-độ văn-hoá và đạo-đức rất cao của đất-nước Việt-Nam Xứ Đàng-Trong.644
Bản-đồ Nam-tiến của Dân-tộc.
Hải-Chiến với Hải-tặc Nhật-Bản Cuối thế-kỷ 16, khi hoành-hành cướp-phá bờ-biển Trung-Quốc, Hải-tặc Nhật-Bản cũng tràn qua cả nước ta. Chúng kéo nhau đến Cửa-Việt vào năm 1585. Hoàng-Tử Nguyễn-Phước-Nguyên, con thứ sáu của Chúa Nguyễn-Hoàng đă điều-binh đánh ch́m hai chiếc tầu Ngoạ-khấu (giặc lùn - Kenki). Đây là sử-liệu đầu-tiên đề-cập đến mối liên-hệ giữa Nhật-Bản và Đàng-Trong. Năm 1599, một chiếc tàu Kenki khác khi hải-hành bị mắc-cạn tại Cửa-biển Thuận-An cũng bị một tướng của Chúa Nguyễn-Hoàng chặn-bắt được. Đầy-đủ trang-cụ bị tịch-thu, cả thuỷ-thủ-đoàn tàu cướp biển bị bắt.645 Hai năm sau, 1601, Chúa Nguyễn-Hoàng gửi bức thư ngoại-giao chính-thức đầu-tiên của nước ta đến Tướng-Quân Shogun Tokugawa. Hai xứ Việt-Nhật bắt đầu lập giao-thương đường biển. Thương-điếm vùng Hội-An được thành-lập với nhiều thương-nhân ngoại-quốc và đặc-biệt đông nhất là người Nhật-Bản, bắt đầu phát-triển mạnh-mẽ. Trận Hải-Chiến Thực-sự Đầu-tiên trong Việt-Sử Đọc Việt-Sử ta thấy từ xa-xưa, Tổ-tiên chúng ta từng sử-dụng thuỷ-quân nhiều lần. Tuy vậy nếu ṭ-ṃ xem xét th́ rơ-ràng chưa bao giờ thực-sự có hải-chiến xảy ra. Các trận Chương-Dương, Hàm-Tử... kể cả hai lần đại-thắng Bạch-Đằng của Ngô-Vương-Quyền và Trần-Hưng-Đạo đều là giang-chiến, diễn ra trong sông. Vào năm 1585 ngoài cửa-biển Lục-Thuỷ-Dương, thuỷ-quân Trần-Khánh-Dư đă ghi-công thắng trận duyên-chiến đầu-tiên. Cả trận Cửa-Việt năm 1585 nói trên cũng thuộc loại này. Phải đợi đến cuối thời Chúa Nguyễn-Phước-Lan, ta mới thấy một anh-hùng hải-chiến thực-sự. Đó là Thế-tử Nguyễn-Phước-Tần, sau này trở-thành Chúa Hiền. Sử chép rằng đội chiến-thuyền cảm-tử của Ông đă rượt-đuổi và đánh-tan hạm-đội chiến-thuyền Hoà-Lan (1648) ngoài khơi vùng biển từ Cù-Lao Chàm đến Cù-lao Hàn, gần Mũi Chân-Mây. Hoà-Lan lúc đó đang là đế-quốc có lực-lượng hải-quân hùng-mạnh nhất thế-giới.646
Vùng biển hải-chiến Nguyễn/Hoà-lan từ Cù-Lao Chàm đến Cù-Lao Hàn.
Ưu-thế Thuỷ-Chiến và Binh-Thư Có lẽ họ đă nói đúng nhưng hơi... quá đáng chăng? Các giáo-sĩ Alexandre De Rhodes và Tisannier trong kư-sự, khen quân-lực của chúa Nguyễn hùng-hậu hơn cả Pháp và Bồ-Đào-Nha. Trong Chiến-tranh Trịnh - Nguyễn lần thứ nhất kéo dài đến 45 năm, nói chung họ Trịnh thường khởi thế-công. Họ Nguyễn chuyên pḥng-thủ. Trong tất cả các đợt tấn-công, họ Trịnh chủ-yếu dùng quân bộ, c̣n họ Nguyễn lưu-tâm điều-động thuỷ-quân với nhiều sự mềm-dẻo trong việc điều-quân hầu bảo-toàn lănh-thổ của họ. Thoạt đầu khi đất-đai c̣n nhỏ hẹp, Quân-lực Đàng-Trong ít-ỏi và yếu-kém hơn Đàng-Ngoài, nhà Nguyễn phải nghiên-cứu binh-pháp để làm sao được tồn-tại. Mối quan-tâm về chiến-thuật điều-quân và đặc-biệt về thuỷ-chiến của nhà Nguyễn đă được chính vị Đại-quan Khai-Quốc Công-Thần Đào-Duy-Từ suy-luận và viết ra với rất nhiều chi-tiết. Trong cuốn sách Hổ-Tướng Khu-Cơ của Ông (1572-1634), chương Thuỷ-chiến rất là quan-trọng. Ngày trước, nghệ-thuật thuỷ-chiến mà được viết đầy-đủ như trong các cuốn sách “Hổ-Tướng Khu-Cơ” này thật là hiếm-có. Ngay đến tập Binh-Thư Yếu-Lược của Trần-Hưng-Đạo mà ta thấy truyền-tụng ngày nay cũng đă có nhà quân-sự ghi thêm lẫn-lộn nhiều đoạn của Hổ-Tướng Khu-Cơ vào đó. Ông Nguyễn-Ngọc-Tỉnh, khi phiên-dịch cuốn sách Binh-Thư Yếu-Lược của Trần-Hưng-Đạo đă thấy rơ sự “ghi-chú thêm-thắt lẫn-lộn” từ Sách Hổ-Tướng Khu-Cơ như Phép lấy nước uống trong biển (Trích cả một thiên Thuỷ-Chiến của sách Hổ-Tướng Khu-Cơ, gồm 9 chương)647, ở đây (Ông Nguyễn-Ngọc-Tỉnh) đă bỏ cả... không dịch. Cải-tiến Hải-hành Như ta đă biết, hải-hành cần những hải-đồ và đồng-hồ chính-xác. Chúa Nguyễn-Phước-Chú cho đặt các đồng-hồ Tây-phương nơi các công-sở và đồn tàu dọc biển, sau đó Ông Nguyễn-Văn-Tú rồi tiếp-theo những người khác nữa lại chế-tạo được đồng-hồ. Từ đó, sự điều-động thuỷ-quân theo thời-gian được chính-xác hơn xưa. Chúa Nguyễn với cánh tay Thuỷ-Quân đă nối dài đất-nước tới tận Hoàng-Sa và Trường-Sa. Sách sử Việt-Nam đă ghi-chép về quần-đảo Hoàng-Sa từ thế-kỷ XVII với chi-tiết địa-lư rơ-ràng trong sách "Thiên-Nam Tứ-Chí Lộ-Đồ -Thư" (1630-1653) của Đỗ-Bá. Sau cuốn sách này, ta có "Phủ-biên Tạp-lục" một tác-phẩm của Lê-Quư-Đôn mà trong đó ông tường-thuật những công-tác thi-hành chủ-quyền Việt-Nam trên Hoàng-Sa và Trường-Sa. Các đội Hoàng-Sa trách-nhiệm những đảo Cát Vàng và đội Bắc-Hải trách-nhiệm Trường-Sa, Phú-Quốc; tuân-hành theo lệnh Chúa Nguyễn. Ít nhất đă khởi-sự vào cuối thế-kỷ XVII, sau những chuyến đi biển hàng năm thường dài tới 6,7 tháng, các đội Hoàng-Sa đă báo-cáo lại mọi diễn-biến trên hải-tŕnh làm kinh-nghiệm cho những chuyến công-tác sau này. Từ đời chúa Nguyễn-phúc-Nguyên (1613-1615) hay có thể trước đó nữa, các đội Hoàng-Sa đă được thành-lập để thu-lượm hải-vật. Học-giả Lê-quư-Đôn (1726-1784) từng tham-khảo sổ biên của Cai-đội Thuyên-đức-Hầu (một chức-quyền Hải-Quân cao-cấp ngày trước) thấy năm 1702 đội Hoàng-Sa lấy được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5,100 cân thiếc, năm 1705 được 126 thỏi bạc... V́ không có tài-liệu ghi-nhận bất-cứ một tai-nạn đắm tàu nào, ta thấy rằng khả-năng hải-hành lúc đó đă cao và việc nghiên-cứu đường biển trong thời các Chúa Nguyễn cũng khá đầy-đủ. Bước Đường Bôn-tẩu Trên Biển Khi đọc Sử, chúng ta thường ca-tụng Vua Quang-Trung trọng-dụng chữ Nôm, Tuy vậy, có một câu chuyện chữ Nôm về Nhà Nguyễn rất thích-thú và cảm-động sau đây. Như trên đă nói qua, sau thời hưng-thịnh Chúa Nguyễn đến lúc suy-vong. Nguyễn-Ánh may-mắn sống sót, trốn chạy bằng đường thuỷ, mưu-cầu phục-quốc. Nay thuyền Ông tấp vào bờ sông vắng, mai tàu Ông trôi giạt ra hải-đảo ngoài khơi. Trong khi bị truy-sát, sinh-mạng như chỉ mành treo chuông, chẳng có loại ngôn-ngũ nào hay hơn khi Nguyễn-Ánh muốn bộc-lộ ḷng ḿnh bằng những tiếng nôm-na của mẹ cha ông bà của ḿnh. Điều này khác xa với các văn-bản của Sử-Quán. Các Quan thường dùng chữ Hán và văn-chương biền-ngẫu, sau này c̣n tô-vẽ thêm cho nhà Vua một thứ sơn lót chân-mạng đế-vương. Linh-Mục L. Cadière là người đă đi t́m đọc thấy 14 bức thư chữ Nôm của Nguyễn-Ánh gửi các giáo-sĩ. Trong số đó có cả tờ lệnh ban cho Sĩ-quan Pháp thuộc Hải-quân của Ông. Chúng ta vô-cùng thương-cảm cho một Ông Hoàng đă mất hết uy-quyền, cải-trang thường-dân, lênh-đênh góc-biển chân-trời, hải-đảo xa-vắng, thốt lời chua-chát, than-thở cho số-phận đắng-cay, ray-rứt v́ chưa làm tṛn bổn-phận với Tổ-tiên. Bằng văn Nôm, Ông tự biểu-lộ là một người bạn thành-thực chí-t́nh, một người cha thương-nhớ đứa con ḿnh xa-cách nửa ṿng trái đất... Có lẽ nhà Vua đă viết nhiều tài-liệu tương-tự hay tác-phẩm nôm-na như vậy, nhưng nay đă bị thất-lạc. Khi cần khích-động ḷng quân-sĩ và đồng-bào Việt-Nam của ḿnh, Ông viết bằng tiếng Việt-Nam. Đạo Dụ bằng quốc-văn trong cuộc duyệt-binh ngày 26 tháng 3 năm 1800, trước khi binh-đoàn khởi-hành hay xuống tàu đi cứu Vơ-Tánh, là một bằng-chứng vậy! Giao-thương Khắp Nẻo Nối-tiếp sự-nghiệp các Chúa, Nguyễn-Ánh mở-mang việc thương-mại với các nước láng-giềng và thuyền buôn Tây-phương. Sau khi chiếm lại được Gia-Định lần chót từ tay Tây-Sơn, Nội-viện Trần-Vũ-Khách đưa tàu đi Giang-Lư-Ba (Batavia), Cai-đội Ô-li-vi, Đội-trưởng Ba-la-di đi Goa, Mă-la-Kha (Ba-la-kha - Malacca). Tài-liệu Tây-phương cho biết L. Barizy c̣n trương hiệu-kỳ của chúa Nguyễn buôn-bán với thương-nhân Đan-Mạch, Hanop và Stevenson. Đứng trung-lập trong chiến-tranh Anh-Pháp, họ làm đại-lư cho Ánh ở Tranquebar (Ấn-Độ). Các thương-cảng miền Nam bắt-đầu hồi-sinh. Trước nội-chiến, Tourane nườm-nượp những ghe trọng-tải từ 40-150 tấn đến chở cau, đường mía. Mỗi chuyến riêng mỗi thứ mang đi hàng 40 ngàn tấn. Nhưng vào khoảng năm 1790, khi Âu-châu e-ngại với Tây-Sơn, đường cát tuy có rất nhiều ở Quảng-Nam nhưng không trở-thành món hàng xuất-cảng. Kết-quả của sự thiếu giao-thương là hiệu-năng vũ-khí của Tây-Sơn suy-kém hẳn đi. Trong cuốn sách Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, Tạ Chí Đại Trường viết rằng: “Những khẩu súng nhồi bằng thuốc đạn Trung-Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở Gia-Định nhồi bằng thuốc đạn Tây-Phương.” Thuỷ-chiến là Sở-trường của ta Trở lại với thuỷ-chiến, ta thấy Liệt-Truyện q.10, 6b chép rằng; Nguyễn-Ánh và các Tướng của Ông thường lư-luận và tin-tưởng rằng: "Thuỷ-chiến là sở-trường của ta". Thuỷ-binh bao giờ cũng tiến nhanh và là mũi-nhọn phóng-sâu vào đất địch trước bộ-binh. Tư-thế chủ-động và tính-cách độc-lập của thuỷ-quân c̣n được Sử-gia Tạ Chí Đại Trường xác-nhận là quân ngoài biển không những luôn-luôn đi tiên-phong mà nhiều khi c̣n phải làm thế nương-tựa cho quân bộ-chiến có khả-năng tiến lên nữa. Nhận biết thuỷ-quân là quan-trọng, giá tiền thưởng khi bắt lính đào-ngũ có sự cách-biệt rơ-rệt: quân nào bắt được lính bộ th́ thưởng 30 quan, c̣n được thuỷ-binh th́ được hưởng tới 40 quan (thực lục quyển 4, 12a). Nhà Nguyễn kiến-trúc nhiều chiến-hạm tân-tiến. Các Tây-dương dạng-thuyền như Thoại-Phụng của Barizy điều-khiển, Loan-phi của Chaigneau, Bằng-Phi của DeForçan, Phượng-Phi của Vannier đều có kỹ-thuật rất cao, với thuỷ-thủ-đoàn và quân đổ-bộ đông tới 300 người. Đánh tan Hạm-đội thuyền Tề-ngôi Trung-Hoa Khi Vua Quang-Trung qua đời, lực-lượng quân-sự phía mặt biển suy-yếu thấy rơ. Tây-Sơn phải t́m cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề-Ngôi người Trung-Hoa được bổ-túc vào sự thiếu-sót đó. Các thuyền Tề-Ngôi vừa giữ nhiệm-vụ tiếp-tế cho nội-địa vừa chính là một bộ-phận của thuỷ-quân Tây-Sơn để quân-b́nh sự yếu-kém vậy. Ngoài Bắc-Hà, thuyền buôn không đến nhiều. Của-cải trong nước hư-hao. Sử nhà Nguyễn chép: Cha con Nguyễn-Quang-B́nh dùng binh cướp nước, sai hơn 100 chiếc Tàu ô, 12 viên Tổng-binh lấy tiếng là t́m mua quân-lương, đi chiêu-tập nhiều tụi vong-mạng dọc bờ-biển Trung-Quốc. Lấy quan-tước làm mồi nhử, cấp cho thuyền và khí-giới, sai đưa đường cướp Mân, Việt, Giang, Chiết...648 Tuy số-lượng tàu hải-tặc Trung-Hoa rất đông, nhưng chúng thường ô-hợp, nên dần-dần bị Chúa Nguyễn đánh-tan. Chủ-Tướng của chúng là Đông-hải-Vương Mạc-Quần-Phù cùng các Tướng bị bắt ngoài khơi Thị-Nại khoảng tháng 5 năm 1801. Thuỷ-Quân Gia-Định tung-hoành ra lấy Phú-Xuân, rồi Thăng-Long mà không sợ một lực-lượng lưu-động biển nào theo-đuổi ngăn-trở nữa. Sự Chắc-chắn của các Chiến-Hạm Nam-Hà Thực ra sau khi làm ch́m chiếc tầu Macao tịch-thu được của người Bồ bị băo giạt vào Quy-Nhơn, Tây-Sơn cũng cố-gắng phát-triển thuỷ-quân. Nguyễn-Huệ đă cho đóng những chiếc đại-hiệu-thuyền có thể chở nổi các con voi trận. Có lẽ đó là những chiếc tàu mà người Anh đi lạc vào thành Quảng-Nam chuyến tháp-tùng phái-bộ MacCartney đă nh́n thấy và ước-lượng đến 150 tấn trọng-tải và chắc cũng là loại tàu Định-quốc mà Vũ-Văn-Dũng đem án-ngữ ở cửa Thị-Nại trong trận thuỷ-chiến năm 1801. Thế nhưng chúng ta hăy nghĩ tới những chiếc tàu chiến bọc vỏ đồng của Nguyễn-Ánh rơ là tân-tiến và có sức chịu-đựng hơn nhiều. Học-hỏi Kỹ-thuật Nhưng không Nệ Người Tây-Phương Tŕnh-độ xâm-nhập kỹ-thuật Tây-phương tăng-tiến trong những năm đầu chinh-chiến, nhưng ảnh-hưởng cá-nhân của bọn phiêu-lưu người Pháp sụt xuống rơ-rệt về sau này. Nguyễn-Ánh dùng người Ngoại-Quốc làm Cố-Vấn nhưng Ông rất quyết-đoán, không để Nam-quân lệ-thuộc vào họ. Năm 1792 trong cuộc thuỷ-chiến Thị-Nại lần đầu, Jean Marie Dayot và mấy Hạm-Trưởng người Pháp tham-dự việc tấn-công. Cũng tại nơi đó chỉ 9 năm sau, 1801, các Tướng-Lănh người Việt là Nguyễn-Văn-Trương, Vơ-Di-Nguy, Lê-Văn-Duyệt ào-ạt đốt thuyền địch. Trong khi đó, Chaigneau, Vannier, De Forcan đứng ở hậu-đội. Năm 1793, Sử-quan nhắc tới bọn Tây-Dương-Binh theo quân ở B́nh-Thuận, vây quanh Quy-Nhơn. Năm 1797, trong lực-lượng xuất-phát vào tháng 4-1797 có 447 chiến-thuyền và 42,000 chiến-binh, vẫn c̣n những thoại-hạm (frégate và corvette) do người Âu chỉ-huy. Thế mà chỉ cho đến năm 1801, Chaigneau, Vannier chỉ làm nhiệm-vụ lấy lương tiếp-tế cho Quy-Nhơn, Phú-Xuân mà thôi649. Sau năm 1799, lúc J. Dayot đă đi th́ Olivier cũng muốn từ-chức. Khi nhóm nho-sĩ đứng đằng sau Nguyễn-Vương tăng thêm thanh-thế, uy-tín Tây-phương hạ xuống rất nhanh.650 Phải nói thêm rằng: bọn phiêu-lưu người Pháp rất "ngán" Nguyễn-Ánh. Vào năm 1795, dù phải sửa-soạn binh-thuyền đi cứu Diên-Khánh bị vây lần thứ hai, Ông đă tống-giam Dayot v́ tội làm ch́m chiếc tàu được nhà Vua giao cho trông giữ. Sau đó ít lâu, Dayot bỏ đi và chết đuối khi thăm-ḍ thuỷ-đạo tại Vịnh Bắc-phần. Thời-gian gần cuối cuộc chiến, một Sĩ-Quan khác nữa là L. Barizy bị Ông bắt bỏ tù, khi có người tố-cáo Barizy đầu-độc một chủ tàu buôn. Qua Thế-kỷ 20, Việt-Nam Cộng-Hoà có lẽ đă quá nệ vào những người Hoa-Kỳ đến giúp-đỡ, cố-vấn và cung-cấp phương-tiện. Khi họ rút ra, Miền-Nam mất nơi nương-tựa nên mới xảy ra tai-hoạ diệt-vong. Những Chiến-hạm Trang-bị 32 đại-bác Theo Đại-Nam Thực-Lục Chính-Biên, năm 1793, Nguyễn-Ánh mua lại một chiến-hạm cũ của châu Âu. Ông cho tháo rời chiếc tàu ra từng mảnh để lấy mẫu rồi cho thợ chế-tác những mảnh khác giống như thế, sau đó ráp lại theo mô-h́nh cũ. Chính Nguyễn-Ánh thân-hành đứng trông coi việc này. Nhờ thế, trong năm ấy, theo phương-cách trên, Nguyễn-Ánh đóng được những chiến-hạm nổi tiếng là Long-Ngư, Long-Thượng, Long-Hưng, Long-Phi, Bằng-Phi, Phụng-Phi, Hồng-Phi, Loan-Phi, Ưng-Phi. Những đại-thuyền ấy có vị-trí rất quan-trọng trong thuỷ-quân của Nguyễn-Ánh, nhất là ba chiếc Long-Phi, Bằng-Phi và Phụng-Phi. Long-Phi được trang-bị 32 khẩu đại-bác, c̣n Bằng-Phi và Phụng-Phi th́ 26 khẩu. Mỗi chiếc có thể chở đến 300 người. Những năm sau đó, Nguyễn-Ánh cũng dồn-dập cho đóng thêm những chiến-thuyền quan-trọng, như năm 1796, đóng thêm 15 chiến-hạm, lấy hiệu là "Gia" và xếp theo tam-tài cùng thập-nhị-chi: Thiên, Địa, Nhân, Tư, Sửu, Dần, Măo... cho đến Hợi là đủ 15 tên gọi. Năm 1800, đóng 150 thuyền đi biển; năm 1801, đóng 200 chiếc và các chiến-hạm có tên là Anh, Vũ, Thước, Nga, Quyên, Phu, Lệ, Diên, Chiêu, Ly.651 Để năng-suất lấy gỗ được tăng lên, Nguyễn-Ánh xuất ra 300 quan, cấp cho đội mộc-đĩnh để mua 300 con trâu dùng để kéo gỗ từ rừng Quang-Hoá. Do tích-cực như thế, lực-lượng tàu chiến của Nguyễn-Ánh lớn lên rất nhanh. Có khi trong hai năm mà đóng thêm được 300 pháo-hạm và trong 10 năm đă có một lực-lượng thuỷ-quân hùng-hậu gồm 1200 chiến-thuyền. John Barrow ghi lại: Một người Anh đă thấy ở Sài-G̣n vào năm 1800 một hạm-đội gồm 1200 chiến-thuyền do Nguyễn-Ánh chỉ-huy. Hạm-đội này nhổ neo và xuôi ḍng trong một trật-tự tuyệt-đối, chia làm ba đội và tạo thành một đội h́nh sẵn-sàng ứng-chiến. Cho đến khi chấm-dứt cuộc chiến với Tây-Sơn, lực-lượng hàng-hải của Nguyễn-Ánh gồm gần 100 chiến-hạm, 800 pháo-hạm, 500 bán-pháo-hạm. Số Thuỷ-binh trong Quân-đội Vào đầu thập-niên 1800, Thuỷ-binh chuyên-nghiệp của Nguyên-Ánh gồm có: - Lính làm thuốc đạn xưởng đóng tàu 8,000 - Thuỷ-binh trên các tàu trong cửa-biển 8,000 - Thuỷ-binh trên các tàu đóng kiểu Âu 1,200 - Thuỷ-binh trên các ghe bầu 1,600 - Thuỷ-binh trên các thuyền chiến có chèo 8,000. Tổng-số Thuỷ-quân là 26.800 người trong một quân-lực 139.800652. Lưu-ư rằng quân-đội Nguyễn-Ánh bao gồm nhiều quân, binh-chủng như tượng-quân, công-binh, pháo-binh, tiếp-vận, truyền-tin... Riêng về nhân-lực của Xưởng Đóng Tàu (8,000 người) cần một sự so-sánh với Hải-Quân Công-Xưởng Ba-Son để được dễ hiểu. Trong thế-kỷ 20, thường-thường chỉ có từ 2,000 đến 3,000 thợ ở hải-xưởng này mà thôi. Hoàng-Đế Nguyễn-Ánh, một Biểu-tượng Hải-Quân Những người lính thuỷ ngày nay cho dù có bất-đồng ư-kiến về bất-cứ một vai-tṛ lịch-sử nào của nhà Nguyễn, cũng phải công-nhận Hoàng-Đế Nguyễn-Ánh là một trong những biểu-tượng Hải-Quân vĩ-đại nhất trong ḍng Sử Việt. Ông đă làm nức-ḷng quân-đội, nhất là Thuỷ-quân khi đích-thân nhận quyền Hạm-Trưởng một chiếc Thoại-hạm.
Nguyễn-Ánh, vị Hoàng-Đế Hạm-Trưởng độc nhất trong Lịch-Sử. Vị Hoàng-đế này cũng là nhà chiến-lược hải-chiến tài-ba và rất có thể là vị tướng-lănh Việt-Nam đầu-tiên sử-dụng hải-pháo để mở đường tiến quân, phá-huỷ mục-tiêu, đồng-thời dùng thuỷ-quân xung-phong, giúp cho bộ-binh chiếm-đóng đồn địch. Những hoạt-động quân-sự này chính là bước đi tiền-thân của các Hải-Đoàn Xung-Phong mà ta thấy sau này. Trận Thuỷ-Chiến quyết-định: Đệ-nhất Vũ-công Trận chiến quyết-định cho sự-nghiệp Nhà Nguyễn không xảy ra trên bờ mà là một trận Thuỷ-Chiến. Sử-quan ghi-nhận Đệ-nhất Vũ-công đă diễn ra tại Thị-Nại. Khi đó Vơ-Tánh bị vây tại thành Quy-Nhơn khá lâu. Tháng giêng năm Canh-Thân 1800, Tướng Tây-Sơn là Vơ-Văn-Dũng đưa hai chiếc Định-quốc Đại-hiệu-thuyền, chở từ 50 đến 60 khẩu đại-bác chắn ngay cửa Thị-Nại. Dày-đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn với 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa vào Đầm Nước Mặn. Triền núi, Dũng cho đặt đại-bác yểm-trợ đoàn tàu. Trên bộ, Dũng c̣n có hơn 50 voi trận và quân lính. Nguyễn-Vương cử đại-quân ra tiếp-viện bằng đường biển, sai Nguyễn-Văn-Thành và các Tướng tiến qua Phú-Yên ra B́nh-Định. Quân thuỷ và quân bộ của Vương không thông được với nhau và cũng v́ vậy, không cứu-viện được Vơ-Tánh. Tháng giêng năm Tân-Dậu 1801, Ánh sai các Tướng Nguyễn-Văn-Trương và Tống-Phúc-Lương đánh đồn thuỷ Tây-Sơn, trong khi đó Lê-Văn-Duyệt và Vơ-Di-Nguy đem chiến-thuyền đánh thẳng vào cửa Thi-Nại. Dù biết Vơ-Di-Nguy đă bị trúng đạn chết, nhưng Lê-Văn-Duyệt vẫn ra sức xông-đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây-Sơn. V́ Tây-Sơn đă dồn toàn-thể thuỷ-quân để chiến-đấu nên một khi bị tiêu-diệt, Tây-Sơn không c̣n uy-thế nào đáng kể trên mặt biển nữa. Quân Nam-Hà tiến dần-dần ra Phú-Xuân, rồi thẳng ra chiếm Bắc-Hà rất nhanh-chóng.
Sơ-đồ trận thuỷ-chiến Thị-Nại, vẽ bởi L. Barizy.
Biển-Đông đă Nối liền Gia-Định và Thăng-Long thành Đế-hiệu Gia-Long Bằng cách ngự-trị biển-cả, từ một giấc mộng nhỏ-bé của Nguyễn-Hoàng là mong-mỏi được một phần đất tự-trị "vạn-đại dung-thân" tiếp-tục trải qua đời 9 vị Chúa, sau cùng họ Nguyễn đă đi đến một thành-tích vĩ-đại là thống-nhất quốc-gia, đưa đất-nước qua cảnh nhiễu-nhương chia ba, xẻ bảy. Năm 1802, hai miền thủ-phủ Gia-Định phía Nam và Thăng-Long phía Bắc đă nối liền. Nguyễn-Ánh lên ngôi với đế-hiệu Gia-Long.
Chiến-thuyền Nhà Nguyễn (trái) có gắn đại-bác (8 cây trên sàn thuyền).
Thuyền Hộ-tống cũng là pháo-thuyền: lái thuyền cao để dễ quan-sát và có trí súng lớn nơi mũi để pháo-kích. Đốt cháy Hạm-Đội Anh-Cát-Lợi Dù không c̣n phải dụng-binh nhiều sau năm 1802, Thuỷ-quân Nhà Nguyễn vẫn c̣n rất mạnh. Nước Anh đưa thư xin ngoại-giao-thông-thương ba bốn lần đều bị khước từ. Năm 1803 khi một Hạm-đội của họ gồm 7 chiếc tàu tiến từ Biển-Đông theo đường sông vào Hà-Nội, bị quân ta đốt cháy. Không thấy chính-phủ Anh-Cát-Lợi phản-đối.
Một kiểu Chiến-thuyền 3 buồm Anh-Cát-Lợi. Có lẽ v́ Anh-Quốc biết rằng ḿnh có lỗi khi xâm-nhập hải-phận và lănh-thổ Việt-Nam một cách bất-hợp-pháp, nên mọi việc cũng êm. Tài-liệu hiếm này được Nhà Quân-Sử Phạm-Văn-Sơn ghi lại trong Việt-Sử Toàn-Thư.653 Truyền-thống Tàu-thuyền Ngàn-Năm: Trống đồng và Cửu-đỉnh Sau Gia-Long, vị vua thứ hai triều Nguyễn là Minh-Mệnh. Ông Vua này đáng được kể là một nhà Văn-Hoá lớn khi chính Ông đă cho thực-hiện bộ Cửu-đỉnh gồm 9 cái đỉnh đồng rất lớn. Chúng tôi xin tŕnh-bày nội-dung công-tŕnh đó một cách ngắn-gọn như sau: Đồ-Đồng Đông-Sơn được sản-xuất vào Thiên-kỷ thứ nhất TTL. tiêu-biểu cho nền văn-hoá đặc-thù của dân-tộc Việt-Nam trong thời-kỳ mở-nước và dựng-nước các triều-đại Hùng-Vương. Như đă tŕnh-bày ở trên, "Các h́nh vẽ và trang-trí tàu-thuyền trên trống đồng Đông-Sơn luôn-luôn tạo nên ư-tưởng về những biểu-tượng của nghệ-thuật hàng-hải, đồng-thời chứng-minh một cách không thể lầm-lẫn về tầm ảnh-hưởng của một thế-lực dựa trên căn-bản của biển-cả."654 Khi hiểu như vậy, ta thấy tinh-thần tập-đoàn của thuỷ-thủ đă tạo thành gốc rễ cho sự đoàn-kết và phát-triển quốc-gia chúng ta suốt bốn ngàn năm lịch-sử.
Bẵng đi hơn 2,000 năm, Nhà Nguyễn nhận-thức được cái tinh-thần hàng-hải cao-quư lâu đời đó cần phải được phát-huy trở lại. Theo Đại-Nam Nhất-Thống-Chí, Quyển Biểu Kinh-Sư655, năm 1836 nhà Vua cho đúc chín cái đỉnh. Trong những biểu-tượng quốc-gia chạm-khắc trên đỉnh, người ta thấy xuất-hiện những h́nh-ảnh thuộc nhiều loại tàu-thuyền như sau: - Cao-đỉnh: Đa-tác-Thuyền 3 cột buồm, có nhiều giây - Nhân-đỉnh: Lâu-Thuyền tính từ hầm thuyền lên có 2 tầng lầu - Chương-đỉnh: Mông-Đồng-Thuyền, thuyền chiến có 8 cặp chèo - Nghị-đỉnh: Hải-Đạo-Thuyền, thuyền chuyển-vận đường biển có 7 cặp chèo - Thuần-đỉnh: Đĩnh, thuyền đua hẹp ngang và dài có 9 cặp chèo - Tuyên-đỉnh: Lê-Thuyền, ghe lê có 6 cặp chèo - Du-đỉnh: Ô-Thuyền, ghe Ô có hai buồm Đây là những kỷ-vật quư-giá vô-cùng, đồng-thời là những thành-tích văn-hoá sâu-đậm dành cho hậu-thế muôn đời về mai sau. Thuỷ-quân Nhà Nguyễn Suy-thoái Đưa đến sự Mất Nước Sử chép rằng: Thuỷ-quân nhà Nguyễn có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh. Vua Thánh-Tổ vẫn biết rằng nước ta ở dọc bờ bể, thuỷ-binh là việc rất yếu-trọng cho sự pḥng-bị. Thường Ngài bắt quan đem binh-thuyền ra để luyện-tập. Đại-khái việc binh-cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo-dưỡng-binh, để cho con các quan vơ, từ suất-đội trở lên ai muốn t́nh-nguyện vào học, th́ cho lương-bổng, và cử quan đại-thần ra dạy vơ-nghệ. C̣n như khi nào có quân lính đi đâu, th́ nhà vua đặt lệ sai mấy người Y-sinh đi theo để điều-hộ. Tuy nhà vua muốn lưu-ư về việc binh-lính, nhưng người ḿnh lúc bấy giờ ai cũng trọng-văn khinh-vơ, b́nh-nhật không có ai lo ǵ đến việc quân-lính, khí-giới. Hễ có lâm-sự th́ mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ-dụ ra tập-binh, mai có chỉ-dụ ra tập-trận mặc ḷng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ-mặc bọn quản-đội làm thế nào th́ làm. Thành ra quân-số ở trong sổ-sách th́ nhiều, mà thế-lực th́ vẫn không đủ: ấy là đời vua Thánh-Tổ mà c̣n thế, huống-chi đến những đời sau, lại c̣n suy-nhược hơn nữa. Nước và Vua Duy-Tân Theo với vận nước suy-tàn, Nhà Nguyễn cũng c̣n được nối dơi bởi một nhà Vua trẻ và giỏi. Đó là Vua Duy-Tân, tuy sự-nghiệp ngắn-ngủi nhưng rất anh-hùng và yêu nước chân-thành. Trong khi người Pháp đang áp-đặt ách thống-trị lên dân ta, tinh-thần "Nước" với ḷng yêu Nước, thương Dân của Vua Duy-Tân đáng được kể là rất sâu-đậm ngay từ thuở thiếu-thời. Tương-truyền, có lần Nhà Vua chỉ mười mấy tuổi này đang ngự-thuyền câu cá ở Cửa-Tùng, tự-nhiên Ông than-thở rằng: Ngồi trên Nước mà không ngăn được Nước, buông câu ra đă lỡ phải lần... Một hôm, Vua Duy-Tân ngồi chơi cát ngoài băi biển, một cận-thần lấy nước cho Ngài rửa tay. Ngài hỏi một câu tương-tự cũng về "Nước" như sau: Tay nhớp lấy Nước rửa, thế nếu Nước nhớp lấy ǵ mà rửa. Ư của Ngài rất có thể là: Nếu Nước (Việt-Nam) nhơ-nhớp, chúng ta có thể dùng máu để rửa cho sạch chăng? Sau Nhà Vua bị người Pháp đưa đi-đày tại đảo Reunion, rồi tử-nạn máy-bay khi phục-vụ trong quân-đội Đồng-Minh. Có lời thơ khen vua Duy-Tân như sau: Một đời v́ nước v́ dân Duy-Tân đứa trẻ không cần ngôi vua Tù-đày khổ-nhục khi thua Tử rồi khí-phách Ông Vua muôn-đời.
Ba h́nh-ảnh Vua Duy-Tân. Thuỷ-quân cho đến cuối đời Vua Thiệu-Trị (1846) Nói về Thuỷ-quân, Việt-Nam trên chân hẳn các nước thù-địch (liên-quân Xiêm ở Cambodge), trong khi đó Lục-quân bị yếu thế v́ thiếu Tượng-quân. Khi nào những đàn voi khổng-lồ của địch tham-chiến, quân Việt-Nam đôi khi bị thua.656 Lực-lượng vũ-trang thời Nguyễn đông-đảo, nhưng t́nh-trạng đă suy-thoái. Phạm-Phú-Thứ đă viết về quân-đội thời Tự-Đức như sau: "Quân-sĩ hèn-nhát là do chưởng-quan bất-tài và vô-quyền. Quân-sĩ nhiều người không lương-bổng, rất đói-khổ phải t́m cách giúp-đỡ nhau, chứ không trông-mong ǵ đến gạo ở trong kho. Quan vơ th́ thường than-thở rằng ḿnh hết sức chống-giữ biên-cương, rủi-ro chết th́ chỉ thiệt ḿnh, chứ công-trạng th́ nào ai nghĩ đến cho". Năm 1847, Pháp sai Hải-Quân Đại-Tá Lapierre chỉ-huy chiến-hạm La Gloire (Vinh-Dự) và Hải-Quân Trung-Tá Rigault de Genouilly chỉ-huy chiến-hạm La Victorieuse (Chiến-thắng) đến Đà-Nẵng yêu-cầu triều-đ́nh Huế băi bỏ lệnh cấm đạo. Trấn-thủ Đà-Nẵng không chịu nhận thư của Pháp, và ra lệnh cho chuẩn-bị chiến-hạm để đối-phó. Sau một tháng hai bên thương-lượng không có kết-quả, Đại-Tá Lapierre ra lệnh cho hai chiến-hạm Pháp bắn vào năm chiếc tàu đồng657 của nhà Nguyễn. Theo Việt-Sử Toàn-thư của Phạm-Văn-Sơn th́ chỉ trong ṿng một giờ, chu-sư của ta bị phá tan. Lapierre không cho quân đổ-bộ và ngày hôm sau rời khỏi cửa Hàn. Khoảng 11 năm sau, vào ngày 27 tháng 6 năm 1858, Đô-đốc Rigault de Genouilly đem các chiến-hạm Pháp ở Viễn-Đông hợp cùng một tàu chiến của Tây-Ban-Nha đột-nhiên mở cuộc tiến-công vào Đà-Nẵng. Triều-đ́nh Huế vội sai Hữu-dực Tướng-quân Bào-Trí hợp sức với Tổng-Đốc Nam-Ngăi là Trần-Hoằng chống cự. Triều-đ́nh Huế lại sai Hữu-quân Lê-Đ́nh-Lư làm Tổng-thống đem hai ngàn cấm-binh vào chặn-đánh quân Pháp. Kinh-lược-sứ Nguyễn-Tri-Phương cũng được cử làm Tổng-thống và Thống-chế Chu-Phước-Minh làm Đề-đốc để đánh quân Pháp. Rigault de Genouilly định lấy Đà-Nẵng xong th́ tiến quân đánh Phú-Xuân. Nhưng y không thấy các giáo-dân nổi lên làm nội-ứng như các giáo-sĩ Pháp đă hứa, đă thế thời-tiết lại nóng-nực, binh-sĩ Pháp nhiều người chết v́ bệnh lỵ và bệnh dịch-tả. Y liền thay-đổi chiến-lược: giao các đồn đă chiếm được ở Đà-Nẵng cho Đại-Tá Troyon rồi kéo đại-đội chiến-hạm vào Gia-Định. Ngày 11 tháng 2 năm 1859, chiến-hạm Pháp tiến vào cửa Cần-Giờ và đến ngày 18 tháng 2 th́ chiếm được Sài-G̣n. Hộ-đốc Vơ-Duy-Ninh tự-tử. Đến đây ta có thể coi là thuỷ-quân của triều-đ́nh Huế không c̣n nữa, thuỷ-quân Pháp đă làm chủ Việt-Nam, chúng có thể làm bất-cứ việc ǵ.
Tem thơ kỷ-niệm Anh-Hùng Nguyễn-Tri-Phương. Ôn-Cố Tri-Tân Năm 1858 khi nước Pháp mở đầu chiến-dịch đánh-chiếm Việt-Nam, dưới triều vua Tự-Đức, nước ta chưa được canh-tân và cơ-giới-hoá nên Thuỷ-quân của ta cùng chung một hoàn-cảnh là chỉ có các tàu-thuyền chạy buồm và chèo tay mà thôi nên người Pháp, với những chiến-hạm cơ-giới tối-tân và đại-bác cỡ lớn, đă chiếm được nước ta một cách dễ-dàng, mặc-dù họ chỉ có rất ít quân. Ta hăy tưởng-tượng, ngoại-trừ Sài-G̣n và Hà-Nội là 2 nơi mà chiến-hạm địch phải vào trong sông mới đánh-phá được c̣n tất cả các nơi khác của ta từ Hải-Pḥng đến Nam-Định, Ninh-B́nh, Vinh, Đồng-Hới, Huế, Đà-Nẵng, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Cam-Ranh, Phan-Rang, Phan-Thiết, Vũng-Tàu, Bạc-Liêu cho đến Rạch-Giá, Hà-Tiên, Dương-Đông v.v.. nói chung là tất cả các tỉnh vùng duyên-hải, địch chỉ cần cho chiến-hạm chạy dọc ven-biển và tác-xạ vào những nơi đông dân-cư là thiệt-hại của chúng ta đă vô-cùng nặng-nề rồi th́ làm sao mà kháng-cự nổi nếu không ngăn-chặn được địch từ ngoài biển-khơi!
Những con voi trận Nhà Nguyễn sau-cùng tham-chiến năm 1859 bảo-vệ thành Gia-định (h́nh lưu-trữ của Universidad Santo De Tomas, Tây-Ban-Nha).
Ôn cố tri tân, nhắc lại lịch-sử để thấy rằng tiền-nhân của chúng ta đă bao phen biết sử-dụng khéo-léo Thuỷ-quân mà đánh-tan được quân xâm-lăng hung-hăn và có sức-mạnh trội hơn chúng ta bội-phần. Trong việc đánh-đuổi quân xâm-lăng Trung-Hoa, tổ-tiên ta đă chiến-thắng vẻ-vang là nhờ ở lực-lượng Thuỷ-Quân của chúng ta ngang-ngửa lực-lượng địch, c̣n trong việc chống lại quân xâm-lăng Pháp chúng ta đă thất-bại hoàn-toàn đưa đến gần trăm năm đô-hộ người Pháp là v́ khi đó lực-lượng Thuỷ-Quân của ta so với địch không có ǵ cả! Nh́n vào bản-đồ của Việt-Nam ngày nay chúng ta nhận thấy một điều rất đặc-biệt, đó là một nước mà đất-đai trải dọc theo bờ-biển dài gần 2,500 cây-số từ vĩ-tuyến 8 độ Bắc đến vĩ-tuyến 23.5 độ Bắc, với bề ngang không quá 200 cây-số (ngoại-trừ Bắc-Việt), bao-bọc và trấn-giữ hết mọi đường ra biển bằng cửa sông của các nước Kampuchea và Lào. Trên phương-diện quân-sự, với một bờ-biển dài và bề ngang đất-đai hẹp như vậy nếu chúng ta không phát-triển Hải-Quân th́ làm sao chúng ta giữ nước được! 658 H́nh-ảnh chiếc thuyền chiến Nhà Nguyễn bị quân Pháp tịch-thu tại Hải-Pḥng (Dick De Lonlay, 1890).
Kết-Luận: Không quên Thuỷ-chiến, Nét Độc-đáo Việt-Nam Nhà Quân-Sử Phạm-Văn-Sơn xác-nhận rằng: Các sách sử cũ ghi chép người Việt rất sở-trường về thuỷ-chiến. Điều này ta nhận thấy dân-tộc ta quả có tài chiến-đấu đặc-biệt về mặt thuỷ trong các cuộc xung-đột với Trung-Quốc từ 20 thế-kỷ nay..." Không có một dân-tộc nào trên thế-giới có được những trang sử đấu-tranh đậm-đà màu-sắc thuỷ-chiến như của dân-tộc Việt-Nam. Đa số các trận đánh lớn trong lịch-sử chiến-tranh của dân-tộc ta đều diễn ra trên chiến-trường sông biển...Trong quá-tŕnh, một nền nghệ-thuật thuỷ-chiến đó đă h́nh-thành, mang những nét độc-đáo Việt-Nam. Trong quá khứ, Ngô-Quyền mở nước bằng thuỷ-chiến Bạch-Đằng. Khi Nhà Lư hùng-cường, Lư-Thường-Kiệt cầm thuỷ-quân đánh Tống b́nh Chiêm. Nhà Trần đuổi Mông-Cổ ra ngoài bờ-cơi cũng bằng thuỷ-chiến Bạch-Đằng. Vua Gia-Long thống-nhất đất-nước với kỳ-tài và nỗ-lực sử-dụng Thuỷ-quân. Về tương-lai mối lo của dân ta cũng như bao giờ, sẽ lại đến từ mặt biển, từ Hoàng-Sa, Trường-Sa... Quân thuỷ vốn có khả-năng đặc-biệt là đánh nhanh, đánh bất-ngờ, thọc-sâu vào đất địch. Một chính-quyền tốt phải lo việc xây-dựng Hải-Quân, bảo-vệ đất và nước. Đến ngay như trong thời-gian Miền-Nam nguy-ngập vào đầu năm 1975, nếu có hải-lực đủ mạnh tấn-công tập-hậu Cộng-Sản Bắc-Việt, quân xâm-nhập của chúng tất phải rút về.. Và... t́nh-h́nh hẳn đă đổi khác. Chúng ta không bao giờ nên quên Thuỷ-chiến là nét độc-đáo Việt-Nam!
Vũ-Hữu-San Phụ-bản Sinh-Hoạt Người Việt Cổ
Tiền-nhân chúng ta Sống ngoài Biển thời Băng Đá Trong lịch-sử trái đất, mực nước biển đă dâng lên hạ xuống nhiều lần, sự sai-biệt có tới 150m. Cách nay chừng 18,000 năm, diện-tích Biển-Đông chỉ bằng phân nửa hiện nay. Dân-cư vùng duyên-hải vốn sống bằng cách thu-lượm tôm-cá, ṣ-ốc. William Meacham659 khi nghiên-cứu bản-đồ địa-h́nh đáy biển, cho biết lúc xưa bờ Biển-Đông tương-đối bằng-phẳng nhưng bị sông, hồ nước chia cắt khắp nơi660. Khoảng 14,000 năm trước đây, bè tre đă xuất-hiện như phương-tiện di-chuyển chính-yếu.
H́nh-thể Biển-Đông với các đồng-bằng thời Băng-đá Theo ư-kiến của một số nhà khảo-cổ, dân-cư của vùng Nanhai, Sunda sinh-sống trong môi-trường hàng-hải. 661
Nhà khảo-cổ Malcolm F. Farmer, trong khi đi t́m nguồn-gốc thuyền-bè, đă thấy rằng Vịnh Bắc-Việt nơi có chứng-cớ nhiều truyền-thống liên-hệ nhất giữa những loại bè thời-cổ với thuyền độc-mộc và với các ghe-thuyền kiến-trúc có sườn, có khung sau này. Farmer cho rằng chính trên các loại bè này, người ta đă phát-minh cánh buồm đầu-tiên. Chắc-chắn "Bè có trang-bị Buồm" là phương-tiện viễn-duyên đầu-tiên của nhân-loại. 662 Rồi qua thời Hậu Băng-Đá663, nước biển cứ cao dần. Khi mực nước biển gần đạt đến mức-độ như hiện nay, chừng -25m, bờ-biển đă lùi sâu vào lục-địa, gặp đúng chỗ địa-thế lởm chởm, lồi lơm. Nhiều nhóm người sống trên các hải-đảo. Sự liên-lạc, di-chuyển bằng thuyền-bè trở nên càng ngày càng cần-thiết hơn.
Bờ-biển lúc xưa phẳng-phiu, nay lởm-chởm lồi-lơm. Các trở-ngại, khó-khăn trên biển đă thúc-đẩy con người phải phát-minh ra những cánh-buồm, những bánh-lái, những loại thuyền nhiều thân và những cơ-phận điều-khiển khác để việc hải-hành được an-toàn hơn, tránh bị thổi ra ngoài khơi664. Meacham tin rằng 6,000 - 4,000 năm trước Tây-lịch, những nền văn-minh vùng châu-thổ sông Hồng bắt đầu nảy-nở. Đồ gốm đă được nặn trên bàn xoay ở Đậu-Dương. Khoa khảo-cổ cũng t́m thấy dây câu, lưới bắt cá và thuyền độc-mộc. Phần lớn dân-cư sống bằng ngư-nghiệp. (4,000 năm TTL..). Nhiều người đặc-biệt thích-nghi với môi-trường nước, một số nhỏ hơn sống suốt đời trên bè, trên ghe. Một vài nhóm trở-thành những bộ-lạc hải-du.665 Môi-trường Đặc-biệt thời Băng Đá tạo Sinh-hoạt hàng-hải Vùng Đông-Nam-Á nói chung và vùng Vịnh Bắc-Việt nói riêng là nơi duy-nhất trên thế-giới đă trải qua nhiều cuộc biến-chuyển mạnh-mẽ về địa-lư và nhân-văn đặc-biệt ảnh-hưởng bởi môi-trường nước. Một số nhà nghiên-cứu cho rằng sự thay-đổi về địa-lư Biển-Đông không những chỉ làm thay-đổi môi-trường sinh-sống của sinh, thực-vật trên đất, dưới biển trong vùng mà c̣n tạo-dựng lên cả một cuộc biến-đổi to-lớn làm phát-sinh những nền văn-minh quan-trọng về nông-ngư-nghiệp cùng hàng-hải có thể gọi là tiền-tiến của nhân-loại. Tài-liệu mới nhất là cuốn “Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia” của Bác-Sĩ Stephen Oppenheimer, xuất-bản tại Anh-Quốc năm 1999. Dựa trên những kiến-thức cập-nhật mới đây của các ngành khoa-học như di-truyền-học, nhân-chủng-học, thần-thoại, văn-học dân-gian, ngôn-ngữ-học, hải-dương-học, khảo-cổ-học... để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên-cứu Đông-Nam-Á-học và khảo-cổ-học phải ngẩn-ngơ666... Có người c̣n cho rằng đây là một quyển sách quan-trọng vào bậc nhất trong ngành Đông-Nam-Á-học!667 Chính tác-giả Oppenheimer đă viết: "Lư-thuyết mà tôi tŕnh-bày trong cuốn sách này. lần đầu-tiên, đặt Đông-Nam-Á vào trung-tâm của các nguồn-gốc văn-hoá và văn-minh. Tôi cho rằng nhiều người đă phải di-tản khỏi vùng duyên-hải của họ ở phương Đông v́ lụt-lội. Những người tị-nạn này từ đó vun-đắp những nền văn-minh vĩ đại ở phương Tây." Đă có nhiều nhà khoa-học cố-gắng giải-thích sự h́nh-thành nền văn-hoá hàng-hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông-Nam-Á nói chung. Những sắc-thái đặc-thù này khác-biệt hẳn với sắc-thái văn-hoá hoàn-toàn lục-địa của Trung-Hoa. Sự Phân-tán Văn-minh theo Đường Hàng-hải Lư-thuyết Norman cho rằng một số lớn dân Đông-Nam-Á khởi-sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên-hải668, sau này hội-nhập với dân-cư vùng cao-nguyên nhưng rồi trở về lại vùng đồng-bằng gần biển, tiếp-tục phát-triển nghề hàng-hải.
Thuyết Buckminster Fuller về Hải-lộ phân-tán dân-cư. Khi nước biển dâng-cao, từ Biển-Đông di-dân đi ra khắp nơi theo các giai-đoạn phát-minh thuyền-bè, buồm, xiếm... Wilheim G. Solheim cho rằng 6,000 năm trước, dân Đông-Nam-Á đă mạo-hiểm ra khơi v́ nhu-cầu di-chuyển. Gió-băo và hải-lưu của Biển-Đông và Thái-b́nh-Dương đă cuốn-trôi một số người tới Nhật-Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Phi-luật-Tân, Nam-Dương và Melanesia. Tiếp-theo, những toán dân-chúng di-chuyển tới các đảo ngoài khơi Thái-b́nh-Dương và sang Madagascar. Bàn rộng hơn thế nữa, cũng theo Solheim, Biển-Đông của Đông-Nam-Á thời-cổ c̣n là nơi phát-sinh những đường hàng-hải giao-tiếp với các nơi ở dọc biển Á-châu, Âu-châu, Phi-châu, Đại-dương-châu và cả Mỹ-châu. Solheim lư-luận rằng chỉ có sự-kiện Đông-Nam-Á giữ vai-tṛ trung-tâm phân-tán như trục một cái bánh xe toả nan-hoa ra khắp nơi mới giải-thích được hiện-tượng lịch-sử là tại sao các chủng-tộc khác-biệt của loài người sống xa-cách nhau trên khắp thế-giới lại có nhiều sự tương-đồng về sinh-hoạt văn-hoá như vậy!669 Cùng nhận-định như Solheim nhưng đi trước ông tới 40 năm, nhà ngữ-học Pháp Paul Rivet đă làm nhiều cuộc nghiên-cứu và kết-luận rằng: "Từ vùng Đông-Nam Á-châu, một thứ ngôn-ngữ đă được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến Nhật-Bản, Tasmania, Địa-trung-hải, Phi-châu và Mỹ-châu".670
Quan-niệm truyền-bá ngôn-ngữ ĐNÁ đi khắp thế-giới theo đường hàng-hải, khởi-sự từ Biển-Đông (Paul Rivet, 1929).
Carl Sauer duyệt-xét những biến-chuyển về địa-lư Biển-Đông trong thời-khoảng mười mấy ngàn năm trước đây, đưa ra kết-luận về tinh-thần tiến-bộ của cư-dân người Việt (Yüeh) thời-cổ như sau: "Mực nước Biển-Đông dâng-cao làm tăng thêm nhịp bồi-đắp phù-sa lên những khu thung-lũng duyên-hà trong khi các vùng đất thấp tiếp-tục bị lụt. Dân-cư khi xưa sống rải-rác th́ lúc này thu lại thành các vùng cư-trú dọc theo nguồn nước... Một thế-giới mới đă thành-h́nh, sự thay-đổi môi-trường vật-lư địa-dư đă trở-thành cơ-hội thuận-tiện tối-đa cho những dân thích phiêu-lưu và mong tiến-bộ... Người dân bỏ sự nhàn-rỗi và nhờ trí-óc ṭ-ṃ để t́m thử-nghiệm, một cộng-đồng như vậy chỉ cần một thời-gian ngắn để chuyển-tiếp từ ngư-nghiệp sang thẳng nông-nghiệp.671 Cùng với Meacham, Sauer ư-thức tầm quan-trọng của ngư-nghiệp và hàng-hải trong tiến-tŕnh văn-minh Đông-Á thời-cổ. Khác-biệt hẳn với các nơi khác trên thế-giới, Biển-Đông và vùng đất chung-quanh có tới hai vụ gió-mùa trong một năm, nên hoàn-cảnh rất thuận-lợi cho sự phát-triển các ngành nông-nghiệp, ngư-nghiệp và hàng-hải.672 V́ Biển-Đông có hai mùa gió nên việc hải-hành viễn-duyên khi đi cũng như khi về rất tiện-lợi. Hàng-hải phát-triển kéo theo sự bành-trướng thương-mại. Sự trao-đổi hàng-hoá nâng cao kỹ-thuật chế-tạo phẩm-vật và phương-tiện giao-thương. Charles F. Keyes viết trong sách "The Golden Peninsula"673 rằng Việt-Nam là nơi phát-khởi nền văn-minh Hoà-B́nh trải rộng khắp Đông-Nam-Á. Keyes đă xác-định hai điểm sau: - Quá-tŕnh văn-hoá thời tiền-sử của toàn vùng Đông-Nam-Á thường được chia ra làm những giai-đoạn mà chỉ-danh từng giai-đoạn lấy từ địa-danh các vị-trí khảo-cổ tiêu-biểu nhất như Hoà-B́nh, Bắc-Sơn, Đông-Sơn; tất cả đều nằm trong Bắc-phần Việt-Nam (trang 182.) - Thời-đại Đồ-Đồng xuất-hiện vào khoảng 3,000 đến 2,500 năm TTL. ở Đông-Nam-Á, nghĩa là khởi-sự sớm hơn Trung-Hoa và Ấn-Độ. Biểu-tượng chính của nền văn-minh này là những Trống Đồng t́m thấy ở nhiều nơi xa xăm như Fores, Sulawesi thuộc Nam-Dương quần-đảo. Những trống đồng như vậy đều được đúc tại vùng đất Đông-Sơn nhỏ-hẹp của Việt-Nam, từ đó trống được phân-phối đi khắp Đông-Nam-Á theo đường hải-thương (trang 16.) Nằm cạnh bờ Vịnh Bắc-Việt, nền văn-minh Đông-Sơn không những chi-phối các sinh-hoạt con người toàn vùng Đông-Nam-Á mà c̣n ảnh-hưởng xa hơn, ra các đảo Thái-B́nh-Dương và đến cả Mỹ-Châu. Điều cần-thiết phải nhấn-mạnh là Đông-Sơn, đặc-biệt hơn một số các nền văn-minh khác ở chỗ nó nhuốm màu-sắc hàng-hải, hướng về biển-cả hơn là đất-liền. Cũng nhờ đó, Đông-Sơn trở-thành một trong các nền văn-minh có địa-bàn rộng-răi bao-la nhất trong lịch-sử nhân-loại. Cho dù các văn-minh Cận-Đông, Ai-cập, Ấn-Độ, Trung-Hoa, Hy-Lạp, La-Mă... có chói sáng, có vĩ-đại mấy đi nữa; cũng chưa bao giờ được kể là đă đi xuyên đại-dương, vượt ngang qua nhiều đại-lục. Trong học-thuyết về nền văn-hoá Đông-Sơn, Victor Golubev674 nói đến ảnh-hưởng của nó ra các khu-vực. Ông nêu rơ các dấu-tích ảnh-hưởng của nền văn-minh Đông-Sơn cổ ở những quốc-gia miền Nam và vùng ven-biển Trung-Quốc, quần-đảo Nhật-Bản, ở các dân-tộc Nam-Đảo châu Đại-Dương. Là người hỗ-trợ tư-tưởng về những cuộc tiếp-xúc văn-hoá rộng-lớn thời-cổ, ông kiên-tŕ nhấn-mạnh nguồn-gốc bản-địa của nền văn-hoá Đông-Sơn. Trong cuộc tranh-luận với E. Gaspardone, ông đă bác-bỏ quan-điểm chủ-đạo trong ngành Hán-học Pháp rằng, dụng-cụ bằng kim-loại, cũng như nhiều đặc-trưng khác của nền văn-minh và văn-hoá Trung-Hoa, mới du-nhập vào Việt-Nam sau khi nhà Hán xâm-chiếm được đất Việt.675
Trống Đồng ghi-dấu khắp nơi ở Đông-Nam-Á (Trống Đông-Sơn, Viện Khảo-Cổ-Học, Hà-Nội 1987, trang 131).
Ghe-thuyền Việt-Nam Kỹ-thuật cao trong Cổ-thời Nhiều nhà nghiên-cứu hàng-hải Âu-Mỹ đồng-ư với quan-điểm của Clinton R. Edwards rằng bờ-biển Việt-Nam, đặc-biệt vùng Vịnh Bắc-Việt và Hoa-Nam chính là nơi quy-tụ nhiều kiểu ghe-thuyền phong-phú hơn bất-cứ nơi nào khác trên thế-giới. Kiến-trúc tàu-bè Việt-Nam rất độc-đáo và đă đạt đến tŕnh-độ kỹ-thuật cao ngay từ cổ-thời. Edwards cho rằng những Người Biển (Orang Laut) ở Đông-Nam-Á thuộc những bộ-lạc Hải-du (Sea nomads) phát-triển truyền-thống hàng-hải trước khi chính họ mở-mang nông-nghiệp.676 Tuy vậy nhân-loại ít lưu-tâm tới quá-tŕnh hàng-hải đó nếu như trong khoảng bốn thập-niên trở lại đây không có phong-trào nghiên-cứu những giao-tiếp Á-Mỹ trước thời Kha-Luân-Bố677. Một trong những học-giả uy-tín nhất là Robert Heine-Geldern đă nhận ra nhiều mối liên-hệ văn-hoá giữa Mỹ-Châu và bờ-biển Á-Đông mà trong đó nền văn-hoá Đông-Sơn của Việt-Nam rất đậm nét.678 V́ giao-tiếp chỉ có thể thực-hiện được bằng đường biển nên người ta cần t́m hiểu kỹ-thuật kiến-trúc ghe-thuyền. Đó là lư-do thúc-đẩy các nhà xuất-bản cho in các cuốn sách nghiên-cứu mới và tái-bản những sách cũ mà tài-liệu liên-hệ đến nền hàng-hải cổ-thời của Việt-Nam.679 Người Việt Tiên-phong về Kiến-trúc Ghe-thuyền Chúng tôi đă điểm qua các thuyết về quá-tŕnh hàng-hải của dân ta. Nếu quả thực như vây, chúng ta phải t́m-kiếm xem dân ta đă phát-minh và hoàn-thiện ghe tàu như thế nào th́ mới hoàn-toàn thuyết-phục được mọi người. Nói về những thành-quả phát-minh của người Việt trong công-tác kiến-trúc thuyền-bè, người ta sẽ phải viết rất nhiều. Đề-tài này chưa được nhiều người Việt-Nam nghiên-cứu và viết thành sách. Riêng chúng tôi trong khi đi t́m ra những điểm mốc căn-bản cho kỹ-thuật hàng-hải thời-cổ, đă thấy rằng nhân-loại nói chung đă đi từ khúc cây làm bè, chuyển dần qua thuyền, cải tiến buồm để di-chuyển mọi hướng (quan-trọng nhất là đi chếch ngược với hướng gió) và có lẽ sau cùng nghĩ ra cách vận-chuyển (lái) thuyền tự-động (không cần người lái). Những mốc bức-phá quan-trọng nhất về hàng-hải đúng là đă xảy ra tại Biển Đông (mà cái nôi là Vịnh Bắc-Việt). Sau đây, chúng tôi xin lược-kê các phát-minh được thực-hiện bởi tiền-nhân người Việt chúng ta, như sau: - Chế-tạo bè tre gồm những cây tre có đặc-tính nổi tự nó. Bè tre không giống ghe-thuyền phải tạo ra khoảng không-gian kín nước mới nổi được. Sự kết-hợp các cây tre tạo tác-dụng như những thuyền nhiều thân mang lại sự bền-vững (Moment cân-bằng là bội-số gia-tăng theo số các thân thuyền). - Phát-minh buồm để có thể sử-dụng được cả hai mặt (fore and aft lugsail). Tiến-bộ của kỹ-thuật này giúp thuyền đi chếch ngược hướng gió. - Phát-minh các ô kín nước (áp-dụng từ đặc-tính tự nổi của ‘bè’ tre) để gia-tăng sự an-toàn. Kỹ-thuật kiến-trúc mềm-dẻo, làm thân thuyền thích-nghi với sóng gió. - Phát-minh bánh-lái có trục đặt ở giữa đuôi thuyền giúp thuyền vận-chuyển dễ-dàng và chính-xác hơn. - Phát-minh cây xiếm, phối-hợp xiếm với buồm để thuyền tự-động lái theo một hướng đi cố-định (so với hướng gió).
Khả-năng Đi-Biển của Bè Tre Việt-Nam Theo Malcolm F. Farmer, không những bè-mảng là thứ "phương-tiện nổi" đầu-tiên được trang-bị buồm; bè-mảng c̣n là tiền-thân của các loại ghe-thuyền có nhiều khoang kín nước ngày nay.680 - Bè tre tự nó, theo kiến-trúc là một loại phương-tiện nổi gồm nhiều ngăn kín nước là những lóng (khúc) tre. Người Việt là giống dân độc-nhất sử-dụng đủ các loại tre, bương, luồng… trong mọi kiến-trúc ghe-thuyền. Stephen C. Jett, một học-giả uy-tín chuyên khảo-cứu về khả-năng vượt-biển của nhân-loại trong cổ-thời, đă phát-biểu trong bài "Diffusion versus Independent Development" như sau:"...sức tác-dụng của sóng-gió tăng theo với quán-tính của những con thuyền nặng-nề và do đó cũng làm cho nó dễ bị bể-vỡ hơn. Một con thuyền hay một chiếc bè nhỏ-bé nhưng kiến-trúc tốt, dễ-dàng hoàn-tất việc vượt đại-dương. Đặc-biệt tốt hơn nữa nếu kiến-trúc lại mềm-dẻo, tỷ như các loại bè ghép bằng cây tre và loại thuyền kết bởi ván-gỗ (flexible construction as lashed-log rafts and sewn-plank boats)681...". Đặc-tính kiến-trúc và cả hai loại bè và thuyền ưu-việt kể trên đồng-thời đều hiện-hữu tại Việt-Nam. Phát-minh Bánh-lái Một mẫu thuyền bằng đồ gốm, có đầy-đủ bánh-lái và trục bánh-lái nằm giữa đuôi thuyền được t́m thấy ở Quảng-Châu, gần kinh-đô Phiên-Ngung của nước Nam-Việt trong thời nhà Triệu (thế-kỷ thứ nhất TTL.) Phát-minh quan-trọng về lái-tàu đă khởi-sự 6 thế-kỷ trước thời-gian này. H́nh-ảnh bánh-lái đă xuất-hiện trên trống đồng Đông-Sơn. V́ vùng Quảng-Châu là đất những người người Việt cổ sinh-sống trước kia, nên người ta t́m ra mẫu thuyền có bánh-lái ở đó. Cùng suy-luận như vậy, Per Sorensen cho rằng quan-sát những h́nh thuyền trên trống đồng, người ta nhận thấy có sự cải-tiến kỹ-thuật bánh-lái theo thời-gian. Trên trống loại OB 89 (Tam Ongbah, Thái-Lan), bánh-lái như được gắn vào một cái trục ở đuôi thuyền. Trên trống Hữu-Chung (Việt-Nam), bánh-lái được thiết-trí tương-tự như một số ghe-thuyền ngày nay. Những thay-đổi này đă mở-đường cho những khả-năng hải-hành ngoài biển rộng.682 Ảnh-hưởng to-lớn đến ngành hàng-hải như vậy mà chỉ được người Âu-Châu biết đến và áp-dụng vào thế-kỷ thứ 12. Một số sử-gia cận-đại phát-biểu rằng chiếc bánh-lái sau khi gắn vào đuôi tàu Tây-phương đă đẩy mạnh thời-đại thám-hiểm cùng khám-phá đất lạ và dĩ-nhiên sau đó, bành-trướng chế-độ thuộc-địa. Văn-minh Tây-phương, thường được gọi là "Rise of the White" bắt-đầu bộc-phát mạnh cũng từ đấy.
Bánh-lái trên thuyền Quảng-Châu với phần ghi-chú “không phải của người Tàu” (China's Civilization, Arthur Cotterell & David Morgan, New York, 1975).
Trang-cụ kiểu bánh-lái được gắn nơi lái các thuyền Đông-Sơn (700 năm trước Tây-Lịch).
Theo những khám-phá kể trên, từ thời văn-minh Đông-Sơn, dân Việt chúng ta đă phát-minh ra cách-thức điều-chỉnh độ sâu của các bánh-lái và cây xiếm. Đến nay, những trang-cụ độc-đáo này c̣n sử-dụng trên các loại bè vùng từ cửa sông Thái-B́nh đến bờ-biển miền Trung, trên các ghe bàu, ghe nang,... chạy khắp nơi trong nước. Chế-tác buồm đi trước thời-đại Một số khoa-học-gia, trong đó có Edwin Doran Jr., Christian J. Buys & Sheli O. Smith đă nghiên-cứu và phát-hiện rằng cánh buồm đầu-tiên xuất-hiện giữa vùng Biển-Đông (Việt-Nam / Đông-Dương) và New Guinea.683 Đồ gốm và đá mài t́m thấy trên các đảo trong vùng này chứng-minh những giao-tiếp bằng đường biển đă xảy ra trước khoảng thời-gian 1500 TTL. (Doran, 1973: trang 49.) Khuynh-hướng chung ngày nay đă xác-nhận rằng đồ gốm, đá mài và các tiến-triển văn-minh đầu-tiên đă khởi đi từ vùng b́a lục-địa tại Việt-Nam. Khảo-cổ-học tuy xác-nhận buồm h́nh chữ-nhật đă có ở Ai-cập 4,000 năm TTL nhưng cũng cho biết dáng-vẻ ấy ít thay-đổi suốt mấy ngàn năm sau đó. Thuyền Ai-cập có thể rất to-lớn nhưng thường-thường di-chuyển được nhờ mái chèo và chỉ hải-hành cận-duyên. Qua đến ngày tàn của đế-quốc này (khoảng 1,200 TTL), loại thuyền buồm thực-sự của người đảo Crete cũng như dân xứ Phoenicia mới xuất-hiện.684 Ở Á-Đông, người ta có thể thừa-nhận trong khoảng thiên-kỷ thứ 4 hay thứ 3 TTL, người Đông-Dương (và những dân-cư Bách-Việt sống trên đất Tàu ngày nay) đă sử-dụng ghe-thuyền đi biển.685 Theo lẽ đương-nhiên, bè-mảng chạy buồm có khả-năng đi biển đă xuất-hiện trước khi ấy một thời-gian (Doran, 1971.)686
Thuyền buồm Ai-cập.
V́ người Tàu thời đó c̣n đang sinh-sống trên thượng-nguồn sông Hoàng-hà, rất xa biển; những thành-tích này hẳn-nhiên phải do người Việt, lúc đó đang cư-ngụ ở vùng duyên-hải, thực-hiện. Các tác-giả trên đồng-ư rằng kỹ-thuật chạy buồm Á-Đông đă ảnh-hưởng sang Tây-phương, ngược lại với chiều-hướng suy-tưởng thông-thường.
Thuyền Việt-Nam trang-bị các loại buồm tứ-giác tiến-bộ nhất.
Nhà khảo-cổ Malcolm F. Farmer, trong khi đi t́m nguồn-gốc thuyền-bè, đă thấy rằng Vịnh Bắc-Việt là nơi có chứng-cớ nhiều truyền-thống liên-hệ nhất giữa những loại bè thời-cổ với thuyền độc-mộc và với các ghe-thuyền kiến-trúc có sườn, có khung sau này. Farmer cho rằng chính trên các loại bè, người ta đă phát-minh cánh buồm đầu-tiên. Chắc-chắn "Bè có trang-bị Buồm" là phương-tiện viễn-duyên đầu-tiên của nhân-loại.687 Theo Robert Temple, tác-giả cuốn sách "The Genius of China, 3,000 years of Science, Discovery and invention"688, sự tiến-triển vĩ-đại nhất về kỹ-thuật chạy buồm là ở chỗ người Á-Đông đă đi từ chiếc buồm đơn-độc, vuông-vức h́nh chữ-nhật chuyển sang loại buồm với những cây nẹp ngang, có thể trở mạn để đón gió ở cả mặt sau (fore and aft rig - lug sails) mà nhờ đó thuyền có thể chạy chếch-ngược về hướng gió (to sail into the wind.) Ông cũng cho rằng :"Không ngoa khi nói rằng thế thượng-phong của Hải-quân Anh phần lớn nhờ ở t́nh-trạng sẵn-sàng áp-dụng những phát-minh (Á-Đông) nhanh hơn các cường-quốc Âu-Châu khác". Sách "Science and Civilization of China" quyển 4, mà tác-giả là 2 người Tàu (Wang Ling & Lu Gwei Djen) và một người Anh (Joseph Needham) đă trích-dẫn cuốn sách Nam-Châu Dị-Vật-Chí của Wang Chen và cho rằng "vào thế-kỷ thứ 3, tàu-thuyền ở Bắc và Bắc Trung-phần Việt-Nam đă rất tiến-bộ, chở được tới 700 người và 260 tấn hàng-hoá, mang bốn buồm không đặt thẳng một hàng dọc nên đón được nhiều gió từ những hướng khác nhau."689
So sánh khả-năng chạy ngược gió của các loại buồm. Lưu-ư các thuyền Tây-phương thường chỉ chạy xuôi gió. Buồm Việt-Nam "fore and aft" giúp thuyền đi sát 45 độ so với hướng gió thổi tới.
Kiến-trúc Mềm Dẻo Phát-minh của người Việt trong công-tác kiến-trúc tàu-bè đáng kể là ở sự mềm dẻo. Bà Françoise Aubaile-Sallenave viết nguyên cả một cuốn sách đề-cập rất kỹ-lưỡng đến cách-thức đóng ghe rất tiến-bộ của Việt-Nam690. Theo tác-giả này, hai đặc-tính tiên-quyết trong việc kiến-trúc là ghe tàu phải nhẹ nhàng và có sức chịu-đựng. Cả hai ưu-điểm này đều t́m thấy ở các loại thuyền Việt-Nam. Trong khi kỹ-thuật Tây-phương cố-gắng cải-tiến làm sao cho sườn và vỏ tàu được cứng-cáp th́ người Việt-Nam từ nhiều ngàn năm qua, vẫn tiếp-tục giữ truyền-thống đóng tàu cho mềm-dẻo. Bà Sallenave cũng như những kỹ-thuật-gia kim-thời mới đây đă khám-phá ra rằng muốn kiến-trúc cứng-cáp th́ vật-liệu đóng thuyền phải nặng, quán-tính do đó cũng tăng theo, dễ bị bể-vỡ v́ sóng gió; thuyền nhẹ và mềm-dẻo th́ lực tác-dụng của sóng-nước được phân-phối đều trên toàn-thể thân thuyền nên sức chịu-đựng gia-tăng và thuyền được bền-bỉ hơn.
So-sánh Kiến-trúc Tàu-thuyền Việt-Nam và Âu-Châu.
- Thuyền gỗ khâu. Cũng trong quan-niệm kiến-trúc cổ-truyền và độc-đáo như trên, người Việt đă phát-triển khả-năng vượt bực trong việc chế-tạo nhiều loại thuyền không có cả khung hay sườn mà chỉ với một cách đơn-giản là kết những mảnh-ván gỗ vào nhau bằng dây.Những mối dây này được kết vào bên trong nên phía ngoài vỏ thuyền vẫn phẳng-phiu. Pierre-Yves Manguin viết trong bài "Sewn-Plank Craft of South-East Asia - A Preliminary Survey" như sau: " Nhiều du-khách người Âu-Châu vào thế-kỷ thứ 17 và 18 đă đề-cập đến các thuyền của Việt-Nam bằng ván khâu lại với nhau. Thuyền này chạy biển hay cận-duyên, được gọi là Sinja (thuyền-gia), thường đi-lại buôn-bán với Thái-Lan và có nhiều tại Trung-phần Việt-Nam. Một vài chiếc chuyên-chở tới 150 tấn hàng-hoá"691. Manguin cho rằng kỹ-thuật đóng ghe loại này đă lan-truyền khắp các đảo Thái-B́nh-Dương qua đường hàng-hải. Nơi trang 338 của cuốn sách trên, tác-giả c̣n ước-đoán rằng vào thời-gian người Ai-cập đóng chiếc tàu cho hoàng-gia Cheops (2,600 TTL), dân Đông-Nam-Á khởi-sự hải-hành ra các đảo ngoài Thái-B́nh-Dương bằng thuyền, có thể phỏng-định là loại ván khâu rất đặc-biệt này. Loại ghe này được sử-dụng vài nơi trên thế-giới kể cả Nam-Mỹ, nhưng không ở đâu ghe đạt kỹ-thuật cao và trọng-tải lớn như tại Việt-Nam.
Kiến-trúc thuyền ván khâu Việt-Nam, có loại chuyên-chở được 150 tấn hàng-hoá.
- Thuyền đáy mê. Theo cuốn sách "Thanh-thư về Tàu-thuyền Cận-duyên Miền-Nam Việt-Nam"692, thuyền có đáy mê (nan tre) là loại thuyền thông-dụng nhất ở Việt-Nam. Hai lối kiến-trúc thường được dùng là đáy mê với mạn thuyền bằng ván be (thành gỗ) và vỏ thuyền hoàn-toàn bằng mê. Loại thuyền có vỏ bằng tre đan này nhẹ hơn loại gỗ, dễ thấm dầu-chai, chịu được sóng-cồn, sức dội khi ủi băi và không bị mọt ăn. Hơn nữa tre rất dễ t́m và rẻ hơn loại gỗ tốt, c̣n đáy tre đan lại dễ thay, vừa nhanh lại vừa rẻ tiền. Đáy nan dùng được chừng 5 năm. Kiến-trúc đan bằng nan-tre phổ-cập rất rộng-răi với các cỡ ghe-thuyền lớn nhỏ, nhiều kiểu như canoes, dinghies, thuyền thúng, thuyền buôn và thuyền đánh-cá các loại."
Thuyền làm bằng nan tre và gỗ. Loại này có lái và cây xiếm mũi (thường gọi là lui-hạ) điều-chỉnh được chiều sâu. Jean Yves Claeys cho biết nhiều ghe-thuyền ở vùng Nha-Trang có toàn-thân làm bằng tre. Chỉ có phần trên làm bằng gỗ. Vỏ thuyền mê có thể bền-bỉ tới 20 năm nếu được sử-dụng và bảo-tŕ đúng cách693. Người Việt-Nam là dân-tộc độc-nhất đă phát-triển và hoàn-thiện đủ mọi loại ghe-thuyền bằng tre này.694 Thuyền nhiều khoang kín nước Theo Malcolm F. Farmer, không những bè-mảng là thứ "phương-tiện nổi" đầu-tiên được trang-bị buồm; bè-mảng c̣n là tiền-thân của các loại ghe-thuyền có nhiều khoang kín nước ngày nay.695 Tất cả tàu-thuyền hiện-đại đều kiến-trúc thành nhiều ngăn. Người Tàu đă cố-ư "nhận vơ" nhưng người Việt chúng ta mới thực-sự đúng là tác-giả của phát-minh quan-trọng này. Lư-lẽ kể ra như sau: - Bè tre tự nó, theo kiến-trúc là một loại phương-tiện nổi gồm nhiều ngăn kín nước là những lóng tre. Người Việt là giống dân độc-nhất sử-dụng đủ các loại tre, bương trong mọi kiến-trúc ghe-thuyền. - Bè là phương-tiện nổi đầu-tiên xuất-hiện ở người Đông-Nam-Á. Người tiền-sử rất có thể đă dùng nó để vượt-biển sang Úc-Châu từ 40,000- 50,000 năm trước. Người Việt phát-triển những kiểu bè mà kỹ-thuật tân-tiến nhất với nhiều buồm, nhiều xiếm và có khả-năng tự-động giữ hướng đi. - Khoa khảo-cổ cho biết những thuyền có khoang kín đầu-tiên t́m thấy tại Hoa-Nam, nơi người Việt cư-ngụ lúc xưa. Người Việt có loại thuyền rất cổ là Thuyền Ô v́ kiến-tạo bằng nhiều ô (khoang) kín nước. - Người Việt-Nam khởi-sự việc đánh cá trước cả thời Băng Đá; trong khi người Trung-Hoa c̣n sinh-sống trong nội-địa. Ngư-phủ Việt-Nam thích bán cá tươi nên từ lâu họ chứa cá sống trong ngăn đựng nước, có lỗ thông ra ngoài. Đó là một loại khoang kín nước vậy. - Thuyền của Việt-Nam không những đă được kiến-trúc nhiều ngăn, người Việt c̣n thấu-triệt nguyên-lư cân-bằng tàu-thuyền. Chúng ta đựng các chất lỏng trong b́nh, chai, lọ tĩnh trước khi xếp vào khoang thuyền; chúng ta đă nắm được một kỹ-thuật c̣n cao hơn cả ngăn kín nước nữa. Cây Xiếm, Phát-minh Đảo lộn Hàng-hải Sau khi người Bắc-Phi và Âu-Châu biết sử-dụng buồm tứ-giác, họ nhờ gió đẩy thuyền đi, nhưng cánh buồm thường-thường trở-thành vô-dụng v́ không mấy khi thuyền hoàn-toàn thuận gió xuôi. Người Địa-trung-hải v́ đó, phát-triển tối-đa năng-lực chèo thuyền của những kẻ nô-lệ, có thuyền trang-bị tới 5, 6 hàng chèo và hàng trăm chiếc dầm. Cuộc đời người chèo thuyền thật nặng-nhọc, quá khốn-khổ và rất ngắn-ngủi. Họ phải làm việc dưới roi vọt, miệng bị nút chặt, chân khoá trong xiềng-xích, thiếu-thốn thực-phẩm; ít người sống quá 3 năm và khi kiệt-lực rồi, chủ quăng xác xuống biển. Cho đến thế-kỷ thứ 15, dù đă có nhiều cải-tiến trong kỹ-thuật kiến-trúc, ngoài khả-năng thông-thường chạy xuôi gió, tàu-thuyền Âu-Châu cũng chỉ có thể lợi-dụng gió ngang và đành bỏ cuộc khi gió mạnh thổi ngược chiều. Cùng trong sưu-tập "Man Across the Ocean" dẫn-chứng ở đoạn trên, Stephen C. Jett cho rằng: "các ghe Á-Đông, nếu nói đến vận-tốc chạy biển, vượt xa chiếc thuyền chạy nhanh nhất trên thế-giới mà c̣n đi ngược lại được gần với hướng gió hơn bất-cứ một chiếc thuyền buồm nào khác". Ngoài hệ-thống buồm hữu-hiệu, cây xiếm đă góp công không nhỏ trong những thành-tích làm tăng-tiến khả-năng hải-hành. Trở lại với các h́nh thuyền trên trống đồng Đông-Sơn, ta thấy tiền-thân của những cây xiếm cũng đă xuất-hiện. V́ trên những thuyền này không có người chèo, nên ta cũng có thể hiểu được là thuyền chạy bằng buồm. Ngoài mái chèo lái ở đuôi và mũi, cả đuôi thuyền lẫn mũi thuyền đều có những bộ-phận đưa ra như mảnh ván nhằm chống với sức giạt. Tổng-hợp-tác-dụng của nước trên các trang cụ này đủ để giúp cho thuyền giữ một hướng cố-định, nhờ đó thuyền có thể chạy thẳng về phía trước. H́nh-ảnh này không khác mấy với h́nh-ảnh những loại trang-cụ trên bè-mảng hay thuyền buồm ngày nay: Bè ở Bắc và Trung Việt-Nam có tới 3 hay 4 cây xiếm, c̣n loại thuyền buồm tiêu-biểu ngày nay ở Trung-phần Việt-Nam có bánh-lái cùng cây xiếm h́nh đoản-đao (dagger-board) đặt trong hai lỗ khoét ra ở cả mũi lẫn lái. Loại xiếm ấy không choán chỗ và tỏ ra rất hữu-hiệu trong việc vận-chuyển. Cũng như bánh-lái, tầm sâu của xiếm có thể điều-chỉnh được dễ-dàng696 nên thuyền có thể đi vào những nơi nông cạn. Giả-thuyết về nguồn-gốc cây xiếm này không trái ngược với giả-thuyết nguồn-gốc bánh-lái được nêu ở một đoạn trên, nó phát-biểu thêm rằng cả bánh-lái và cây xiếm đều có thể đă được dân Việt phát-minh nhiều thế-kỷ trước công-nguyên. Cho đến nay, những nét khắc ch́m trên trống đồng Đông-Sơn vẫn là chứng-tích cổ nhất và hiển-nhiên nhất về sự phát-minh lái và xiếm.
Trên: Thuyền Đông-Sơn, ngoài 2 mái chèo để lái ra (1), c̣n có 2 trang-cụ như cây xiếm dùng chống giạt (2). Cột buồm nằm ở nửa phần thuyền phía trước (3). Dưới: Ghe Nang (nan?) ở Trung-phần Việt-Nam với giả-thuyết về sự tiến-hoá của bánh-lái và cây xiếm, đi từ những trang-cụ đă có từ cổ-thời. Những cây xiếm h́nh-dáng tương-tự, kể cả thứ xiếm như cây đoản-đao (dagger boards), cũng t́m thấy ở Mỹ-Châu. Các nhà khảo-cổ tin rằng đă có thời chúng được coi như vật thiêng-liêng, làm đồ thờ-cúng trong những đền-đài. Cả một hệ-thống xiếm và buồm phức-tạp do thổ-dân Nam-Mỹ sử-dụng trên các bè Balsa trước thời Columbus làm nhiều khoa-học-gia kinh-ngạc và đồng-ư là đă có sự liên-hệ Á-Mỹ trong cổ-thời.697 Phát-triển đủ mọi loại Xiếm Người Việt đă phát-triển đủ mọi loại xiếm. Ngoài loại "phù-bản" thời-cổ được tả trong cổ-thư Trung-Hoa698, loại "mũi, lái" nói trong đoạn trên người ta c̣n thấy những loại như sau: Trên thế-giới, thuyền có xiếm thường được trang-bị một cây xiếm, nhưng ở xứ ta thuyền-bè có thể được gắn nhiều cây xiếm: a- Hệ-thống hai xiếm đồng-thời ở mũi và ở lái. Cách này chỉ thấy trên các loại thuyền Việt-Nam.699 b- Hệ-thống “lái” phối-hợp nhiều tới 3, 4 cây xiếm, một chiếc bánh-lái (hay chèo lái). Trên các bè-mảng Trung và Bắc-phần Việt-Nam, cách thiết-trí này là một phát-kiến đặc-thù, giúp cho việc vận-chuyển trên biển thật dễ-dàng. Khi bánh-lái gài thẳng lại, chiếc bè như được trang-bị bởi 4 cây xiếm và nhờ điều-chỉnh tầm sâu của xiếm, người ta có thể giữ cho chiếc bè chạy buồm theo đúng hướng đi so với chiều gió, không cần người bẻ lái.
Bè ở Nam-Mỹ-Châu với hệ-thống 9 cây xiếm và một buồm, có chiếc dùng hai buồm. So sánh với bè tre Việt-Nam.
Nh́n sang Mỹ-Châu, người ta thấy Thor Hayerdahl đă bỏ nhiều công-lao và cũng t́m ra rằng bè Nam-Mỹ vốn có khả-năng không cần dùng mái-chèo hay bánh-lái, mà vẫn giữ hướng đi một cách tự-động so với chiều gió. Kỹ-thuật này có lẽ bị lăng-quên hồi mới gần đây. Phương-thức vận-chuyển bằng cách điều-chỉnh tầm sâu những cây xiếm được Hayerdahl diễn-tả rơ-ràng bằng h́nh vẽ.700 Phát-hiện này rất quan-trọng dùng chứng-minh rằng các bè Á và Mỹ phải cùng một nguồn-gốc, suy-rộng ra người Việt chắc-chắn đă đến Mỹ-Châu trong cổ-thời. Ngoài biển rộng, khi gió-mùa thổi đều-đặn, nhiều thuyền Việt-Nam giữ hướng đi khá tốt. Kỹ-thuật này được tạm gọi là lái tự-động (auto-pilot). Một ngư-phủ trong khi cho thuyền chạy vẫn rảnh chân tay để thả lưới hay bắt cá. Tính-chất Liên-tục của Phát-minh cùng Công-tŕnh Hoàn-bị Kỹ-thuật Căn-cứ vào những phát-minh hàng-hải, các nhà nghiên-cứu thấy rằng không có nơi nào trên thế-giới hội-tụ đầy-đủ mọi loại ghe-thuyền to, nhỏ; thân đơn, kép; mọi loại xiếm mũi, lái, giữa; mọi loại bơi-chèo, mái-chèo, chèo mũi, lái, giữa; mọi loại buồm vuông, tam-gác, đơn hay kép... như tại Việt-Nam. Đủ mọi loại trang-cụ thuyền-bè cùng nhau đă tồn-tại ở Việt-Nam. Người ta thấy trang-cụ thô-sơ nhất là cách ôm một cây tre bơi bằng tay, đạp bằng chân ra khơi đâm cá. Người ta cũng thấy loại thuyền hoàn-bị nhất, phức-tạp nhất như thân gỗ vỏ mê-tre, trang-bị năm buồm, có lái, có xiếm, phao phụ bên hông thuyền và không cần người bẻ lái, thuyền tự-động giữ lấy hướng đi.
Bè Sầm-Sơn Thanh-Hoá với trang-bị tối-đa 3 cánh buồm và 4 cây xiếm. Kỹ-thuật cao Đi trước Tiến-bộ Điện-tử Chúng tôi đă có ư t́m xem có cuốn sách nào bằng Việt-ngữ nói tới cách "lái thuyền-bè tự-động" ở xứ ta nhưng không thấy. Nếu có người Việt-Nam nào viết trước đây th́ tài-liệu đă mất mà nay th́ có thể rằng kỹ-thuật ấy đă bị sao-lăng và cũng không c̣n ai quan-tâm tới chăng! Tuy sách Việt-ngữ không có hay bị mất-mát, nhưng chúng tôi đă nhận ra nhiều tài-liệu rất lạ đến từ Tây-phương. Các tác-giả này là người Âu-Mỹ đă biết và viết ra nhiều điều về hoạt-động hàng-hải người Việt hơn là chính người Việt viết cho chúng ta. Trong nhóm này, hai Ông Pierre Huard và Maurice Durand cho rằng thuỷ-thủ những ghe Mành ở Cửa-Ḷ biết cách-thức điều-chỉnh các cánh-buồm làm sao cho phù-hợp với sự điều-chỉnh cây xiếm để chiếc ghe có thể chạy mà không cần người lái trên những hải-lộ định trước. Thuyền tự nó lái lấy và giữ hướng đi trong nhiều ngày dài, không cần phải sửa-đổi tay lái.701 Hai ông này dẫn-chứng tài-liệu của Laurent: "Voyage de Pierre Poivre" (1749-1750), viết lại theo lời kể khá chi-tiết của nhà ngoại-giao Pierre Poivre về cách điều-khiển "thuyền có lái tự-động". Ông Poivre là người Pháp đến thăm-viếng Việt-Nam với hy-vọng được Vua chúa ta mở cửa giao-thương. Ông đă quan-sát và báo-cáo các sinh-hoạt của dân Việt-Nam trong những năm vào giữa thế-kỷ 18. (1749-1750.) Vào khoảng thập-niên 1930, nhà hàng-hải Pierre Paris cũng nghiên-cứu tới việc sử-dụng những cây xiếm trên thuyền Việt-Nam. Sau khi đă duyệt qua một số tài-liệu bàn về ghe-thuyền quốc-tế, Paris tin-tưởng rằng sự tương-đồng trong cách-thức đi bè "không người lái" của người Việt-Nam và thổ-dân Nam-Mỹ là một trong nhiều cách chứng-minh xác-đáng nhất về sự giao-liên trực-tiếp giữa hai đại-châu Á và Mỹ. Qua cuốn sách "Phác-thảo dân-tộc-học Thuyền bè Việt-Nam", Ông đề-nghị các khoa-học-gia nên nghiên-cứu sâu xa đặc-tính của những cây xiếm và bè Trung-phần Việt-Nam.702 Tính-cách Nhân-bản trong Sinh-hoạt Hàng-hải Việt-Nam Dựa vào những tài-liệu khả-hữu, phương-tiện hạn-hẹp, lại chỉ được nghiên-cứu sơ-sài, người viết xin tóm-lược hai nhận-xét sau đây có tính-cách "triết-lư" đặc-thù về phát-minh hàng-hải Việt trong cổ-thời: - Tính-cách nhân-bản và thiên-nhiên. Trong khi tung-hoành trên biển-cả kiểu "giang-sơn nào anh-hùng ấy" nhưng dân Việt không làm hải-tặc, không chứng-cớ nào buộc-tội tổ-tiên ta về cướp-bóc tài-sản hay bắt-bớ nô-lệ dù chỉ là để chèo thuyền. Tinh-thần sáng tạo của dân ta hướng về nhân-bản và thuận theo thiên-nhiên. Phát-minh như buồm, xiếm... mục-đích là lợi-dụng sức gió thay cho sức người khỏi phải lao-lực trên mái chèo. Kiến-trúc tàu-bè mềm-dẻo để toàn-thể thân thuyền hấp-thụ bạo-lực của sóng-gió, nhờ đó thuyền được bền-bỉ và cũng giúp thuỷ-thủ đỡ mệt-mỏi v́ sức-dội. - Tính-cách thảo-mộc. Người Việt yêu nước và cũng yêu cây-cỏ. Phát-minh liên-hệ đến kiến-trúc tàu-bè dùng toàn nguyên-liệu thảo-mộc tại địa-phương. Dù là giống-dân tiên-phong trong lănh-vực luyện-kim đồng và sắt, nhưng cho đến thời-đại gần đây người Việt-Nam vẫn hoàn-toàn không dùng đến kim-loại hay khoáng-chất, dù chỉ một chiếc đinh hay một lớp sơn-xảm trong khi đóng-ráp ghe-thuyền. Hải-sử phần Cổ-Việt trong vùng Vịnh Bắc-Việt hoàn-toàn c̣n là những vùng đất chưa được khai-thác nhưng đầy các điều hữu-ích và thích-thú. Trên đường đi t́m về nguồn-gốc, thiết-tưởng người dân Việt chúng ta nên dành ra một chút th́-giờ và tiền-bạc nghiên-cứu rộng-răi hơn lănh-vực này. Trường-hợp những đoạn trên chưa đủ thuyết-phục, xin mời quư độc-giả theo-dơi thêm tài-liệu chi-tiết chúng tôi liệt-kê đầy-đủ mấy chục phát-minh hàng-hải của người Việt-Nam trong cuốn sách tới.
Các kiểu ghe-thuyền Việt-Nam đầu thế-kỷ 20 theo Pierre Paris – Ông Pierre Paris và nhiều học-giả Âu-Mỹ như Đô-Đốc Paris, Joseph Needham… biết nhiều về cổ Hàng-hải Việt-Nam hơn chúng ta ngày nay rất nhiều. Sự tiến-bộ của Hải-Quân thời Hùng-Vương Khoa khảo-cổ Trung-Hoa từ đời Tống đă phát-triển, nhưng không có một ai chú-ư tới trống đồng với tư-cách một hiện-vật khảo-cổ. Lư-Đại-Lâm với tác-phẩm "Khảo-Cổ-Đồ" không hề nhắc tới trống đồng v́ cho rằng không có minh-văn, không có giá-trị sử-liệu.703. Sự lầm-lẫn này quá lớn và đáng tiếc.V́ nhiều lầm-lẫn khác cũng tương-tự như vậy, văn-hoá Tàu không coi trọng hàng-hải. Học-giả người Anh, G. R. Worcester, đă từng than rằng: "... Và thế là chúng ta đành bỏ cuộc t́m-kiếm với niềm tiếc rằng những tranh vẽ, văn-chương và sản-phẩm văn-hoá của người Tàu dưới mọi h́nh-thức, mặc-dù có truyền-thống đáng kể liên-tục hơn 2,000 năm mà lại chứa-đựng rất ít về tàu-thuyền và thuỷ-thủ". (The Junks & Sampans of the Yangtze, U.S. Naval Institute Press, 1971: 17.) Ngày nay, ai-ai cũng biết rằng nội-dung h́nh vẽ thường-thường có khả-năng biểu-lộ tư-tưởng tương-đương với cả ngàn lời, ngàn chữ. Trong khoa khảo-cổ, các nét trạm-trổ hay hoạ-h́nh thời xưa có giá-trị vô-cùng to-lớn. Riêng Trống Đồng là những sử-liệu quan-trọng, tự nó nói lên được nhiều chi-tiết xác-thực hơn cả "minh-văn". T́nh-trạng quân thuỷ thời Hùng-Vương đă được người xưa diễn-tả rơ-ràng qua các h́nh khắc trên trống đồng của nền văn-minh Đông-Sơn. Rất nhiều chi-tiết chứng-minh rằng Hải-Quân thời Hùng-Vương cách nay khoảng 3,000 năm đă tiến-bộ đến độ ít người ngờ tới. Các sách nghiên-cứu về Trống Đồng như cuốn "Trống Đông-Sơn", do Viện Khảo-Cổ-Học biên-soạn (Hà-Nội, 1987), tŕnh-bày rất nhiều chi-tiết lư-thú. Chúng tôi chỉ xin kể sơ-lược một số điểm chính-yếu trong đoạn sau đây: - Chiến-thuyền lớn có bánh-lái (Phạm-Cao-Dương, Lịch-sử dân-tộc Việt-Nam, quyển 1, 1987, trang 45-46.) Chiến-thuyền Tây-phương chỉ trang-bị bánh-lái vào thế-kỷ thứ XII (China's Civilization, Arthur Cotterell & David Morgan, New York, 1975.) - Chiến-thuyền đi biển chạy buồm. Loại này không có thuỷ-binh chèo chống, có trụ để dựng cột buồm. - Vũ-khí trang-bị rất hùng-hậu, gồm nhiều loại : * Tầm xa: Nỏ-Thần thiết-trí trên thượng-tầng kiến-trúc. Cánh nỏ và mũi tên lớn quá-khổ (2-3m). Có lẽ dùng tác-xạ liên-hoàn loại tên bằng đồng hay tên lửa. * Tầm trung: giáo dà́ (2-2.5m) * Cận-chiến: ŕu-chiến * Nhiều thuyền có chó săn (quân-khuyển) * Một số thuỷ-binh mang khiên, lá-chắn.
Nỏ-Thần trên chiến-thuyền đời Hùng-Vương. Pháo-tháp có lẽ được trang-bị cơ-quan máy-móc để nạp pháo-tiễn liên-hoàn. Loại Nỏ-Thần này được ghi-nhận trong sử Trung-Hoa. - Kiến-trúc chiến-thuyền có những điểm khác nhau cho những nhiệm-vụ đặc-biệt * có lầu cao704, dùng như pháo-tháp cho vũ-khí tầm xa. * thuyền thân cong dùng cho nhu-cầu vận-tốc cao. * thuyền có phần mũi thấp hơn để đổ-bộ được dễ-dàng.
Chiến-thuyền có lầu (lâu-thuyền). Pháo-tiễn hướng về trước mũi hay sau lái tuỳ theo nhiệm-vụ tác-chiến.
- Tổ-chức Hải-Quân có lẽ đă khá chặt-chẽ. Người ta quan-sát thấy những chi-tiết như: * cách trang-phục của thuỷ-thủ khác nhau tùy theo nhiệm-vụ như thuyền-trưởng, thuỷ-binh cận-chiến, nhân-viên hải-pháo hay lái thuyền. Tuy nét vẽ không đủ chi-tiết nhưng khi phân-tích, người ta thấy dường như Hải-Quân thời Hùng-Vương đă có đồng-phục riêng cho từng chuyên-nghiệp. * cách phân-nhiệm chiến-thuyền trong hạm-đội như: (i) thuyền chuyên dùng tấn-công với tư-thế sẵn-sàng của chiến-binh và pháo-tiễn hướng về phía trước. (ii) thuyền hộ-tống hay giữ an-ninh hậu-tập có pháo-tiễn và chiến-binh quay về phía sau. * phương-tiện truyền-tin và mệnh-lệnh: trồng đồng. - Một điểm đáng kể ra nữa là nhiều chiến-thuyền được trang-bị ở phía mũi một trang cụ giống như cây xiếm. Trang cụ loại này giúp cho thuyền chạy buồm có thể thay-đổi hướng đi hay giữ đúng hướng không cần người lái.705 Kỹ-thuật Việt-Nam kiểu "auto-pilot" này là một bước tiến vượt thời-gian mà phần lớn tàu-thuyền chỉ mới thực-hiện được ngày nay. Thử-nghiệm Thuyết Xuyên-dương Robert Von Heine-Geldern trong suốt một phần tư-thế-kỷ kể từ 1939, đă viết rất nhiều tài-liệu về giao-tiếp Á-Mỹ. Ông liệt-kê thành hệ-thống những điểm tương-đồng, lưu-tâm khá nhiều đến nền văn-minh Đông-Sơn. Ông cho rằng những dân đi biển ở Đông-Á tới Mỹ-Châu trước hết, người Ấn nhờ học-hỏi kinh-nghiệm người đi trước, cũng vượt Thái-B́nh-Dương đến sau. Tàu-thuyền Đông-Nam-Á và Ấn-Độ có thể cũng hải-hành về hướng Tây, vượt cả Đại-Tây-Dương tới Mỹ một cách ngẫu-nhiên. Người nước ngoài không những thích-thú trong việc khảo-cứu thuyền-bè nước ta, c̣n quyết-tâm muốn thử-nghiệm lư-thuyết “người Việt cổ xuyên-dương” nữa. Những người can-đảm, không sợ hiểm-nguy làm bè Đông-Sơn, đóng thuyền Cổ-Việt để vượt đại-dương có lẽ đă xảy ra từ lâu. Chúng tôi được biết có chuyến đi như vậy được báo-cáo chính-thức qua sách vở kèm theo cả bản-đồ hải-hành cùng sơ-đồ kiến-trúc thuyền-bè của họ. - Kuno Knobl, một phóng-viên Đức làm cho Đài truyền-h́nh Úc, sau khi thấy "chùm dây buộc nút" (knotted cords - kết-thằng) trong viện Bảo-tàng ở Huế giống y hệt loại Quipu của Peru, nh́n nhận ra rằng đă có sự giao-tiếp trực-tiếp giữa hai nơi Việt-Mỹ. Để chứng-minh niềm-tin của ḿnh là đúng-đắn, Knobl đứng ra quyên góp tiền-bạc, đóng thuyền buồm theo kiểu cổ-thời Đế-quốc Nam-Việt để xuyên Thái-B́nh-Dương. Knobl muốn khởi-hành chuyến thử-nghiệm từ Việt-Nam nhưng không được v́ lúc đó chiến-tranh đang hồi ác-liệt. Knobt đành thực-hiện chuyến đi từ Hồng-Kông sang Mỹ-châu với thuỷ-thủ-đoàn 8 người từ Hồng-Kông đi Mỹ-Châu trên thuyền Taiki (Thái-Cực). Nếu biết cách trị con hà (teredo, một loại sâu gỗ thân mềm, đục thủng ván-gỗ làm hư-hỏng vỏ thuyền) th́ họ đă tới bờ-biển Mỹ-Châu. Cuối-cùng, Kuno Knobl phải nhờ thương-thuyền cứu-giúp. Sách viết bằng Đức-ngữ, nhan-đề "Thái-Cực", bản dịch Anh-ngữ: Tai-Ki, Journey to the Point of No Return.706
H́nh thuyền Taiki đóng theo kiểu thuyền người Cổ-Việt với 2 cây-xiếm kiểu “phù-bản”.
- Tim Severin, v́ thán-phục học-thuyết "xuyên-dương" của Joseph Needham707 nên đă quyết-tâm chứng-minh rằng người Á-Đông thuộc nền Văn-hoá Đông-Sơn đă tới Mỹ nhiều ngàn năm trước đây. Severin là một nhà văn Ái-nhĩ-Lan rất ưa thích việc khảo-cứu về hàng-hải. Chiếc bè của Ông được đóng tại Sầm-Sơn (Thanh-Hoá, Việt-Nam) gồm có 220 cây luồng buộc lại với nhau bằng những giây leo trong rừng dài tới 46km. Đặc-biệt để giữ nguyên kỹ-thuật xưa, thợ làm bè không dùng đến một chiếc đinh nào bằng kim-loại. Thuỷ-thủ-đoàn gồm có 5 người, trong đó có một người Việt-Nam. Họ lái chiếc bè này bằng cách điều-chỉnh độ nông-sâu của 10 chiếc xiếm, vào ra những nơi chật-hẹp có nhiều tàu-thuyền qua lại như hải-cảng Hồng-Kông và quần-đảo Ryukyu. Đoàn “thám-hiểm” đă hải-hành phần lớn một cách tự-động, không người lái, vượt qua 5,500 hải-lư, tức là gần hết hải-tŕnh xuyên Thái-B́nh-Dương708 (chừng 6,500 hải-lư). Nếu Severin nắm vững được cách sơn kín-nước th́ những cây luồng đă không bị ngập nước và họ có thể đă thành-công.
B́a sách in h́nh-ảnh chiếc bè Sầm-Sơn. Kuno Knobl muốn chứng-minh rằng người Việt đă vượt Thái-B́nh-Dương mấy ngàn năm trước đây.
Tài-liệu Tham-khảo
- A. and W. Churchill (ed.). Bài "A Description of the Kingdom of Tonqeen", trong cuốn sách "A Collection of Voyages and Travels". London, 1703-32, IV. 3. Abbe Richard, "Histoire naturelle, civile et politique du Tonquin". Paris. 1778, 1. 28. - Advanced Research Projects Agency, DOD. Junk Blue Book: A Handbook of Junks of South Vietnam (Washington D.C.). 1962. - Advanced Research Projects Agency, DOD. Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam. Columbus, Ohio. 1967. - Bernard Philippe Groslier. The Art of Indochina. Translated by George Lawrence. New York. 1962. - Bùi-Tiến-Hoàn. Bài "Từ 1955 đến 1975, Hải-Quân Việt-Nam có được đặt đúng chỗ của nó không?". Nhận qua điện-thư, được đăng lại trong Đặc-San Lướt-Sóng. - Bùi-Văn-Bảo. Bộ sách Việt-Sử Bằng Tranh (VSBT) gồm 30 quyển về lịch-sử Việt-Nam. Nhà xuất-bản Quê Hương phát-hành. Cuối 1980’s Đầu 1990’s. - C. E Bouillevaux. L’Annam et le Cambodge, Voyages et Notices Historiques. Paris. 1874. - Cao-Thế-Dung. Việt-Nam Binh-Sử Vơ-Đạo. Arizona. 1993. - Carl Sauer. Agricultural Origins and Dispersals. Series Two. New York. 1952: 24-25. - Carl Sauer. Bài “Environment and Culture During the Last Deglaciation”, trong Proceedings of the American Philosophical Society Vol. 92. 1948, pp. 65-77. - Charles F. Keyes. The Golden Peninsula. New York. 1977. - Chester Norman. Bài “The Hoabinhian and After: Subsistence Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods”, Tạp-chí World Archaeology 2, No. 3. 1971: 300-320. - Claude Madroll. Bài “Le Tonkin ancient”. BEFEO, XXXVII, 1937, 262-332. - Clinton Edwards. Bài “New World perpectives on pre-European voyaging in the Pacific”, sưu-tập Early Chinese Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol. 3, edited by Noel Bernard. New York. 1969. - Cửu-Long-Giang và Toan-Ánh. Miền-Bắc Khai-Nguyên. Sài-G̣n. 1969. - D. G. E. Hall. A History of South East Asia, Fourth Edition. London. 1981. - D. R. SarDesai. The Struggle for National Identity. Westview Press, Colorado. 1992. - David E.Sopher. The Sea Nomads: A Study Based on the Literature of the Maritime Boat People of Southeast Asia. Singapore. 1965. - David G. Marr and A. C. Milner. Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries. Institute of Southeast Asian Studies. Singapore. 1986. - Dick de Lonlay. Au Tonkin, 1883-1885, récits anecdotiques. Garnier frères, Paris. 1886. - Donald G. McCloud. Southeast Asia, Tradition and Modernity in the Contemporary World. Westview Press, Boulder. 1995. - Donald Worster. Rivers of Empire: Water, Aridity, and the Growth of the American West. New York. 1985. - Đỗ-Trọng-Huề. Bài "Đi t́m Dấu Vết Hùng-Vương", sách "Hương-Trà". Sài-G̣n. 1968. - Edwin Doran Jr. Bài “The Sailing Raft as a Great Tradition”, sưu-tập Man Across the Sea: Problems of Pre-Columbian Contacts, edited by Carol L. Riley. Austin. 1971: 135-138. - Edwin Doran Jr. Christian J. Buys & Sheli O. Smith. “Chinese Batten Lug Sails”. Nguyệt-san Mariner's Mirror. August 1980: 244-245. - Eldon Best. Polynesian voyagers: the Maori as a deep-sea navigator, explorer, and colonizer. N. Z. Dom. Mus. Monogr., no. 5. 1923. - Encyclopaedia of Asian Civilizations, Vol. 9, Louis Frederic, 1984. Paris. Từ-mục: Trần-Ứng-Long - Fairbridge, R. Bài “The Changing Level of the Sea”, Tạp-chí Scientific American. 1960, No. 202, 6:70-79. - Françoise Aubaile- Sallenave. Bois et Bateaux du Vietnam. Paris. 1987. - Funk & Wagnalls New Encyclopedia, Vol.23. New York. 1992. Từ-mục: Transportation. - G. E. Gerini (Colonel). Recherches on Ptolemy's Geography of Eastern Asia. M.R.A.S., London. 1909. - G. R. G. Worcester. The Junks & Sampans of the Yangtze. Naval Institute Press, Annapolis. 1971. - Grousset René. The Rise and Splendour of the Chinese Empire. Barnes & Noble, Inc. 1992. - Harold J. Wiens. China's March Towards the Tropics. Hamden, Connecticut. 1954. - Hồ-Văn-Châm. Bài “Chuyện Một Người Việt Làm Vua Chiêm-Thành” - Tập-San Y-Sĩ, số 150, Năm thứ 26, Tháng 7, 2001. Victoria, Montréal, Québec, Canada. - Jean-Yves Claeys. Bài “L’Annamite et la mer”, Bưu-báo Bulletins et Travaux, Institut Indochinois pour l’Étude de l’Homme. 1942: 17-28. - Joseph Needham, Wang Ling and Lu Gwei-Djen. Science and Civilisation in China, vol. 4: Physics and Physical Technology, part III: Civil Engineering and Nautics. Cambridge University Press: Cambridge. 1971. - Keith Buchanan. The Southeast Asian World. New York. 1967. - Keith Weller Taylor. The Birth of Vietnam. University of California Press. 1983. - Khương-Vũ-Hạc. Hoàng-thúc Lư-Long-Tường. Dịch-giả Trần-Văn-Thêm. Hà-Nội. 1996. - Kuno Knobl, with Arno Dennig. Tai Ki: To The Point of No Return. (trans. by Rita & Robert Kimber). Boston, Little, Brown & Co. 1975. - Lăng Hồ. Bài “Hoàng-Sa Trường-Sa, Lănh-thổ Việt-Nam”. Tập-san Sử-Địa “Đặc-khảo về Hoàng-Sa và Trường-Sa”- Số 29 - Tháng 1, 2, 3 – 1975. NXB Khai-Trí, Sài-G̣n. Trang 66. Lăng-Hồ là bút-hiệu của Giáo-sư Nguyễn-Khắc-Kham. - Lê-Đ́nh-Thông. Các bài "La Marine vietnamienne avant l'Arrivée des Français", (trong sách "Marin et Océan III", Paris 1992; các trang 53-71.) và bài "Stratégie et Science du Combat sur l'Eau au Vietnam avant l'Arrivée des Français", (trong sách "L'évolution de la Pensée Navale II", Paris, 1992; các trang 2111-229). - Lê-Nhâm-Tuyết. Một số phong-tục thời Hùng-Vương qua những h́nh-ảnh trên trống đồng, Tạp-chí Khảo-Cổ-Học số 14, 1974. - Lê-Quư-Đôn. Kiến-Văn Tiểu-Lục. Có một bản dịch của Phạm-Trọng-Điềm. Nxb. Sử-học, Hà-Nội 1962. - Lê-Văn-Hưu, Phan-Phu-Tiên, Ngô-Sĩ-Liên... soạn-thảo (1272 - 1697). Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư. Viện Khoa-Học Xă-Hội Việt-Nam dịch (1985 - 1992). - Li Tana “Southern Vietnam under the Nguyễn: Documents on the economic history of Cochinchina (Đàng-Trong). Singapore : Institute of Southeast Asian Studies, 1993. Bản dịch của Nguyễn-Nghị. Xứ Đàng-Trong, Lịch-sử kinh-tế - xă-hội Việt-Nam thế-kỷ 17 và 18: Luận-án Tiến-sĩ/ Li Tana. Sài-G̣n. 1999. - Ling Shun-Sheng. Formosan Seagoing Raft And Its Origin In Ancient China (Translation). Bulletin of the Institute of Ethnology, Academia Sinica 1. 1956. - Lư-Tế-Xuyên, Việt Điện U Linh (1029). - MacCrindle's Ancient India as described by Ptolemy (first printed 1884), revised by Ramchandra Jain. New Delhi. 1984. - Malcolm F. Farmer. Bài “Origin and Development of Water Craft”, trong báo Anthropological Journal of Canada 7(2). 1969: 22-26. - Mặt Trận Quốc-gia Thống Nhất Giải-phóng Việt-Nam. Anh-hùng Nước Tôi. California. 1986. - Một nhóm Học-giả. Nguyễn-Huệ, Một Thiên-tài Quân-sự. Một Vài Sử-liệu về Bắc-B́nh-Vương Nguyễn-Huệ. Đại-Nam (Hoa-Kỳ) xuất-bản. 1992. - Một nhóm thức giả. Việt-Nam Đệ-Ngũ Thiên-kỷ. Trung-Tâm VHVN-USA. 1994. - Nguyễn-Duy-Hinh. Trống Đồng trong Sử-sách. Khảo-Cổ-Học số 13. 1974. - Nguyễn-Huyền-Anh. Việt-Nam Danh-Nhân Từ-Điển. Zieleks Co. Texas. 1981. - Nguyễn-khắc-Ngữ. Bồ-đào-Nha, Tây-ban-Nha và Hoà-Lan giao-tiếp với Đại-Việt. Montréal. 1988. - Nguyễn-Văn-Tuấn. Bài “Nhân đọc “Eden In The East: Đặt Lại Vấn-đề Nguồn-gốc Dân-tộc và Văn-Minh Việt-Nam”. http://www.anviettoancau.net/html/capnhat_6/nvtuan_nggocvn.htm. - Nguyễn-Việt, Vũ-Minh-Giang Nguyễn-Mạnh-Hùng. Quân Thuỷ trong Lịch-Sử Chống Ngoại-xâm. Hà-Nội. 1983. - Nicolas Tarling. The Cambridge History of Southeast Asia", Vol. 1- From Early times to C 1800. Cambridge University Press. 1992. - Paul Rivet. Bài “Sumerien et Océanien”. Collection Linguistique. Paris. 1929. - Paul Shao. Bài “Chinese Influences in Pre-Classic Mesoamerica Art”, sưu-tập Diffusion and Migration: Their Roles in Cultural Development, edited by P. G. Duke, trang 202-205. University of Calgary, Canada. 1983. - Peter Bellwood. Man's Conquest of the Pacific, The Prehistoric of Southeast Asia and Oceania. Oxford University Press. 1979. - Phạm-Minh-Huyền, Nguyễn-Văn-Huyên, Trịnh-Sinh. Trống Đông-Sơn. Viện Khảo-Cổ-Học Hà-Nội. 1987. - Phạm-Văn-Sơn. Quân-lực Việt-Nam dưới các triều-đại phong-kiến. Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH. 1968. - Phạm-Văn-Sơn. Quân-lực Việt-Nam chống Bắc-Xâm và Nam-Tiến. Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH. 1970. - Phạm-Văn-Sơn. Việt-sử Toàn-thư. Sài-g̣n. 1960. - Phan-Khoang. Việt-Sử Xứ Đàng-Trong 1558-1777. Sài-G̣n. 1967. - Pierre Gourou. Les Paysans du delta Tonkinois. Paris, first ed. (Paris, 1936), second ed. (Paris, 1965). - Pierre Huard và Maurice Durand. Connaissance du Viet-Nam. École Française d' Extrême-Orient, Hanoi, 1954. - Pierre-Yves Manguin. Bài "Sewn-Plank Craft of South-East Asia - A Preliminary Survey" đăng trong Sưu-tập "Sewn Plank Boats- Archaeological and Ethnographic papers based on those presented to a conference at Greenwich in November, 1984", edited by Sean McGrail and Eric Kentley. Greenwich. 1985. - Pierre Paris. Esquisse d'une Ethnographie Navale des Peuples Annamites. Deuxième Edition. Rotterdam, Holland. 1955. - Quốc-Sử-Quán triều Nguyễn. Khâm-Định Việt-Sử Thông-Giám Cương-Mục. Soạn-thảo vào khoảng năm 1856-1881. Viện Sử-học Việt-Nam dịch sang chữ quốc-ngữ vào năm 1960. Nhà xuất-bản Giáo-dục Hà-Nội ấn hành năm 1998. - Quốc-Sử-Quán triều Nguyễn. Đại-Nam Nhất-Thống-Chí (1882, 1909). Quyển Biểu Kinh-Sư (Bản dịch: Nguyễn-Tạo). Sài-G̣n. 1960. - Robert Temple. The Genius of China, 3,000 years of Science, Discovery and Invention. New York, 1986. - Robert von Heine-Geldern. Bài “American Metallurgy and the Old World”. Sưu-tập Early Chinese Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol. 3, ed. Noel Barnard. Taipei, Taiwan. 1972. - Romola & R. C. Anderson. The Sailing Ship, Six Thousand Years of History. New York, 1963. - Solange Hertz (translated from French). Rhodes Of Vietnam - The Travels and Missions of Father Alexandre de Rhodes in China and Other Kingdoms of the Orient. The Newman Press, Westminster, Maryland. 1966. - Stephen C. Jett. "Diffusion versus Independent Development" sưu-tập Man Across the Ocean, edited by Carroll L. Riley. Austin. 1971. - Sterling Seagrave. Lords of the Rim: The Invisible Empire of the Overseas Chinese. New York. 1995. - Sumet Jumsai. Naga: Cultural Origins in Siam and the West Pacific. Singapore, Oxford University Press. 1988. - Tạ Chi Đại Trường. Những Bài Dă-sử Việt. California. 1996. - Tạ Chí Đại Trường. Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam. NXB Am-Tiêm tái-bản. California, USA. 1991. - Thái-Văn-Kiểm. Đất Việt Trời Nam. Nguồn Sống Sài-G̣n. 1960. - Thor Heyerdahl. Early Man and the Ocean, A Search for the Beginnings of Navigation and Seaborne Civilizations. New York. 1979. - Tim Severin. The China Voyage Across the Pacific by Bamboo Raft. Addison- Wesley Publishing Company. July 1995. - Tôn-Nữ Quỳnh-Trân. Lịch-sử Việt-Nam. Nhà xuất-bản Trẻ. Sài-G̣n. 1997. - Trần-Hưng-Đạo. Binh-Thư Yếu-Lược. Nguyễn-Ngọc-Tỉnh phiên-dịch. NXB Quê Mẹ, Paris. 1988. - Trần-Quốc-Vượng. Trong Cơi - Những ư-kiến về lịch-sử, truyền-thống và hiện-trạng dân-tộc của một sử-gia trong nước. Garden Grove, California. 1993. - Trần-Trọng-Kim.Việt-Nam Sử-Lược, Quyển 1, Bộ Giáo-Dục, Trung-tâm Học-liệu. Sài-G̣n. 1971. - Trần-Trọng-Kim, Nguyễn-Văn-Ngọc, Đặng-Đ́nh-Phúc và Đỗ-Thận. Bộ sách Quốc-Văn Giáo-Khoa Thư (QVGK) gồm các quyển: Quốc-Văn Giáo-Khoa thư (Lớp Đồng-Ấu, 1935), Quốc-Văn Giáo-Khoa thư (Lớp Dự-bị, 1935), Luân-Lư Quốc-Văn Giáo-Khoa thư (Lớp Sơ-Đẳng, 1941), Quốc-Văn Giáo-Khoa thư (Lớp Sơ-Đẳng, 1948). - Văn-Tân. Bài “Vai-tṛ của Thuỷ-quân Việt-Nam trong lịch-sử dân-tộc (Từ Thời-đại Hùng-Vương đến Thế-kỷ XIX), trong "Nghiên-cứu Sử-học số 5". Hà-Nội. Tháng 9, 1977. - Victor Croizat. The Brown Water Navy - The River and Coastal War in Indo-China and Vietnam, 1948-1972. Blanford Press, New York. 1984. - Victor Golubew. Bài "L'age de Bronze au Tonkin et dans le Nord-Annam". Hanoi: BEFEO. 1929. - Vũ-Minh-Giang. Nguyễn-Việt. Bài “Đất-nước, con người Việt-Nam và Truyền-thống giỏi Thuỷ-chiến”, Sử-Học số 2 -Những vấn-đề khoa-học lịch-sử ngày nay. Hà-Nội. 1979. - Vũ-Quỳnh. Lĩnh-Nam Chích-Quái (1492-1493). - William Meacham. Bài "Origins and Development of the Yüeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia", sưu-tập The Origins of Chinese Civilization, edited by David N. Keightley. London. 1983: 147-175. - William Meacham. Bài “On the improbability of Austronesian origins in South China”, đăng trong báo Asian Perspectives, quyển 25. Các năm 1984-85 - Wilhelm G. Solheim II. Bài "New Light on a Forgotten Past", National Geographic, Vol.139, No.3. March 1971. - Wilhelm G. Solheim II. Bài "World Ethnographic Sample... A Possible Historical Explanation", American Anthropologist 70. 1968. - William J. Duiker. Historical Dictionary of Vietnam. Sưu-tập Asian Historical Dictionaries. No. 1". The Scarecrow Press, Inc. Metuchen, N.J. & London. 1989.
Bảng Tra Cứu Quốc-Kỳ Việt-Nam Quốc-Ca Việt-Nam
Danh-sách Quư-vị duyệt-lăm và giúp-đỡ ư-kiến tu-chỉnh
Quư Ông Đặng-Cao-Thăng Nguyễn-Ngọc-Quỳnh Phạm-Mạnh-Khuê Nguyễn-Tiến- Ích Bùi-Tiến-Hoàn
Lời Cảm-Tạ Tác-giả chân-thành cảm-tạ - Quư Vị trong Ủy-Ban Hải-Sử đă tận-tâm tận-lực trong dự-án Hải-Sử VNCH, trợ-giúp Tác-giả hoàn-thành tác-phẩm này: - Quư Vị Thân-Hữu đă tiếp tay: 1. Nguyễn-Văn-Hoa 2. Đặng Thành Long 3. Nguyễn-Văn-Hiền 4. Trần-Chấn-Hải 5. Lư-Thành-Quy 6. Lương-Thanh-Sắt - Tứ thân phụ-mẫu: Ô.B. Vũ-Hữu-Soạn, Ô.B. Đặng-Cao-Ruyên & Hiền-thê, các Em, các Con và các Cháu trong gia-đ́nh đă yểm-trợ tinh-thần và tiền-bạc để cuốn sách này đến tay bạn đọc.
(Bao Ngoài)
Nếu cuốn Tuyển-Tập Hải-Sử nặng tính-cách bút-kư, tài-liệu... th́ cuốn Lược-Sử Hải-Quân có tính-cách “chính sử” hơn. Cuốn Tuyển-Tập Hải-Sử do nhiều tác-giả đóng-góp th́ trái lại cuốn Lược-Sử Hải-Quân do một tác-giả, ông Vũ-Hữu-San soạn-thảo… Cuốn sách không đặt nặng vào những sự-kiện chi-tiết như cuốn Tuyển-Tập Hải-Sử, nhưng trái lại cho chúng ta những hiểu-biết chính-xác về sự h́nh-thành và phát-triển của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà, từ ngày thành-lập, năm 1951, cho đến tháng 5 năm 1975. Tác-giả có sáng-kiến bổ-túc Lược-Sử Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà bằng Phần II, gồm Sơ-Lược Hải-Sử Nước Ta kể từ thời lập-quốc. Đây là bước đầu để chúng ta có toàn-bộ Hải-Sử Việt-Nam đầy-đủ cho suốt chiều dài của lịch-sử quốc-gia, chứ không phải chỉ là “Lược-Sử”. Mong rằng “Mộng” này sớm thành trong tương-lai gần đây Lời Giới-thiệu của Hội-Đồng Hải-Sử Cựu HQHH/VNCH “Hải-Sử trước hết sẽ giúp chúng ta biết thêm những điều về Hải-Quân mà (chính Cựu Hải-Quân) chúng ta chưa biết. Hải-Quân của chúng ta trong giai-đoạn chót có một quân-số trên 40,000. Một quân-số rất đáng kể trong tất cả các Hải-Quân lớn trên thế-giới. Chúng ta có những hoạt-động ngoài biển như tuần-dương, tuần-duyên, hải-tuần và đặc-biệt các hoạt-động trong sông mà không một Hải-Quân nào có. Cuốn Hải-Sử trước hết sẽ giúp chúng ta biết thêm những điều về Hải-Quân mà chúng ta chưa biết. Con cháu chúng ta cũng sẽ có tài-liệu để t́m-hiểu cha ông chúng làm ǵ trong một chiều dài cuộc chiến hơn 20 năm, những thử-thách, cố-gắng, mệt-nhọc, hy-sinh của chúng ta; các gương anh-dũng tuyệt-vời của một số chiến-hữu chúng ta. Tài-liệu cũng phản lại các luận-điệu xuyên-tạc đầy-dẫy trong các thư-viện đại-học-đường về cuộc chiến của chúng ta. Những người ngoại-quốc khi đọc và suy-nghĩ sẽ có cái nh́n công-bằng về cuộc chiến hơn.” Lời Cố Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng
1 Năm 1847, chủ-lực của Hải-Quân nhà Nguyễn gồm 5 chiến-hạm kiến-trúc theo kiểu Tây-phương bị tiêu-diệt bởi Phân-Đoàn gồm 2 chiến-hạm Pháp do Đại-Tá Lapierre và Trung-Tá Rigault de Genouilly chỉ-huy. Trong một giờ, cả chu-sư của ta bị phá tan (Việt-Sử Toàn-Thư, Phạm-Văn-Sơn, Sài-G̣n. 1960, trang 613). Hải-Quân Việt-Nam suy-yếu hẳn và coi như không c̣n hoạt-động nữa sau khi Pháp chiếm được thành-phố Hà-Nội lần thứ hai vào năm 1882. (Việt-Sử Toàn-Thư, Phạm-Văn-Sơn, Sài-G̣n 1960, trang 657). 2 Có thể nói sự h́nh-thành Hải-Quân Quốc-gia Việt-Nam nhen-nhúm rất sớm, Dụ số 1 có ghi sự thành-lập HQVN kư từ năm 1949. C̣n Hải-Quân của Cộng-Sản Việt-Nam ra đời trễ hơn, vào năm 1955. ("Lịch-sử Hải-Quân Nhân-Dân Việt-Nam", Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân, Hà-Nội, 1980). Tuy danh-xưng là Hải-Quân Nhân-Dân, lực-lượng này cũng như toàn-thể Quân-đội Nhân-Dân chỉ là công-cụ sai-phái trực-tiếp của đảng Cộng-Sản, theo như hiến-pháp của họ quy-định. 3 Civilization, Past and Present, Third Edition, T. Walter Wallbank, Alastair M. Taylor, Nels M. Bailkey; Illinois, 1967. Trang 762. 4 Civilization, Past and Present, Third Edition, T. Walter Wallbank, Alastair M. Taylor, Nels M. Bailkey; Illinois, 1967. Trang 766-775. 5 Lời Tiến-Sĩ Trần V. Hải đọc trong buổi giới-thiệu sách "Gọng-Ḱm Lịch-sử" của Bùi-Diễm tại Washington DC, ngày 17 tháng 12 năm 2000: “Điều này (không phải theo đường lối CS quốc-tế) hoàn-toàn đúng: Nếu lấy năm 1945 là năm kết-thúc Thế-chiến II làm mốc thời-gian th́ các cuộc đấu-tranh giải-phóng dân-tộc của 15 nước Á Phi có thể được đúc-kết như sau: - Loại 1: 10 nước với dân-số trên 1 tỷ người lúc đó theo sách-lược ôn-hoà, không bạo-động và không liên-kết với Quốc-tế Cộng-Sản. Các nước này được độc-lập như sau: - 1 năm: Phi-Luật-Tân - 2 năm: Ấn-Độ và Pakistan - 3 năm: Tích-Lan (Sri Lanka) và Miến-Điện - 4 năm: Indonesia - 11 năm: Morocco và Tunisia - 12 năm: Mă-Lai - 14 năm: Singapore. - Loại 2: Algeria với 17 triệu người theo sách-lược đấu-tranh vơ-trang bạo-động nhưng không liên-kết với Cộng-Sản quốc-tế, được độc-lập sau 17 năm. - Loại 3: 3 nước Đông-Dương (Việt, Miên, Lào) với khoảng 60 triệu dân theo sách-lược đấu-tranh vơ-trang, bạo-động và liên-kết với CS quốc-tế: độc-lập sau 30 năm, rồi c̣n xung-đột lẫn nhau thêm 10 năm giữa Cam Bốt và Việt-Nam. Trong thời-gian đó, hơn 3 triệu người VN đă hy-sinh, hàng trăm ngh́n người bỏ thây trong rừng-hoang và biển-cả, đó là chưa kể những tổn-hại tinh-thần về văn-hoá, đạo-đức, luân-lư do chính-sách đấu-tranh giai-cấp của chủ-thuyết CS! Tôi (lời Tiến-Sĩ Hải) đề-cập đến vấn-đề này để cho thấy lập-luận rằng sau 1945 không c̣n có con đường nào khác chiến-tranh để tiến đến độc-lập dân-tộc là không đúng! Sự cuồng-tín trong việc t́m cách áp-đặt chủ-nghĩa CS lên Miền Nam VN là căn-nguyên cội-rễ của cuộc chiến và là mọi bất-hạnh của VN hậu-bán thế-kỷ 20!” 6 Ngay từ năm 1950, khi thấy phong-trào dân-chủ tự-quyết dâng-cao khắp thế-giới; Thống-chế Juin, người có uy-tín nhất trong quân-đội Pháp, đă nói: "... sớm muộn ǵ Pháp cũng phải buông Đông-Dương v́ xứ này quá xa và chiến-tranh quá tốn-kém." (Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 44). 7 Tới khi sắp chết, Hồ-Chí-Minh c̣n trăn trối lại như sau: "Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt-động, góp-phần đắc-lực vào việc khôi-phục lại khối đoàn-kết giữa các đảng anh em trên nền-tảng chủ-nghĩa Mác - Lênin và chủ-nghĩa quốc-tế vô-sản, có lư, có t́nh...và góp phần xứng-đáng vào sự-nghiệp cách-mạng thế-giới". (Di-chúc Hồ-Chí-Minh, Hà-Nội, ngày 10 tháng 5 năm 1969.) 8 Học-giả Trần-Trọng-Kim đưa dẫn-chứng: Quân Việt-Minh và quân Quốc-Dân-Đảng tuy nói là đoàn-kết, nhưng không có ḷng thành-thật. Quân Việt-Minh chỉ có ŕnh cơ-hội là đánh quân Quốc-Dân-Đảng, hay bao-vây để tiêu-diệt lực-lượng của đối-phương, thành ra hai bên cứ ḱnh-địch nhau măi. Người không biết phương-sách của đảng Cộng-Sản th́ thấy thế làm lạ... (Một Cơn Gió-bụi, 1949). 9 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972. 10 Beckett, Brian. Illustrated History of Vietnam War. Blandford Press. 1985. Trang 28. 11 Điều này khác-biệt hẳn với truyền-thống HQVNCH. Hạm-Phó (hay Chỉ-Huy-Phó) là cánh tay phải của Hạm-Trưởng (hay Chỉ-Huy-Trưởng). Cố-vấn HQHK là “khách”, ngồi ghế bên trái trong giờ hội-họp hay giờ ăn. 12 Tướng CS Trần-Hạnh xác-nhận tại Hà-Nội năm 1998: Đảng CS chỉ-huy quân-đội, September 24 (Reuters). Nguyên-văn bản-tin như sau: “Vietnam Deputy Defence Minister Lieutenant-General Tran Hanh said on Thursday that the ruling communist party would always maintain absolute leadership over the country's armed forces. "The Constitution clearly prescribes the leadership role of the Communist Party of Vietnam, " he said”. 13 Nghị-quyết ghi trong Đại-hội đại-biểu toàn-quốc CSVN lần thứ II họp từ ngày 11 đến 19-2-1951: ba nước Việt-Nam, Lào, Cam-Pu-Chia cần thành-lập chính-đảng cách-mạng theo chủ-nghĩa Mác-Lênin. Đại-hội quyết-định tổ-chức Đảng Lao-Động Việt-Nam và đưa Đảng ra hoạt-động công-khai… quá-tŕnh cải-cách vừa ôn-hoà, vừa bạo-lực dưới chính-quyền dân-chủ nhân-dân... Sau khi đánh bại bọn đế-quốc xâm-lược, chính-quyền nhân-dân sẽ có thể và phải thi-hành một loạt cải-cách mạnh-bạo. 14 Man's Story, World History in Its Geographic Setting, T. Walter Wallbank; Scott, Foresman & Co, USA, 1961. Trang 717. 15 Nhận-xét khách-quan này t́m thấy trong hầu-hết các cuốn hải-sử ngoại-quốc hay các tiểu-thuyết phiêu-lưu, xuất-dương mạo-hiểm. Chân-lư tương-tự như:"đi một ngày đàng, học một sàng khôn" hay "đi cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn." 16 Quân-số HQVNCH 42,000 người đứng vào hàng thứ 9, số-lượng chiến-thuyền 1,500 chiếc đứng vào hàng thứ 5 trong các Hải-Quân thế-giới. Về tổng-số bài-thuỷ-lượng, v́ các chiến-hạm chiến-đĩnh trang-bị đều nhỏ nên thứ-hạng của HQVNCH chắc-chắn không đáng kể lắm. 17 Hải-Quân Trung-Cộng có trên 300,000 quân là một trong ba lực-lượng Hải-Quân hùng-mạnh nhất trên thế-giới. 18 Nguyễn-Trung, nguyên Đại-sứ Việt Nam DCCH tại Thái-Lan viết lại trong một tập hồi-kư: Có một nhà lănh-đạo ta khi tiếp-kiến Quốc-Vương Thái nói rằng: “Chúng tôi tự hào v́ đă đánh thắng 3 đế quốc to”. Đức Vua điềm-đạm nói: “Chúng tôi th́ lại tự hào v́ không phải đánh nhau với đế quốc to nào cả”. 19 Báo Quê Mẹ, Paris, 1995, tr. 31. 20 Dụ số 2 này do Quốc-Trưởng Bảo-Đại kư, phần "Thành-lập Hải-Quân Việt-Nam đă được thực-sự thi-hành. Dụ số 1 do Quốc-Trưởng Bảo-Đại kư ngày 1 tháng 7 năm 1949 cũng đă đề-cập đến việc thành-lập Hải-Quân. Phụ-chú trong sách "United States Navy and Vietnam Conflict", Vol. 1, Naval History Division, (Washington DC., 1976, trang 198): Dụ số 1 tiếp-tục có hiệu-lực cho tới khi Hiến-pháp của Việt-Nam Cộng-Hoà ra đời vào năm 1956 (dẫn-chứng từ Bernard Fall, Two Vietnams. 1963. Trang 215). 21 Nguyên-uỷ danh-từ này có trước đó, như sau: Từ tháng 11 năm 1945, Việt-Nam Giải-Phóng-Quân (lực-lượng ṇng-cốt của chính-phủ Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hoà) đổi tên thành Vệ-Quốc-Đoàn. Ngày 22 tháng 5 năm 1946, theo Sắc-lệnh 7/SL của Chủ-tịch nước, Vệ-Quốc-Đoàn đổi tên thành Quân-đội Quốc-gia Việt-Nam (QĐQGVN). Năm 1950, Quân-đội Quốc-gia Việt-Nam đổi tên thành Quân-đội Nhân-dân Việt-Nam (QĐNDVN). Chú của tác-giả: Âm-mưu trước hết của người CSVN là dùng chiêu-bài dân-tộc “Quốc-Gia Việt-Nam”. Sau khi hoàn-thành việc tiêu-diệt người Quốc-Gia, CSVN đổi tên Quân-đội thành Quân-đội Nhân-dân Việt-Nam, đúng theo như tên gọi tại các nước anh em của họ thuộc khối Quốc-Tế Cộng-Sản. 22 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn H́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972. 23 Hồ-Chí-Minh đề-cao tột-độ nhu-cầu phục-vụ chủ-thuyết vô-sản, cổ-vơ thế-giới Cộng-Sản đại-đồng. Họ Hồ đă ngạo-mạn nói chuyện “đại-đồng” với cả Đức Thánh-Trần khi đề thơ: Bác đưa một nước qua nô-lệ, Tôi dắt năm châu đến đại-đồng... 24 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 223). 25 Jane's Fighting Ships, 1955. 26 Tiến-tŕnh thành-lập HQVN do Phó-Đô-Đốc Ortoli đề-nghị vào tháng 4 năm 1951 gồm có: thành-lập hai Hải-Đoàn Xung-phong năm 1951, một Trung-Tâm tuyển-mộ và huấn-luyện năm 1952, nhiều Đội Tuần-giang năm 1953, bốn Trục-Lôi-Hạm năm 1954, và một Phân-Đoàn Thuỷ-phi-cơ năm 1955. 27 Tư-Lệnh FNEO (Forces Navales en Extrême-Orient) là giới-chức Hải-Quân Pháp cao-cấp nhất tại Viễn-Đông. Dưới quyền ông, có hai thành-phần là Phân-Đoàn Viễn-Đông (Division Navale en Extrême-Orient) gồm các chiến-hạm lớn ngoài khơi và Lực-Lượng Hải-Quân Pháp tại Đông-Dương (Forces Navales en Indochine). Lực-Lượng thứ hai này lại chia ra Lực-Lượng Thuỷ-Bộ Miền Bắc và Lực-Lượng Thuỷ-Bộ Miền Nam. Xem thêm t́nh-trạng Hải-Quân viễn-chinh qua bài viết của Ortoli, P. La Marine Française en Indochine, La Revue Maritime, Decembre 1952. 28 Năm 2897-258 Trước Tây-Lịch (TTL.) Theo Trần-Trọng-Kim, Việt-Nam Sử-Lược, Quyển 1, Bộ Giáo-Dục, Trung-Tâm Học-liệu, Sài-G̣n 1971. 29 Văn-Tân, Vai-tṛ của Thuỷ-quân Việt-Nam trong Lịch-sử Dân-tộc (Từ Thời-đại Hùng-Vương đến Thế-kỷ XIX), trong "Nghiên-cứu Sử-học số 5", Hà-Nội, tháng 9, 1977: Nhà Thục (257-207TTL.) xây Cổ-Loa-Thành. Đây là Căn-Cứ Thuỷ / Hải-Quân lớn nhất Đông-Nam-Á trước Công-nguyên. 30 Có nhiều nguyên-do người Việt-Nam chúng ta hiểu được, nhưng cả người Pháp lẫn người Mỹ đều ghi những nhận-xét nông-cạn về hiện-trạng này. Các tài-liệu hải-sử của họ ghi rằng; họ không hiểu sao người Việt là dân duyên-hải, sinh-hoạt trên ghe-thuyền, sống bằng ngư-nghiệp mà việc tuyển-mộ và huấn-luyện lại gặp khó-khăn đến như vậy. 31 Tài-liệu Hoa-Kỳ: Naval Division, TRIM, Study, "Naval Forces of Vietnam" 10 Dec. 1955. Trang 1 ghi: Hải-Quân Pháp chỉ tuyển có 3 Sinh Viên Sĩ-Quan, chưa qua được một năm, tất cả bỏ cuộc. 32 "Naval Forces of Vietnam" 10 Dec. 1955, trang. 1-2. 33 Cho đến ngày cuối-cùng 30-4-1975, HQVN vẫn chưa được trang-bị máy gear turbine, và chiến-hạm lớn cũng chưa có loại cao-tốc. 34 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn H́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4. Bộ TTM/QLVNCH / Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 45. 35 Charles W. Koburger, Jr., "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991. Trang 101. 36 Hồi-kư của Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn cho hay khi c̣n là Sinh-Viên Sĩ-Quan, đă có một số Hạ-Sĩ-Quan & Đoàn-Viên Việt-Nam từ Hải-Quân Pháp chuyển qua. Các Ông Lộc, Bảo, Nhẫn… đă hướng-dẫn SVSQ Khoá 1 những ngày đầu… Các Ông Lộc, Bảo, Nhẫn… sau đó trở-thành Sĩ-Quan Đoàn-Viên, tiếp-tục phục-vụ HQVN khi người Pháp rút-lui. 37 Hồi-kư của các Sĩ-Quan Khoá 1 ghi-nhận việc họ về trường là để hoàn-tất phần lư-thuyết cuối-cùng và cũng để chuẩn-bị việc măn-khoá như là những Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam đầu-tiên. 38 Trừ một khoá-sinh trước là cựu quân-nhân Hải-Quân Pháp, sau tốt-nghiệp trường Sĩ-Quan Huế là Thiếu-Úy Lê-Quang-Mỹ. 39 Sau này trong suốt hai chục năm, các Sĩ-Quan ngành Chỉ-huy tốt-nghiệp Khoá 1 đă luân-phiên nhau nắm quyền Tư-Lệnh Hải-Quân. Các Sĩ-Quan ngành Cơ-khí cũng vậy, đứng đầu các ngành Kỹ-thuật Hải-Quân. 40 Documents Vietnam, Bulletin Publié par le Service de Press et d'Information du Haut-Commissariat du Vietnam en France. 1er October 1954, No. 70, trang 12: TTHL/HQ/ Nha-Trang đang huấn-luyện 350 Đoàn-Viên và 50 SVSQ. Kết-quả kỳ thi Sĩ-Quan ngành Chỉ-Huy (Officiers de pont) rất đáng khích-lệ. Có tới hơn 120 ứng-viên đă thi dự-tuyển vào trường Brest. 41 Xin xem thêm phần Sử-liệu của Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 42 Về chuyện Ông Trương-Ngọc-Lực và cái chết của TL/HQ, Đại-Tá Hồ-Tấn-Quyền (Khoá 1 SQHQ), xin mời xem bài viết của Phan-Lạc-Tiếp. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 43 Hồi-ức của Đại-Tá Cơ-khí Nguyễn-Văn-Kinh, Tài-liệu phỏng-vấn thực-hiện bởi Ban Hải-Sử tại San Diego, tháng 6/1999. 44 Xin xem thêm phần Sử-liệu của Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 45 Chỉ từ năm 1962, các khoá huấn-luyện Hạ-Sĩ-Quan mới bắt-đầu tại Nha-Trang với các khoá-sinh dân-chính có văn-bằng tối-thiểu là Trung-Học Đệ-Nhất-cấp. 46 Xin mời xem thêm chi-tiết về học-tŕnh Brest qua bài viết của Cựu Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng "Những Năm tại trường Hải-Quân Pháp" trong tác-phẩm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Điệp-Mỹ-Linh, Texas, 1990, trang 313-325. 47 Khoá 1 Brest Pháp so-sánh với Khoá 1 Nha-Trang Việt-Nam, tuy khởi-sự cùng lúc nhưng học-tŕnh bên Pháp dài hơn nên các Sĩ-Quan này ra trường trễ hơn và về nước phục-vụ HQVN sau Khoá 1 Nha-Trang tới gần 3 năm. 48 Ông Vũ-Nhân sau về nước, theo học và tốt-nghiệp khoá 6 tại Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Nha-Trang. 49 Xin mời xem thêm chi-tiết về Quân-Y Hải-Quân Việt-Nam qua bài viết của Y-Sĩ Hải-Quân Đại-Tá Trần-Nguơn-Phiêu được tŕnh-bày trong bộ sách này. 50 Bác-sĩ Nguyễn-Phúc-Quế sau này sang làm Y-sĩ của Thuỷ-Quân Lục-Chiến. 51 Những chính-quyền thuộc-địa Đông-Dương thường được gọi là Gouvernements des Amiraux. 52 Đặng-Cao-Thăng. Hoạt-động trong Sông của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 53 Trong một bản Tuyên-Dương Công-Trạng, người Pháp ghi một danh-hiệu khác cho đơn-vị này là “la Flotille Fluviale des Troupes Françaises d'Extrême Orient”. 54 Sĩ-Quan này tử-trận sau đó không bao lâu (Blessé mortellement le 25 janvier 1946 devant Tan Huyen, il est ”mort pour la France” le 29 janvier 1946). 55 Pissardy, Jean-Pierre; Flottilles Fluviales et Dinassaut. Militaria Magazine No.17; Feb. 1987; Histoire et Collections, Paris. 56 Robert McClintock, "River War in Indochina", U.S. Naval Institute Proceedings, December, 1954. 57 Croizat, Victor. The Brown Water Navy: The River and Coastal War in Indo-China and Vietnam, 1948 - 1972. Poole, UK: Blandford Press, 1984, trang 84: " From the first the French had tressed the importance of river force and, indeed, had conceived the naval assault division that had proven itself so effective...". 58 Charles W. Koburger, Jr. "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991. 59 Hải-Đoàn Xung-phong Việt-Nam, về h́nh-thức dự-trù tổ-chức giống như Hải-Đoàn Xung-phong của Pháp (Division d'infanterie navale d'assaut, gọi tắt là Dinassaut) nhưng đến khi trao cho Hải-Quân Việt-Nam, HĐXP đă bị thu nhỏ lại rất nhiều... 60 Charles W. Koburger, Jr., "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991. Trang 103. 61 H́nh trong sách của Bộ TTM/QLVNCH, “Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4”, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, ghi sai cấp-bậc của Ông Chơn là Chuẩn-Úy. 62 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 353. 63 "United States Navy and Vietnam Conflict", Vol. 1, Naval History Division, Washington DC., 1976. Trang 228, ghi như là Việt-Nam thắng: The issue was finally resolved in early 1954 by allowing the Vietnamese to fly their own flags. 64 Thực-sự, việc giải-quyết chưa thoả-đáng. Cho đến Chiến-dịch Rừng-Sát 1955, vấn-đề quốc-kỳ vẫn c̣n phải bàn tới. 65 Các Sĩ-Quan Pháp làm Hạm-Trưởng. 66 Ư-nghĩa danh-hiệu chiến-Hạm và truyền-thống Thuỷ-Quân Việt-Nam chống xâm-lăng được các ấn-bản Jane Fighting Ships ghi-nhận trong nhiều năm liên-tiếp: 1956, 1957, 1958... 67 Ba Trục-Lôi-Hạm mà Pháp đă chuyển-giao cho Việt-Nam đến lúc đó, vẫn c̣n do Sĩ-Quan Pháp làm Hạm-Trưởng. 68 Charles W. Koburger, Jr., "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991. Trang 104. 69 Documents Vietnam, Bulletin Publié par le Service de Press et d'information du Haut-Commissariat du Vietnam en France, Quatre Année, Paris, 1er Mars 1954, No.70, trang b́a và bài viết, trang 13. 70 Trong chính-sách "Bài Phong, Phản Đế", Cộng-Sản thường kết-tội quân-đội thời xưa là tay sai phong-kiến để bọn vua-quan dùng làm công-cụ đàn-áp nhân-dân. Lănh-tụ CSVN Hồ-Chí-Minh hay có thái-độ bất-kính với tiền-nhân. Đặc-biệt khi Hồ làm thơ vịnh vị "đệ-nhất anh-hùng nước Nam" là Đức Trần-Hưng-Đạo, Hồ đă hỗn-xược nghêng-ngang gọi sách-mé Thánh-Trần là bác, xưng tôi ! Bác anh-hùng, tôi cũng anh-hùng, Cũng bậc râu-mày, cũng kiếm-cung. Bác đuổi quân Nguyên, vung kiếm-bạc, Tôi trừ giặc Pháp phất cờ-hồng... (Ra vẻ bợ đỡ, nối "đuôi Bác", Chế-Lan-Viên gọi Đại-thi-hào Nguyền-Du bằng anh...). 71 Nguyễn-Việt, Vũ-Minh-Giang, Nguyễn-Mạnh-Hùng. Quân Thuỷ Trong Lịch-Sử Chống Ngoại-Xâm. Hà-Nội, 1983, trang 440, 441. 72 “Người Quốc-gia là những người đặt Tổ-Quốc lên bản-vị tối-cao. Tối-cao có nghĩa là trên tất cả mọi sự vật, kể cả tôn-giáo, đảng-phái, và cá chính bản-thân ḿnh”. Trích Việt-Nam Tự-Điển của Đào-Duy-Anh. 73 U. S. Naval Proceedings, Annapolis, February, 1973: các trang 48-58. 74 Bài viết The Vietnamese Marine Corps, 1996 by Peter Brush, Cuốn sách Vietnam Generation, các trang 73-78. 75 Xem chi-tiết tại chương 4 - Các đơn-vị bộ-binh, Sách "Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4", Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972. 76 Vào khoảng đầu năm 1951, đă có nhiều Liên-Đoàn Tuần-Giang (tiếng Pháp gọi là Garde Auxiliaire Escadrille Fluviale - GAEF) hành-quân trên sông-ng̣i toàn lănh-thổ Việt-Nam. Các Liên-Đoàn Tuần-Giang (LĐTG) do SQHQ Pháp chỉ-huy, phân-phối như sau: LĐTG số 1, đồn trú tại Sài-G̣n, gồm có 4 Đoàn Tuần-Giang (ĐTG): - ĐTG 1 đóng tại Cần-Thơ - ĐTG 2 đóng tại Mỹ-Tho - ĐTG 3 đóng tại Vĩnh-Long - ĐTG 4 đóng tại Sài-G̣n. LĐTG số 2, đồn-trú tại Huế, chỉ có một Đoàn Tuần-Giang đóng tại Huế. LĐTG số 3, đồn-trú tại Hà-Nội, gồm có 3 Đoàn Tuần-Giang: - ĐTG 1 đóng tại Hà-Nội - ĐTG 2 đóng tại Hải-Pḥng - ĐTG 3 đóng tại Nam-Định. Trên lư-thuyết, mỗi Bộ Chỉ-Huy LĐTG gồm 2 Sĩ-Quan, 2 Hạ-Sĩ-Quan, 9 Binh-Sï, và có một tàu chỉ-huy. Mỗi ĐTG có 1 Sĩ-Quan, 15 Hạ-Sĩ-Quan, 76 Binh-Sï, và có 6 tàu Vedettes. Tuy-nhiên, quân-số và chiến-đĩnh du-di tùy theo nhu-cầu chiến-trường. Quân-số tổng-cộng của các LĐTG là 920 người, đặt dưới quyền của Vệ-Binh quốc-gia (Garde Auxiliaire-GA). 77 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn H́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 353. 78 Theo nhận-xét của Trung-Tá TQLC Hoa-Kỳ Croizat phục-vụ cùng thời đó ở Việt-Nam, Delayen là một Sĩ-Quan Commando ngoại-hạng. (Sách của Croizat). Các Sĩ-Quan VN cũng nể tài tác-chiến của DeLayen, nhưng không ưa v́ người Pháp này c̣n lảng-vảng tư-tưởng “thực-dân”. 79 Tài-liệu chi-tiết cần t́m đọc thêm trong sách của Đại-Tá TQLC/ HK Croizat, Victor. The Brown Water Navy: The River and Coastal War in Indo-China and Vietnam, 1948 - 1972. Poole, UK: Blandford Press, 1984. 80 Trong Nghị-Định ngày 13 tháng 10 năm 1954 do Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm kư ban-hành về việc thành-lập TQLC có vài điều không "chỉnh" hay không xác-quyết như sau: Điều 1. Hiệu-lực kể từ ngày 1-10-1954. Nay thành-lập một Tổ-chức trực-thuộc Hải-Quân, một binh-chủng Bộ-Binh., có nhiệm-vụ Kiểm-soát Thuỷ-lộ, hành-quân Thuỷ-Bộ dọc duyên-hải và sông-ng̣i, đặt tên là Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Điều 4. Các đơn-vị sẽ có thể là: - Các Đại-đội Giang-Lực - Tiểu-Đoàn đổ-bộ - Đại-đội yểm-trợ nhẹ - Đơn-vị xung-kích - Giang-Đoàn xung-kích. 81 Whitlow, Robert H. U.S. Marines in Vietnam, The Advisory & Combat Assistance Era 1954-1964. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C., 1977. 82 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 353. 83 Whitlow, Robert H. U.S. Marines in Vietnam, The Advisory & Combat Assistance Era 1954-1964. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C., 1977, trang 19. 84 Cấp-bậc Trung-Tá lúc đó quá cao so với tổ-chức TQLC và cả Hải-Quân lúc đó. (Tài-liệu của Cựu Đại-Tá TQLC Cổ-Tấn Tinh-Châu (không xuất-bản). Sau đó, Trung-Tá Lê-Quang-Trọng đảm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh Sư-Đoàn 2 Bộ-Binh ngày 14-6-1957. (Dictionary of the VietNam War. Edited by Marc Leepson with Helen Hannaford. Webster’s New World, New York. 1999. Trang 493, 504). 85 Whitlow, Robert H. U.S. Marines in Vietnam, The Advisory & Combat Assistance Era 1954-1964. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C., 1977. Trang 20. 86 Croizat, Victor. The Brown Water Navy: The River and Coastal War in Indo-China and Vietnam, 1948 - 1972. Poole, UK: Blandford Press, 1984, trang 54-65: HQ Pháp cóDong y : - Thuỷ-Xa, hai loại: chay bằng bánh xe như Amphibious Trucks DUKW, chạy bằng xích như Track Landing Vehicle LVT. - Chiến-đĩnh nhiều loại: LCA, LCM, LCVP... và cả hors-board. Về sau TQLC không c̣n sử-dụng chiến-đĩnh nhưng Thuỷ-Xa của họ lại được trang-bị khá tối-tân như loại LVT-P5. 87 Lời chú-thích trong nguyên-bản: First group of Vietnamese Marine officers to attend U.S. Marine Officers Basic School, Quantico, Virginia, pose with Lieutenant Colonel Frank R. Wilkinson, Jr. (second from right), and Captain Michael Gott (extreme right). At the extreme left is Captain Le Nguyen Khang, a future Commandant of the Vietnamese Marine Corps. To his immediate left is Major Le Nhu Hung, a senior officer of the VNMC. (Photo courtesy of Lieutenant Colonel Michael Gott, USMC). 88 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 79). 89 Phan-Văn-Cổn. Giang-Lực Những Ngày Tiên-khởi. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 90 LCU tuy gọi là Giang-Vận-Hạm, nhưng thực-sự không được xếp vào hàng các chiến-hạm. Giang-Vận-Hạm do một Thuyền-trưởng chỉ-huy. 91 Phan-Văn-Cổn. Giang-Lực Những Ngày Tiên-khởi. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 92 LSIL 1030 chuyển thành HQ-30 của HQVN, rồi đổi số ra HQ-330. Hạm-Phó là HQ Trung-Úy Nguyễn-Thành-Châu (sau này là Phó-Đề-Đốc), Sĩ-Quan Đệ-Tam là HQ Thiếu-Úy Bùi-Cửu-Viên (sau này là Đại-Tá), Cơ-Khí-Trưởng là Trung-Úy CK Lương-Thanh-Tùng (sau này là Đại-Tá CK). 93 Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương. Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà, Bài Phỏng-Vấn Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh ngày Thứ Bảy 2/1/1993 thực-hiện bởi Ban Hải-Sử tại Virginia, Hoa-Kỳ, tháng 9/1993, trang 13-30. 94 Phan-Văn-Cổn. Giang-Lực Những Ngày Tiên-khởi. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. Giang-Pháo-Hạm này đổi thành HQ-331. 95 Trong bức h́nh này, Ông Mỹ mang trên mũ 4 ṿng kim-tuyến vàng. Mũ Sĩ-Quan như vậy chỉ một lần thấy trong HQVN. 96 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn H́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 354). 97 Quân-số nhỏ-nhoi này thua xa quân-số Thuỷ-Thủ-Đoàn một Chiến-hạm lớn của Mỹ, Pháp, Anh thường qua lại Biển-Đông thời ấy. Thiết-Giáp-Hạm 3,000 người, Hàng-Không Mẫu-Hạm 4 - 5,000 người. 98 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972. 99 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 253. 100 Xin xem Phạm-Kim-Vinh. Cái Chết Của Việt-Nam Cộng-Hoà, Những Trận Đánh Cuối-cùng. Nhà Xuất-bản Xuân-Thu. California. 1988. Trang 102. 101 Quân-lực Việt-Nam có trách nhiệm thành-lập, huấn-luyên và điều-hành Địa-Phương-Quân & Nghĩa-Quân từ tháng 4 năm 1955. Lực-lượng Nhân-dân Tự-Vệ chính-thức thành-lập từ tháng 4 năm 1956 (tài-liệu Anh-Ngữ ghi như sau: Civil Guard had been created by presidential decrée in april 1955 and numbered some 68,000 at the end of 1956. The Self-Defense Corps had existed locally since 1955. It was officially established in April 1956 with some 48,000 nonuniformed troops armed with french weapons). 102 Thực-tế, Chiến-Hạm được HQ Pháp chuyển-giao ít hơn dự-trù. Theo các thỏa-ước kư-kết giữa Việt Pháp: vào cuối năm 1955, chủ-lực Hải-Quân Việt-Nam gồm có 1 Khu-Trục-Hạm 305 feet, 1 Thông-Báo-Hạm, 257 feet, 7 Hộ-Tống-Hạm PC, 2 Hải-Vận-Hạm LSM, 3 Trục-Lôi-Hạm YMS. Xem tài-liệu trích-dẫn từ Jane's Fighting Ships đính kèm. 103 Thường gọi nôm-na là Tàu Ḍ nước. 104 Thường gọi nôm-na là Tàu Vét ḿn. 105 Có tài-liệu của Bộ TTM ghi sai là Dương-Vận-Hạm (LST = Landing Ship Tank). Loại chiến-hạm này lớn hơn, măi tới thập-niên 1960, Hải-Quân Việt-Nam mới được trang-bị. 106 Hai chiếc GC này phế-thải năm 1960. 107 Tiền-Phong-Đĩnh c̣n được gọi là Thiết-Giáp-Đĩnh. 108 Soái-Đĩnh c̣n được gọi là Chỉ-Huy-Đĩnh. 109 Tiểu-Giáp-Đĩnh c̣n được gọi là Truy-Kích-Đĩnh. 110 Stcan là chữ viết tắt của "Services Techniques des Constructions et Armes Navales France Outre Mer”. Chữ Fom chữ viết tắt của “France Outre Mer”. Loại Giang-đĩnh này được đóng tại Xưởng Ba-Son (HQCX sau này) để Hải-Quân Pháp hoạt-động ngoài nước Pháp, đặc-biệt cho Đông-Dương. 111 Tài-liệu tham-khảo ghi là "thuyền kèm". 112 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn H́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 356. 113 Trong khi Cấp-số Sĩ-quan Quân-đội đầu năm 1954: 5 Tướng, 40 Đại-Tá, 60 Trung-Tá, 400 Thiếu-Tá; Sĩ-quan thâm-niên nhất của Hải-Quân c̣n ở hàng Đại-Úy và Trung-Úy. 114 Phan-Văn-Cổn. Giang-Lực Những Ngày Tiên-khởi. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 115 Có tài-liệu ghi là ngày 30-6-1955. Việc bổ-nhiệm này là biến-chuyển lớn trong Hải-Quân. Tuy-nhiên, trong các sách hồi-kư của Ông, tướng Trần-Văn-Đôn không hề nhắc tới chuyện này. 116 Theo Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, và Oscar P. Fitzgerald: Sự chỉ-định này xảy ra một cách bất-thường v́ sự khác-biệt giữa các chức-quyền Pháp-Việt. Khi Việt-Nam chỉ-định HQ Thiếu-Tá Mỹ thay-thế HQ Đại-Tá Rechér trong chức Tư-Lệnh HQVN, Phó-Đô-Đốc Edouard Jozan, Tư-Lệnh Hải-Quân Pháp tại Viễn-Đông đang Xử-lư Thường-Vụ chức Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội Viễn-Chinh Pháp, phủ-quyết. Jozan chỉ-trích Thiếu-Tá Mỹ về chuyên-nghiệp, tư-cách và có nghi-vấn về quản-trị ngân-khoản...(The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang 325-326). 117 Trong cuộc tranh-chấp với các giáo-phái, chính-phủ Ngô-Đ́nh-Diệm mở cuộc hành-quân này để loại-trừ tàn-quân B́nh-Xuyên từ khu-vực Sài-G̣n Chợ-Lớn rút về. 118 Hải-Đoàn-Trưởng một Hải-Đoàn Xung-Phong đầy-đủ (Dinassaut) là một chức-vụ chỉ-huy quan-trọng trong Hải-Quân Pháp. Theo truyền-thống, Sĩ-quan này mang hiệu-kỳ Tư-Lệnh (Commodore) trên "Soái-Hạm" LSSL, LSIL hay LCT. (Charles W. Koburger, Jr., "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991. Trang 62.). Cuốn sách "L'Enseigne dans le Delta" của Bernard Estival (Versailles: Les 7 Vents, 1989: 127-130) cũng viết lại chuyện này. 119 Năm 1955, Pháp trao quyền chỉ-huy 4 Hải-Đoàn XP (sau này gọi là Giang-Đoàn Xung-Phong) cho Việt-Nam. HQ Trung-Úy Đinh-Mạnh-Hùng nhận Hải-Đoàn 25 tại Cần-Thơ. Trong năm này, nhiều cuộc hành-quân phối-hợp thuỷ-bộ tiến-hành khắp Nam-phần Việt-Nam. 120 Trong cuộc tranh-chấp với các giáo-phái, chính-phủ Ngô-Đ́nh-Diệm mở cuộc hành-quân này để loại-trừ lực-lượng vơ-trang Hoà-Hảo. 121 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn H́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 433. 122 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang 326. 123 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 354. 124 Thiếu-úy Lê-Quang-Mỹ (khoá 2 SQ Bộ-Binh tại Huế) gia-nhập Hải-Quân khoá 1 năm 1952, thăng-cấp rất nhanh. Ở chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân, Ông Mỹ lên tới cấp HQ Đại-Tá. Năm 1957, HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ là SQ đầu-tiên du-học khoá General Lines, chương-tŕnh dài một năm ở Monterey, Hoa-Kỳ. Khi trở về nước, Ông được biệt-phái Pḥng Tổng-Thanh-Tra Bộ TTM/QLVNCH. Ông có xin được trở lại phục-vụ Hải-Quân nhưng đơn của Ông bị bác. Ông tiếp-tục mang cấp-bậc Đại-Tá tới khi giải-ngũ vào năm 1967. HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ qua đời tại Houston, Texas, Hoa-Kỳ vào năm 1990. 125 Chức Phụ-Tá Hải-Quân (cũng như Phụ-Tá Không-Quân) cạnh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng QL/VNCH chỉ bị huỷ-bỏ vào ngày Quân-lực 19-6-1965. Tới khi đó, tổ-chức Quân-Lực mới quy-định rơ-ràng 3 quân-chủng: Hải, Lục, Không-Quân. 126 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 423. 127 Phan-Văn-Cổn. Giang-Lực Những Ngày Tiên-khởi. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 128 Thiệt-hại trong trận này cũng là thiệt-hại duy-nhất của Hải-Quân trong chiến-dịch Rừng-Sát: 1 Giang-đĩnh bị ch́m, 4 Giang-đĩnh bị hư-hại. 129 Đoàn Thêm. 1945-1964. Việc Từng Ngày. In tại Hoa-Kỳ. (không rơ năm nào). 130 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 441. 131 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 438-441. 132 Sinh-hoạt của Sĩ-Quan Hải-Quân đă là đề-tài hứng-khởi cho một nhà Văn nổi-tiếng (đoạt giải Văn-chương Gia-Long) viết về đoạn đời sông-biển của Hạm-Trưởng họ Hoàng trong một tác-phẩm xuất-bản tới hai lần: Đỗ-Thúc-Vịnh. Những Người Đang Tới. Xuất-bản lần thứ nhất, Tủ-Sách Người-Dân, Sài-G̣n, 1964. Xuất-bản lần thứ hai, Nhà Xuất-Bản Đỗ-Đỗ, Hoa-Kỳ, 1990. 133 Một trong những mục-đích nhỏ của tập sách Hải-Sử này là đưa ra các giải-đáp cho những câu hỏi tương-tự. Tư-Lệnh HQ Lê-Quang-Mỹ vừa đối-đầu với mọi khó-khăn vừa thành-lập Hải-Quân, lúc th́ thao-dượt ngoài biển với Hải-lực, lúc hành-quân trong sông với Giang-lực, khi thành-lập các cơ-cấu điều-hành, khi th́ công-cán ngoại-quốc... 134 Phái-bộ TRIM (Training Relations Instruction Mission) thành-lập ngày 3-12-1954 gồm cả Pháp lẫn Hoa-Kỳ phụ-trách liên-lạc và huấn-luyện lúc giao-thời cho QĐQGVN. 135 Naval Section, TRIM, Monthly Report. No. 4 of 1 June. 1955. 136 HQ Đại-Úy Chung-Tấn-Cang nhận-lănh chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng, Ông thăng-cấp HQ Thiếu-Tá sau đó. Nhiệm-kỳ từ 7-11-55 đến 29-3-58. 137 Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà trong Giai-đoạn h́nh-thành 1946-1955, Quân-Sử 4, Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5 xuất-bản năm 1972, trang 354. Xem thêm chi-tiết trong đoạn "Bảng-cấp-số lư-thuyết Hải-Quân 1955 và Trang-bị thực-sự", đă tŕnh-bày phía trên. 138 Rielly, Robin L. Mighty Midget At War: The Saga of the Lcs(L), Ships from Iwo Jima to Vietnam. PSI Research / The Oasis Press, May 2000: Có tới 2 chiến-hạm mang số 225. Khi chuyển-giao năm 1955, t́nh-trạng chiếc đầu-tiên (Arbalète - Ex LCSL-2) rất tệ-hại. Người Pháp giao chiếc khác (Framée LCSL-105) vào tháng 3 năm 1956 để thay-thế, chiến-hạm này mang lại số 225. Sau cùng, Arbalete - Ex LCSL-2 được bán như sắt vụn cho Đài-Loan (1977). 139 Loại chiến-đĩnh này rất nhỏ (không phải loại WPB sau này) - thường gọi là Vedette Cảnh-sát Quan-thuế thường dùng. 140 Lúc sơ-khởi, Giang-lực chỉ hoạt-động tại Nam-phần, được chia ra Giang-lực miền Đông và Giang-lực miền Tây. 141 Sau này vào năm 1959, Bộ Chỉ-Huy Hải-Trấn được thành-lập để điều-hành các đơn-vị bờ. 142 Một vài chi-tiết liên-hệ Hải-Quân và Thuỷ-Quân Lục-Chiến được ghi trong cuốn Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 143 Xem thêm chi-tiết qua bài viết của Y-Sĩ Hải-Quân Đại-Tá Trần-Nguơn-Phiêu được tŕnh-bày trong bộ sách này. 144 Sau chiến-dịch này ít lâu, Hải-Đoàn 22 XP được sáp-nhập vào Hải-Đoàn 21 XP. 145 Trước khi Chiến-dịch Nguyễn Huệ chính-thức khai-diễn, vào cuối tháng 12 năm 1955 quân chính-phủ đă có những hoạt-động quân-sự. Trong một cuộc hành-quân miền Long-Xuyên, Sĩ-Quan Hải-Quân đầu-tiên tử-trận vào khoảng trước ngày Giáng-Sinh. H́nh-ảnh HQ Trung-Uư Nguyễn-Văn-Trụ mang ống nḥm đang theo-dơi địch-quân, bị trúng đạn vào đầu mà thân xác vẫn bất-động đă trở-thành huyền-sử. Câu truyện vị Sĩ-Quan Hải-Quân khoá nh́ hào-hùng hy-sinh nơi trận-địa mang đầy màu-sắc tuyên-dương cho quân-chủng. Dưới bóng quốc-kỳ màu vàng ba sọc đỏ tung bay trước gió Hậu-giang, ḍng máu nóng, đỏ tươi nhuộm thắm bộ quân-phục trắng... chảy dài chầm-chậm từ đài quan-sát trôi dần xuống sàn chiến-đĩnh. 146 Chức-vụ Giám-Đốc HQCX rất quan-trọng, nghị-định bổ-nhiệm do Bộ-Quốc-Pḥng ban-hành. Hai vị Giám-đốc đầu-tiên do hai Tư-Lệnh Hải-Quân kiêm-nhiệm. Một trường-hợp đặc-biệt, khi Bộ Quốc-Pḥng bổ-nhiệm Đại-Tá Kỹ-sư Nguyễn-Dần làm Giám-đốc HQCX (17-2-1959 đến 7-11-1960). Cấp-bậc của Ông cao hơn Tư-Lệnh Hải-Quân, khi đó là HQ Trung-Tá Hồ-Tấn-Quyền. 147 Tài-liệu Hải-Quân Hoa-Kỳ ghi-nhận nỗ-lực nghiên-cứu và thành-lập Hải-Thuyền là Công-lao của HQ Thiếu-Tá Hồ-Tấn-Quyền trong những năm Ông làm Chỉ-Huy-Trưởng Duyên-khu Đà-Nẵng. 148 Công-việc sửa-chữa chính của HQCX là đại-kỳ các chiến-hạm. Có nhiều trở-ngại về kỹ-thuật và vật-liệu làm tŕ-hoăn công-tác tại HQCX. Tháng 10/1959, Hộ-Tống-Hạm Chi-Lăng HQ-01 sau giai-đoạn đại-kỳ dài tới 21 tháng, vẫn c̣n nhiều hư-hỏng cần phải sửa-chữa thêm. 149 Lịch-sử Xí-Nghiệp Liên-Hợp Ba-Son (1863-1998). Nhà Xuất-bản Quân-đội Nhân-dân, Hà-Nội, 1998, trang 269. 150 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, dưới đề-mục A National Navy đă viết rằng: Great pride was derived from the Sea Forces, particularly because it symbolized South Vietnam's status as a nation. 151 Có thể khi tinh-thần dân-tộc dâng-cao, Quân-đội Việt-Nam không ngại-ngần đụng-chạm với Quân-đội Pháp. Hành-động đáng kể nhất là khi Tiểu-Đoàn 55 chặn đường đoàn xe của Đại-Tướng Pierre Jacquot, Tư-Lệnh Quân-đội Viễn-chinh Pháp, không cho Ông di-chuyển từ Đà-Lạt xuống Nha-Trang. Một Thượng-Sĩ và vài Hạ-Sĩ-Quan Việt-Nam ngang-nhiên cự-nự với phái-đoàn. Khi Pháp gọi máy-bay th́ Việt-Nam đưa ngay hai Thiết-giáp-xa M8 ra chĩa súng, sẵn-sàng nhả đạn vào đoàn xe Pháp... Chỉ cần một lệnh khai-hoả là phái-bộ của Đại-Tướng Pháp bị làm cỏ, tan xác ngay. Thấy thế nguy, viên Tướng Pháp đành quay trở lại (Xem Đời Quân-Ngũ, Kư Ức Niên Dư Trần-Ngọc-Nhuận. NXB Xuân-Thu, California, 1992, các trang 238-239). 152 Colonel Victor J. Croizat, U.S. Marine Corps: Vietnamese Naval Forces Naval Forces: Origin of the Species, trang 48-58. 153 Colonel Victor J. Croizat, U.S. Marine Corps: Vietnamese Naval Forces Naval Forces: Origin of the Species, trang 48-58. 154 Đại-Tá TQLC Hoa-Kỳ Croizat viết một câu rất có ư-nghĩa về quyết-định của Thiếu-Tá Mỹ vào ngày 20/8/1955 để kết-luận bài viết của Ông: “Nhờ quyết-định này mà người Việt nắm được quyền- kiểm-soát Hải-quân của họ.” “It must acknowledged that since 20 August 1955, when the Vietnamese Naval Forces passed under Vietnamese Command, the decisions that have brought them to their present status were made by Vietnamese themselves”. (Vietnamese Naval Forces Naval Forces: Origin of the Species, trang 58). 155 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang 340. 156 Năm 1956 là một năm bận-rộn nhất cho Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04: Nhận-lănh tại Sài-G̣n vội-vàng không có cả sự hiện-diện của Hạm-Trưởng, đi Đà-Nẵng, biểu-dương lực-lượng và tuần-tiễu Hoàng-Sa, đi đại-kỳ Subic Bay, trở về tuần-tiễu Trường-Sa... 157 Theo hồi-ức của Cựu HQ Đại-Tá Nguyễn-Ngọc-Quỳnh (không xuất-bản).Ông không nhớ rơ các danh-số chiến-hạm. 158 HQ Đại-Úy Lâm-Nguơn-Tánh trong chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Lực, tháp-tùng Tổng-Thống xuống Vedette đi duyệt các chiến-hạm. 159 Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương, Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà, Bài Phỏng-Vấn-đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh ngày Thứ Bảy 2/1/1993 thực-hiện bởi Ban Hải-Sử tại Virginia, Hoa-Kỳ, tháng 9/1993, trang 13-30. 160 Hạm-Trưởng: HQ Trung-Úy Nguyễn-Vân, sau đó ít lâu thăng-cấp HQ Đại-Úy. 161 Theo Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald (The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang340-341, ngoài mục-đích thao-dượt tập-đội, HQVN c̣n muốn xác-nhận chủ-quyền trên các hải-đảo, đồng-thời thực-tập hành-quân đổ-bộ tại đảo Côn-Sơn, mũi Cà-Mau, ḥn Khoai, đảo Phú-Quốc, Poulo-Panjang, Poulo-Wai và Poulo-Tang trong vịnh Thái-Lan. Theo hồi-ức của Cựu Trung-Tá Đoàn-Danh-Tài (khoá 7): Sau khi tháo-cạn, Trợ-Chiến-Hạm HQ-225 chạy về Sài-G̣n bằng đường sông qua ngả Rạch-Giá. 162 Theo Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald (The United States Navy and the Vietnam Conflict, Vol. II, From Military Assistance to Combat, 1959 - 1965. Washington: Naval Historical Center, 1986. Trang 136). 163 Chữ “phù-hiệu” cũng chỉ “hiệu” của các binh-chủng. 164 Các Báo-Cáo NA Saigon, reports, 48-56 of 17 May and 49-56 of 16 May 1956, JN 62A-2199, box 80, FRC, and 11-57 of 24 Jan. 1957, JN 62A-2681, box 69, FRC. Dẫn lại của Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang 336. 165 Trong giai-đoạn h́nh-thành tập-sử-liệu này, Ban Biên-tập nhận được một ư-kiến sau: "Không ai có thể phủ-nhận đây là một công-tŕnh công-phu và giá-trị của tập-thể Hải-Quân, nhưng để cho cân-đối hơn cho tác-phẩm này, chúng tôi đề-nghị sưu-tầm thêm các bài viết của Đoàn-Viên Hải-Quân hoặc viết về Đoàn-Viên Hải-Quân". 166 Phan-Lạc-Tiếp. Một Ngày Với Đô-Đốc Chung-Tấn-Cang. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 167 Cần kể thêm một số Sĩ-Quan ngành Chiến-Binh. Các Sĩ-Quan này thường tốt-nghiệp từ những Trường Lục-Quân, t́nh-nguyện chuyển qua phục-vụ Hải-Quân. 168 Tài-liệu của Ông Nguyễn-Văn-Hiền, Trung-sĩ Cơ-Khí HQVNCH. 169 Trung-Tâm nằm trong Hải-Quân Công-Xưởng. Người đề-nghị ư-kiến này là HQ Trung-Tá Phan-Văn-Cổn, và Hiệu-Trưởng đầu-tiên là HQ Trung-Tá Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. 170 Nguyễn-Văn-Hiền, viết theo hồi-tưởng của Cựu Đại-Úy Cơ-Khí Nguyễn-Văn-San. 171 Những chi-tiết này do lời kể của Trung-Úy Đoàn-Viên Nguyễn-Thế-Phiệt và Trung-Uư Đoàn-Viên Người-Nhái Trần-Hữu-Phụng. 172 Nguyễn-Văn-Hiền. Hạ-tầng Cơ-sở Hải-Quân: các Đoàn-Viên. 2002. Tài-liệu riêng, không xuất-bản. 173 Sĩ-quan Hải-Quân Pháp tại Việt-Nam huấn-luyện được 7 khoá Sinh-Viên Sĩ-quan cho Hải-Quân Việt-Nam. Chương-tŕnh ấn-định chỉ có 10 tháng cho các khoá đầu, sau đó đă tăng dần lên tới 2 năm cho Khoá 7 (nếu tính cả thời-gian thực-tập sau khi măn-khoá). 174 Charles W. Koburger, Jr., "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991. Trang 104. Có tới 6 Giang-Đoàn Xung-phong đồn-trú tại Mỹ-Tho, Cát-Lở, Vĩnh-Long, Cát-Lái, Cần-Thơ và Long-Xuyên. 175 Theo bài viết của Y-Sĩ Hải-Quân Đại-Tá Trần-Nguơn-Phiêu. 176 Toán này gồm các Ông: Bùi-Cửu-Viên, Phạm-Mạnh-Khuê, Nguyễn-Đỗ-Hải, Đặng-Đ́nh-Hiệp, Lê-Phụng, Nguyễn-Tiến-Ích, Vơ-Duy-Ninh, Vũ-Nhân đặt dưới sự điều-động của Hải-Quân Đại-Úy Đặng-Cao-Thăng, Giám-đốc Quân-Huấn. Khi đó Hiệu-Trưởng trường SVSQ là HQ Đại-Uư Nguyễn-Đức-Vân. 177 Theo hồi-ức của Cựu HQ Trung-Tá Nguyễn-Văn-Hoa (viết năm 2000): Khoá 7 Đệ-Nhất Thiên Xứng, được tuyển-mộ vào đầu năm 1956, gồm nhiều thành-phần t́nh-nguyện như Hàng-Hải Thương-Thuyền, Cao-Đẳng Kỹ-Thuật Cao-Thắng, Sinh-Viên... Mọi người đều thi-tuyển vào, sau đó phải kư khế-ước (engagement). Tháng 7 năm 1957, 27 SQ ngành Chỉ-Huy (Thủ-khoa: Nguyễn-Văn-Thiện) và 17 SQ Cơ-Khí (thủ-khoa: Đoàn-Văn-Tiếng) măn-khoá, rồi thực-tập chiến-dịch Hồng-Nhạn. 178 Tên các Khoá và tên hầu-hết các Sĩ-Quan HQVNCH có thể t́m thấy trong các tài-liệu của Nguyễn-Tấn-Đơn (Úc-Đại-Lợi) liên-hệ đến Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang. 179 Trên thực-tế, các khoá này cũng như các khoá học ở Hải-Quân Học-Hiệu Brest của Pháp không có tên. 180 Theo thói quen gọi là Bảo-B́nh (hiểu là chiếc b́nh quư) Chính-xác là Băo-B́nh (b́nh đầy nước, tràn ra). 181 Peter Brush, The Vietnamese Marine Corps, trong sách Vietnam Generation, các trang 73-78. 182 Những người Quốc-gia chân-chính và cả chính-phủ QGVN, phản-đối dữ-dội việc Thực-dân Pháp và Cộng-Sản Hà-Nội cấu-kết nhau chia-cắt đất nước, đă không kư-kết hiệp-định này. 183 Hành-động cưỡng-chiếm bằng quân-sự này được Nữ-Giáo-sư Tiến-Sĩ Luật-khoa Monique Chemillier-Gendreau viết trong sách "La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys", xuất-bản tại Paris (Editions L'Harmattan, 1996. Trang 45. 184 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang 339. 185 Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. II, From Military Assistance to Combat, 1959 - 1965. Washington: Naval Historical Center, 1986, trang 155. 186 Lần bổ-nhiệm này không theo thâm-niên cấp-bậc. Thứ-tự các Sĩ-Quan thâm-niên sau TL/HQ Đại-Tá Lê-Quang-Mỹ lúc đương-nhiệm là các Thiếu-Tá Trần-Văn-Chơn, Chung-Tấn-Cang, Lâm-Nguơn-Tánh, Trần-Văn-Phấn, và Hồ-Tấn-Quyền. 187 Sau nhiệm-kỳ gần 2 năm làm Tư-Lệnh HQVNCH, HQ Trung-Tá Trần-Văn-Chơn du-học trường Cao-Đẳng Hải-Chiến Hoa-Kỳ (US. Naval War College). 188 Theo Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald (The United States Navy and the Vietnam Conflict, Vol. II, From Military Assistance to Combat, 1959 - 1965. Washington: Naval Historical Center, 1986. Trang 140-142) nhiều giới-chức Hải-Quân Hoa-kỳ hy-vọng HQ Thiếu-Tá Lâm-Nguơn-Tánh được chỉ-định vào Chức-vụ Tư-Lệnh HQVNCH. 189 Hồi-ức của cựu Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh ghi lại như sau: “Thực ra trong thâm-tâm tôi lúc ấy, tôi không hề muốn làm Tư-Lệnh chút nào, v́ tôi tự cho là chưa đến lúc tôi nhận trách-nhiệm này. Tôi c̣n thiếu kinh-nghiệm, tôi chưa sẵn-sàng. Ai muốn làm ǵ th́ làm, tôi không muốn tranh-giành với ai.” 190 HQ Thiếu-Tá Lâm-Nguơn-Tánh, sau khi tốt-nghiệp khoá General Line tại Monterey, California, Hoa-Kỳ; nhận-lănh chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Trấn đầu-tiên. 191 Theo chi-tiết ghi trong hiệp-định Genève, quân-dụng chỉ được thay-thế một đổi một. Ba Trục-Lôi-Hạm MSC này thay-thế 3 Trục-Lôi-Hạm YMS quá cũ, được phế-thải: HQ-111 Hàm-Tử, HQ-112 Chương-Dương, HQ-113 Bạch-Đằng. 192 Trục-Lôi-Hạm Hàm-Tử II HQ-114 là chiến-hạm đầu-tiên nhận-lănh tại Hoa-Kỳ, cũng là chiến-hạm đầu-tiên hải-hành băng ngang Thái-B́nh-Dương. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1959, Hải-Quân Thiếu-Tá Chung-Tấn-Cang nhận-quyền Hạm-Trưởng trong một cuộc lễ chuyển-giao tại Hải-Quân Công-Xưởng Mare Island, California. (Bản Thông-tin Toà Đại-Sứ VNCH tại Hoa-Kỳ, Press and Information Office, Vol. 5, No.13, August 14, 1959, trang 12-13.) 193 Hạm-Trưởng là Hải-Quân Đại-Úy Đinh-Mạnh-Hùng. 194 Hạm-Trưởng là Hải-Quân Đại-Úy Nguyễn-Vân. 195 Trong khi đến năm 1973, ngành hàng-hải Bắc-Việt-Nam vẫn c̣n vô-cùng nhỏ-bé (và kém-cỏi). Chiếc tàu biển lớn nhất khi đó mới chỉ có 5,000 tấn mua của Nhật là tàu Hồng-Hà. Và đường đi trên hải-đồ do tay Thuyền-trưởng Việt-Nam vạch, xa nhất mới chỉ đến Nhật-Bản. Song sau chuyến đưa tàu Hồng-Hà đến Nhật-Bản vào tháng 5-1973 (thời-điểm "tháng ba bà già đi biển" như các cụ nói) người Thuyền-trưởng đó kết-luận "xanh rờn" rằng: phải thuê thuyền-trưởng nước ngoài, các thuyền-trưởng học trong nước không thể dẫn tàu sang Nhật-Bản được! Đây thực-sự là một "cú choáng-váng" với ngành đường biển khi đó. (Bài viết về Thuyền-trưởng Phạm-Minh-Đường - người được mệnh-danh là một trong bốn “sói biển” của ngành hàng-hải Việt-Nam ?!). Báo Nhân-Dân cập-nhật 18 giờ 30 - 3-9-2003. 196 Hồi-ức của Cựu HQ Thiếu-Tá Trần-Quang-Thiệu, SQ từng phục-vụ HQ-11: Vào năm 1964, Hộ-Tống-Hạm Chí-Linh HQ-11 hải-hành từ Philadelphia về Sài-G̣n, dừng tại các hải-cảng/thành-phố sau đây: - Norfolk, Virginia (để huấn-luyện) - San Juan, Puerto Rico - Panama City, Panama - San Francisco, California - Pearl Harbor, Hawaii - Guam HQ 11 cùng hải-hành tập-đội với HQ-10, không ghé Subic Bay trên đường về Việt-Nam. 197 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, 1976, trang 145. 198 Xin mời xem thêm chi-tiết về học-tŕnh trường Cao-đẳng Hải-chiến qua bài viết của Cựu Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh "Trường Cao-đẳng Hải-chiến Hải-Quân Hoa-kỳ" trong tác-phẩm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Điệp-Mỹ-Linh, Texas, 1990, trang 299-311. 199 Charles W. Koburger, Jr. cho là có 6 Hải-đoàn. Số-lượng này có lẽ sai v́ không có tài-liệu Việt-Nam nào ghi-nhận Hải-Đoàn Xung-Phong tại Cát-Lở. 200 Bùi-Hữu-Thư. Hải-Quân VNCH trong Thời-kỳ Sơ-Khai. Báo Lướt-Sóng. Một số bài của Ông Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 201 Loại vedette là tàu của Anh, rất hữu-hiệu cho việc tuần-giang và hộ-tống trên sông. Tầm ngấn-nước hơi sâu nên không vào được chỗ rạch cạn. Hai chiếc Vedette loại này biệt-phái tuần-duyên cũng rất tốt. 202 Cuốn Hải-Quy này sau nhiều năm đă được tái-duyệt, tu-chỉnh trong những buổi họp Tham-mưu tại Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân VNCH, tuy vậy cho đến 1975 chưa bao giờ được tái-bản. 203 Trước khi được tách ra thành một pḥng riêng-biệt, T́nh-báo chỉ là một ban trực-thuộc Pḥng Hành-Quân Tinh-báo. 204 Theo Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald (The United States Navy and the Vietnam Conflict, Vol. II, From Military Assistance to Combat, 1959 - 1965. Washington: Naval Historical Center, 1986. Trang 136-137.) 205 Ông Ánh thăng-cấp Đại-Úy và Thiếu-Tá trong chức-vụ TMT. 206 Hạm-Trưởng Nguyễn-Ngọc-Quỳnh lúc đó có cấp-bậc HQ Đại-Úy. Sau Ông thăng tới cấp HQ Đại-Tá, đảm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh một Vùng Hải-Quân. 207 Xin mời xem thêm chi-tiết trong bài viết của Cựu Đại-Tá Nguyễn-Ngọc-Quỳnh, Chuyến Bắc-Tiến đầu-tiên. California, Xuân Nhâm-Ngọ 2002. 208 Một số tên được dịch từ các tên Pháp hoặc Mỹ, có nghĩa là vũ-khí như Arbalète là Nỏ-Thần. 209 H́nh-ảnh các Hải-Vận-Hạm của HQVN với cờ vàng ba sọc đỏ xuất-hiện lần đầu-tiên trên màn ảnh năm 1955 trong một cuốn phim rất thành-công "Chúng Tôi Muốn Sống" do tài-tử Lê-Quỳnh đóng vai chính. Trong phim, chiến-hạm Việt-Nam đang tham-gia công-cuộc cứu-vớt dân Bắc-Việt trốn chạy Cộng-Sản. Có nơi cả làng kéo nhau mạo-hiểm ra khơi trên những con thuyền nhỏ-bé hay bè-mảng mong-manh, t́m đường di-tản vào Miền Nam Tự-do những năm 1954-1955. 210 Xem thêm bài viết của Cựu HQ Đại-Tá Bùi-Hữu-Thư. 211 Loại Người-Nhái này thi-hành các công-tác Đặc-công và chống Đặc-công thuỷ của địch. 212 Lúc đầu danh-xưng của họ là Tuần-Viên Hải-Thuyền, một danh-xưng có tính-cách bán-quân-sự. 213 Có tài-liệu ghi: Lực-Lượng Giang-cảnh thành-lập với 4 LCM, 8 LCVP, 18 tiểu-đĩnh STCAN (French designed River Patrol Craft). 214 Hộ-Tống-Hạm Vân-Đồn HQ-06, nguyên là PC 1569, được chuyển-giao ngày 23 tháng 11 tại Seattle, Tiểu-bang Washington. (Bản Thông-tin Toà Đại-Sứ VNCH tại Hoa-Kỳ, Press and Information Office, Vol. 6, No.13, December 30, 1960, trang 14-15.) 215 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, 1976, trang 145. 216 "Đoàn công-voa" là danh-từ Việt-hoá, đi từ nguyên-ngữ "convoy hay convoi" của Anh, Pháp-ngữ, có nghĩa là đoàn tàu hay đoàn xe. 217 Phan-Lạc-Tiếp. Giang-Đoàn Hộ-Tống và nhiều bài viết khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 218 Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. II, 1986, pp 147-148. 219 Xin xem thêm phần Huấn-Luyện Hải-Quân của HQ Đại-Tá Bùi-Hữu-Thư. Cùng đăng trong bộ sách Hải-Sử này: HQ-01, HQ-04 và HQ-05 tấn-công chính-xác đến nỗi các lựu-đạn tay thả xuống làm cháy các bóng đèn trên các Tiềm-Thuỷ-Đĩnh. Cuối-cùng Hạm-Trưởng tàu ngầm phải liên-lạc bằng sonar yêu-cầu Hộ-Tống-Hạm chỉ tấn-công bằng cách nhấn nút tín-hiệu sonar, họ sẽ thả bong-bóng nước lên từ ống ngư-lôi để cho biết họ bị trúng đạn hay những khi cần thông-báo vị-trí của họ. 220 Càng về sau này, khả-năng chống tiềm-thuỷ càng bị suy-giảm. Những chiến-hạm lớn như Tuần-Dương-Hạm WHEC không c̣n được trang-bị Sonar. Khả-năng thả ḿn và trục-lôi cũng yếu-kém. 221 Hạm-Trưởng là HQ Đại-Úy Phùng-Nhật-Tân (Nguyễn-Tấn-Đơn. Tài-liệu VNCH & Hải-Quân. Sydney, 2002). Hộ-Tống-Hạm Đống Đa II (HQ-07) nguyên là PCE-881 Crestview, (Class Patrol Craft Escort), chuyển-giao cho HQVNCH ngày 29-11-1961. 222 Vào đầu thập-niên 1960, t́nh-h́nh chính-trị của Việt-Nam Cộng-Hoà bất-ổn v́ đảo-chánh liên-tiếp. Bên Âu-Châu các chính-phủ cũng không yên. Hành-động của Hải-Quân Hy-Lạp mang chiến-hạm ra hải-phận quốc-tế chờ-đợi, không ủng-hộ phe này hay phái kia được cả thế-giới theo-dơi. Hầu-hết Sĩ-Quan Hải-Quân Việt-Nam lúc đó quan-niệm rằng Hạm-đội là tài-sản chung của quốc-gia, không thuộc riêng một cá-nhân hay phe phái nào. Các Hạm-Trưởng Việt-Nam, khi được phỏng-vấn, đều đồng-ư với các Hạm-Trưởng Hy-Lạp về trọng-trách bảo-quản tài-sản cho quốc-gia. 223 Huy-hiệu Hạm-Trưởng đầu-tiên bán-chính-thức cũng có ngôi sao và bánh-lái, nhưng mang những chữ La-tinh: Magister Post Deum, tức là “Người quyết-định sau Trời”. Ngoài ra c̣n một loại Huy-hiệu không chính-thức nữa rất hiếm, mang những chữ Pháp: “Maître Après Dieu”. Có người đă dịch ra là “Trên có Trời, Dưới có Ta” 224 Hạm-Trưởng là những Sĩ-Quan Hải-Quân chỉ-huy các chiến-hạm Hạm-đội từ Tuần-Duyên-Hạm PGM trở lên. Hạm-Trưởng thâm-niên nhất là trên loại Khu-Trục-Hạm, DER (Destroyer, Radar Picket Ship). 225 Việc thành-h́nh Liên-đội Người-Nhái khá đặc-biệt. Quan-niệm về đặc-công-thuỷ truyền-thống đi từ Yết-Kiêu, Dă-Tượng; những vị anh-hùng đời Trần lặn xuống nước, đục thuyền giặc Nguyên Mông vào thế-kỷ 13. Trong chuyến công-du Đài-Loan năm 1960, Tổng-Thống Ngô-Đ́nh-Diệm rất thích-thú về khả-năng Người-Nhái Trung-Hoa Quốc-Gia. Khi Đài-Loan nhận lời huấn-luyện giúp, Hải-Quân Việt-Nam lập-tức tổ-chức thêm binh-chủng này. Công-tác huấn-luyện tiếp-tục tại các vùng duyên-hải Việt-Nam. Người Hoa-kỳ chỉ chính-thức cho Hải-Quân Việt-Nam gửi Sĩ-Quan và Đoàn-Viên sang Mỹ học tập từ 1968. 226 Ngày 10 tháng 12, 1961, hai chiếc Hộ-Tống-Hạm của Hải-Quân Việt-Nam là HQ-05 Tây-Kết và HQ-06 Vân-Đồn khởi-sự tuần-tiễu 10 hải-lư phía Nam vĩ-tuyến 17, và từ bờ ra khơi hai mươi hải-lư. Chiếc thứ nhất từ một hải-lư cách bờ ra khơi 10 hải-lư và chiếc thứ hai từ 10 hải-lư ra phía Đông hai mươi hải-lư. Các Trục-Lôi-Hạm MSO (Mine Sweeper Ocean) của Hải-Đoàn Trục-Lôi 73 HQHK trách-nhiệm tuần-tiễu từ đó ra phía ngoài khơi. 227 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. 228 Bùi-Hữu-Thư. Bài Tuần-Dương Hỗn-hợp Việt-Mỹ. Báo Lướt-Sóng. Bài Huấn-luyện Hải-Quân. và nhiều bài viết khác.. Một số bài Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 229 Hải-Quy được Bộ Tư-Lệnh HQVN ban-hành. ngày 10 tháng 9 năm 1959. Cuốn sách này đề-cập đến các quy-luật Hải-Quân. 230 Ngô-Quyền mở nước nhờ thắng trận thuỷ-chiến Bạch-Đằng. Đinh-Tiên-Hoàng dùng thuỷ-quân để dẹp loạn Thập-nhị Sứ-quân và b́nh-định đất nước. Lư-Thường-Kiệt viễn-chinh đánh Tống b́nh Chiêm bằng chiến-thuyền. Nguyễn-Huệ vào Nam ra Bắc, và Nguyễn-Ánh thống-nhất sơn-hà đều nhờ biết cách sử-dụng quân thuỷ làm mũi dùi tiên-phong, xuất-kỳ bất-ư tập-kích đối-phương. Những đại-anh-hùng dân-tộc khác như Lê-Hoàn, Trần-Hưng-Đạo, Trần-Khánh-Dư… từng làm nên sự-nghiệp hiển-hách đều là những chiến-lược-gia đại-tài về Hải-Chiến. 231 Hooper, Edwin B., Dean C. Allard, and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. 1, The Setting of the Stage to 1959. Washington: Naval History Division, 1976, trang 195-196.) 232 Cựu Đại-Tướng Cao-Văn-Viên, trong cuốn sách The Final Collapse. (Washington, D.C. 20402, USA, 1983) có viết về những bất-lợi của QĐVNCH cứ phải giữ thế-thủ trong suốt cuộc chiến. 233 Theo tập tài-liệu "Vietnam: What next? The Strategy of Isolation" (2002 ?) Cựu Đại-Tướng Cao-Văn-Viên, TTMT/QLVNCH viết tiếp theo quyển sách tiếng Anh "The Final Collapse” (Washington, D.C. 20402, USA, 1983), kế-hoạch như sau: “Quân Đồng-Minh sẽ đổ-bộ ngay phía bắc vĩ-tuyến 18 và phía nam cửa Sông Cả. Từ cửa Bến-Thuỷ, lực-lượng Đồng-Minh sẽ chiếm đèo Keo-Neua và Mụ-Già là hai đường xâm-nhập chính vào miền Nam. Và từ đó, chúng ta sẽ ngăn-chặn hữu-hiệu việc CSBV xâm-nhập qua ngả đường ṃn Hồ-Chí-Minh. 234 Điệp-Mỹ-Linh. Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975. Texas, 1990. 235 Nguyễn-Nhă. Một Thiên-tài Quân-sự. Trong Vài Sử-Liệu về Bắc-B́nh-Vương Nguyễn-Huệ. (Một Nhóm Học-giả). Đại-Nam Xuất-bản. California. 1992.Trang 83-127. 236 Sharp, Ulysses S. Grant. Strategy for Defeat: Vietnam in Retrospect. San Rafael, CA: Presidio Press, 1978. 237 Bùi-Hữu-Thư. Hải-Quân VNCH trong Thời-kỳ Sơ-Khai. Báo Lướt-Sóng.. Một số bài nữa của Ông Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 238 Bùi-Hữu-Thư. Hải-Quân VNCH trong Thời-kỳ Sơ-Khai. Báo Lướt-Sóng.. Một số bài nữa của Ông Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 239 Thiếu-Tá Lê-Quang-Trọng thăng-cấp Trung-Tá, được thuyên-chuyển khỏi TQLC và sau đó làm Tư-Lệnh Sư-Đoàn 2 Bộ-Binh. 240 Thiếu-Tá Lê-Nguyên-Khang thăng-cấp Trung-Tá ngày 18-6-1962. Khi TQLC trở-thành Lữ-Đoàn, Ông Khang là vị Tư-Lệnh đầu-tiên 241 Tài-liệu phỏng-vấn Cựu Đại-Tá CK Nguyễn-Văn-Kinh, Chỉ-Huy-Trưởng cuối-cùng của Lực-Lượng này đến năm 1975. 242 Đại-Dương. "Mộng Viễn-Du". Website http://www.NamDuongI.com của Đệ-Nhất Nam-Dương. 2000. 243 Người-Nhái SEAL có thể hoạt-động trên đủ loại địa-thế môi-trường khác nhau. Người-Nhái SEAL thường được gọi là Hải-Kích. 244 Trước đây, một Hải-Đoàn Xung-phong mang số 22 đă thành-lập từ miền Bắc và di-chuyển vào Nam năm 1954, nhưng Hải-Đoàn này bị tan-nát không c̣n bao nhiêu nên đă sáp-nhập vào Hải-Đoàn 21XP. 245 Hạm-Trưởng: Hải-Quân Đại-Úy Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. (Ex-USS Marion County, LST-975). Xin mời xem thêm chi-tiết về diễn-tiến nhận-lănh chiến-hạm này qua bài viết của Ông "Hồi-kư Lănh Tàu" trong tác-phẩm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Điệp-Mỹ-Linh, Texas, 1990, trang 327-342. 246 Hạm-Trưởng: Hải-Quân Đại-Úy Bùi-Cửu-Viên. (Ex-USS Maricopa County, LST-938). 247 Xin xem thêm phần Sử-liệu của Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 248 Tên Tuần-Duyên-Đĩnh này được chuyển thành Tuần-Duyên-Hạm từ năm 1969, khi Hải-Quân Việt-Nam nhận-lănh tàu tuần-duyên WPB trang-bị cho Lực-Lượng Duyên-pḥng. 249 Ra trường trong lúc t́nh-trạng quân-sự sôi-động, Sĩ-Quan khoá này mau-chóng nhận-lănh trách-nhiệm. Sau 10 năm kiên-tŕ trong hải-vụ, khoảng 1973-1975 họ đă nắm giữ quyền Hạm-Trưởng hầu-hết các chiến-hạm chủ-lực của Hạm-đội như Hộ-Tống-Hạm, Dương-Vận-Hạm, Tuần-Dương-Hạm và Khu-Trục-Hạm. 250 Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương, Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà, Bài Phỏng-Vấn Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh,-Trang 21. 251 Ngô-Đ́nh-Châu. Những Ngày Cuối-cùng của Đệ-Nhất Cộng-Hoà Việt-Nam. Nhà Xuất-Bản Holly Graphics. Virginia 1999. 252 Tốt-nghiệp tháng 11 năm 1964. 253 V́ lư-do muốn thu-hút Sinh-viên nhập-học, Trường Vơ-Bị Quốc-Gia Đà-Lạt (TVBQG/DL) đă quảng-cáo là trường đào-tạo Sĩ-Quan đa-hiệu, khi măn-khoá sinh-viên có thể chọn bất-cứ quân-chủng nào và họ cho phép 1 số sinh-viên chọn HQ và KQ sau khi tốt-nghiệp. 254 V́ không tham-khảo Hải-Quân trước, Trường Vơ-Bị Đà Lạt đă cho các Thiếu-Úy mới tốt-nghiệp hay rằng khi sang học Hải-Quân, họ sẽ được hưởng quy-chế Sĩ-Quan Sinh-Viên (và đương-nhiên sẽ không phải làm vệ-sinh doanh-trại). Ngày đầu-tiên mới nhập Quân Trường, khi HSQ trực đi kiểm-soát và đốc-thúc các SQ này làm vệ-sinh th́ có sự tranh-căi. BCH Quân Trường Hải-Quân Nha-Trang đă quyết-định dù là Sĩ-Quan khi sống trong 1 khoá học của Sinh-Viên vẫn phải làm vệ-sinh cho doanh-trại của ḿnh (không có lính hầu) và quân trường Nha-Trang không có quy-chế Sĩ-Quan Sinh-Viên. V́ thế có 5 Thiếu-Úy không chịu làm vệ-sinh như những SVSQ/HQ Khoá 13, họ đă xin trở về Lục-Quân. Tổng-cộng là 8 trong 15 người rời Hải-Quân. 255 Theo nhận-xét của các Hạm-Trưởng, các tân HQ Thiếu-Úy Hiện-dịch hầu hết là những quân-nhân gương-mẫu, kiến-thức khá, tinh-thần phục-vụ cao. 256 Lời Nguyễn-Ngọc-Điệp ghi-nhận khi hiệu-đính. Sách do Nhà xuất-bản Văn-hoá dân-tộc xuất-bản, Hà-Nội 2000. 257 Lời Chú kèm theo tấm ảnh số 391 về "Thi-hài (Tổng-Thống) Ngô-Đ́nh-Diệm" 258 Giáo-sư Văn-Tạo, Nhật-Báo Nhân-dân, Hà-Nội, 20/9/2000. 259 Tài-liệu trong cuốn Chiến-sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, Hoa-Kỳ, 1997. 260 Vào những năm 1966-1968, trong khi Tư-Lệnh Sư-Đoàn TQLC ở vào cấp-bực tướng, Tư-Lệnh HQVN mang cấp-bực Đại-Tá. 261 Trong năm 1968, HQVN (cấp Lực-Lượng) và TQLC (cấp Lữ-Đoàn) đă hành-quân phối-hợp tại U-Minh. 262 Tài-liệu của Giáo-sư Cao-Thế-Dung, "Mấy Nét Sơ-khảo về Hải-Quân Việt-Nam", báo Bạch-Đằng, Xuân Nhâm-Tuất, 1982, Virginia, USA, trang 12-16. 263 Vào thập-niên 1950, bằng Trung-học (thường gọi là bằng Diplome) c̣n rất giá-trị. Trong-khi Thuỷ-thủ QGVN cần học-vấn căn-bản và trau-dồi chuyên-nghiệp, Hải-Quân Nhân-dân có quan-niệm khác. Đây là trích-đoạn tiểu-sử chính-thức của Giáp-Văn-Cương, vị Đô-Đốc duy-nhất (Thượng-Tướng Lục-Quân), Tư-lệnh Quân-chủng Hải-quân ND 2 lần (1977 đến 1980, rồi 1984 đến 1990):” …Như vậy từ một viên-chức hỏa-xa trong chế-độ cũ, sau hơn 30 năm tôi-luyện và trưởng-thành trong quân-đội và chiến-tranh giải-phóng, ông đă trở thành Đô-đốc Hải-quân -một tài-năng quân-sự của Quân-đội Nhân-dân Việt-Nam mà không hề trải qua trường lớp huấn-luyện nào”. http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1667.30 & Bài viết theo Báo Quân-đội Nhân-dân online 264 Măn-khoá vào tháng 12 năm 1965. 265 Sau này, khi Trung-Tâm Huấn-luyện Hải-Quân Cam-Ranh được thành-lập năm 1968, việc huấn-luyện kỹ-thuật được giao cho Trung-Tâm Huấn-luyện Bổ-túc Sài-G̣n. 266 Bùi-Tiến-Rũng, Shipyards in Viet Nam, The Vietnam Council on Foreign Relations. Republic of Vietnam, Saigon, 1970, trang 15. 267 Điệp-Mỹ-Linh. Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Texas, 1990. Xem thêm chi-tiết các hoạt-động của Sở Pḥng Vệ Duyên-Hải được tŕnh-bày bởi Trần-Đỗ-Cẩm. Nhiều bài viết khác của Ông cũng được đăng trong Tập sách Hải-Sử này. 268 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994: "Paralleling the overall rise in MAAG strength, the Navy Section increased from 79 men in 1959 to 154 in early 1964. In addition, the naval advisors began to accompany South Vietnamese ships, river assault groups, and other units on combat operations." 269 Charles W. Koburger, Jr. "The French Navy in Indochina, Riverine and Coastal Forces, 1945-54", Praeger, New York, 1991, trang 105-106. 270 Vị Tư-Lệnh Hải-Quân lúc đó là Đề-Đốc Chung-Tấn-Cang. 271 Ghe Chủ-lực có kích-thước 55.9 x 15.9 x 2.8 (feet-inches), trọng-tải 19 tấn, vận-tốc 12 gút. Buồm được tháo-gỡ vào năm 1966 v́ ít khi được dùng tới. 272 Các ghe buồm của HQVNCH là những chiến-thuyền cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam được trang-bị cây xiếm. Trong các tài-liệu khảo-cổ hàng-hải: Xiếm là một trang-cụ trên các thuyền buồm dùng để chống lại sự giạt ngang. Xiếm cũng t́m thấy tại Mỹ-Châu thời cổ. Với Xiếm (hay lui-hạ), thuyền buồm Việt-Nam có khả-năng đi vát tức trếch-ngược với hướng gió, trước cả Công-nguyên (chứng-tích trên các trống đồng Heger I). 273 Tuy quen gọi Rừng-Sát, nhưng đúng ra là Rừng-Sác. 274 Radar đầu-tiên cho chiến-đĩnh hoạt-động trong sông được trang-bị trên chiếc Soái-Đĩnh của GĐ 27XP này, hoạt-động rất hữu-hiệu đặc-biệt khi giang-hành và tuần-tiễu ban đêm. 275 Đoàn giang-đĩnh của Giang-Đoàn 27XP, gồm có LMC8 và RPC thường di-chuyển với vận-tốc đường-trường 12 gút, tức là nhanh gấp rưỡi những Giang-Đoàn Xung-Phong khác. 276 Những nhà Hàng-hải Tây-phương làm chứng cho tinh-thần hiếu-khách và kỹ-thuật kiến-trúc tàu-thuyền thật cao của người Việt-Nam. Trong một cuốn nhật-kư của thương-nhân buôn-bán với vùng này vào khoảng thời-gian 1690-1700, người ta thấy viết rằng: "Khi một thương-thuyền nào đó bị đắm ở đây, số c̣n may-mắn v́ được dân Việt-Nam giúp-đỡ hơn bất-cứ ở một nơi nào khác. Thuyền bè của họ chạy ra chạy vào săn nhặt các vật-liệu, người ta dùng lưới để thu-hồi hàng-hoá bị ch́m. Thật là không c̣n một nỗ-lực nào mà họ không cố-gắng làm để sửa-chữa lại con tàu cho được tốt như xưa (Taboulet. La geste française en Indochine (Paris, 1955), Vol. 1. Trang 87.) 277 Thuỷ-Quân Tây-Sơn và Nhà Nguyễn đă từng tháo-gỡ những tàu chiến Tây-phương, rồi dùng vật-liệu và phương-tiện địa-phương, kiến-tạo những chiến-thuyền tương-tự (kiểu Tây-Phương) cho Hạm-Đội của họ. Công-việc hoàn-tất chỉ trong ṿng một vài tháng. 278 Tính ra một chiến-thuyền duyên-lực chỉ tốn hơn 1,000 Mỹ-kim. Ghe Chủ-lực tốn-kém hơn rất nhiều, nhưng chi-phí cũng không đáng kể. 279 Marolda, Edward J., and Oscar P. Fitzgerald. The United States Navy and the Vietnam Conflict. Vol. II, From Military Assistance to Combat, 1959 - 1965. Washington: Naval Historical Center, 1986, trang 228-229. 280 Nhà Văn Đại-Dương đă viết: "Kinh-nghiệm quư-giá đó đă giúp tôi đi trong cơn băo nhỏ từ Sài-G̣n ra Nha-Trang suốt đêm không cần Radar khi làm Hạm-Trưởng HQ-617 năm 1967". "Mộng Viễn-Du", Website http://www.NamDuongI.com của Đệ-Nhất Nam-Dương. 2000. 281 Lúc đầu Thiếu-Tướng Nguyễn-Hữu-Có, Tư-Lệnh Vùng 2 Chiến-thuật có ư-định bao-vây và bắt sống chiếc tàu địch để dùng làm tang-chứng cho sự xâm-nhập của Cộng-Sản Bắc-Việt. Sau đó, Ông bỏ ư-định này. 282 Ngày 20-02, Hộ-Tống-Hạm Kỳ-Hoà HQ-09 ra tăng-cường cho Hải-Đoàn Đặc-Nhiệm. 283 Trần-Lư. Tổ-Quốc Đại-Dương. Portland, Oregon, Công-Ty Phát-hành HK, 1999. 284 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. Trang 78-82. 285 Huy-chương US Navy Unit Commendation này là huy-chương đầu-tiên ân-thưởng cho một đơn-vị đồng-minh sau chiến-tranh Hàn-quốc. Hạm-Trưởng Hộ-Tống-Hạm Tụy-Động HQ-04 là Hải-Quân Đại-Úy Trần-Văn-Triết. 286 Nhiều người gọi là lư-thuyết Domino. 287 The Coast Guard at War, Vietnam 1965-1975, Alex Larzelere, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland, 1997. 288 Cuốn sách “Counterpart, A South Vietnamese Naval Officer’s War”, Do Kiem and Julie Kane, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland, 1998. 289 HQVNCH trong suốt giai-đoạn 1952-1975 mang đậm nhũng nét quư-phái, học-thức và chuyên-nghiệp như mọi Hải-Quân của các cường-quốc trên biển thời đó. 290 Ư-thức danh-dự của người Việt-Nam nói chung và của Hải-Quân Việt-Nam nói riêng thời ấy rất cao. V́ sự giáo-dục học-đường khác nhau, một người Mỹ b́nh-thường không thông-hiểu ư-thức danh-dự đó trong con người Việt-Nam. 291 SQ Cố-Vấn kết-tội SQ Việt-Nam “ăn cắp thuốc lá” một cách vô-căn-cứ trong khi SQ này vắng-mặt, đang đi phép. 292 Westmoreland, William C. A Soldier Reports, Dell Publishing Co.. Inc. New York, 1976, trang 315-316. 293 Sĩ-quan chỉ-huy chiến-hạm mang ngôi sao Hạm-Trưởng, được quân-nhân HQVN xưng-hô “Hạm-Trưởng” mà không bao giờ gọi cấp-bậc của Ông, cho dù Vị Sĩ-Quan này có cấp-bậc HQ Trung-Úy hay HQ Đại-Tá cũng vậy. 294 Thông-thường cấp-bậc Hạm-Trưởng và Cố-Vấn tương-đương. Tuy-nhiên khi nhận quyền chỉ-huy, tân Hạm-Trưởng có thể kém thâm-niên hơn cựu Hạm-Trưởng, do đó Cố-Vấn v́ cấp-bậc cao hơn, sẽ được thuyên-chuyển. Trường-hợp ngược lại, tân Hạm-Trưởng có cấp-bậc cao hơn, Cố-vấn thường được lưu-nhiệm. 295 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. Trang 218. 296 Những Cố-Vấn Trung-Quốc, thường là cấp tướng, đến Việt-Nam mang theo cả đoàn lính hầu nhộn-nhịp, nào bảo-vệ, nào cần-vụ, nào cấp-dưỡng, nào giám-mă. Khi Cố-Vấn lên đường công-tác, anh cấp-dưỡng quảy nồi-niêu xoong-chảo lên vai, anh cần-vụ lỉnh-kỉnh chăn-màn gối-đệm trên vai, anh giám-mă chạy tới cúi gập ḿnh xuống làm cái kê cho cấp trên đạp lên lưng ḿnh mà leo lên ngựa. Cố-Vấn đến nơi cần nghỉ-ngơi th́ cần-vụ kê giường trải nệm, bày ra nào chậu nào thau cho cấp trên rửa mặt rửa chân, cấp-dưỡng te-tái lo nấu cơm nấu nước, bảo-vệ lăm-lăm súng đứng gác, giám-mă te-tái đi cắt cỏ ngựa. Răm-rắp, răm-rắp, không chê vào đâu được. Xem "Đêm giữa Ban ngày" của Vũ-Thư-Hiên, hội-viên Hội Nhà Văn ở trong nước, Nhà Xuất-bản Văn-Nghệ (Mỹ) tháng 4-97. 297 Bùi-Tín. Mặt Thật (1994). 298 PCER: Patrol Craft Escort Rescue, Hộ-Tống-Hạm (Tiếp-cứu). 299 Ghi-chú trong tài-liệu dẫn-chứng: COAST GUARD CUTTER POINT LEAGUE FORCES VIET CONG TRAWLER AGROUND: The 82-foot U.S. Coast Guard Cutter POINT LEAGUE stands off watching the burning 100-foot steel Viet Cong trawler that the cutter forced aground near the village of Ba Dong, So. Viet Nam, during several hours of gun battle to keep the enemy from entering Co Chien River on June 20, 1966. Fire began with an explosion on board the trawler at 6:15 a.m., and was extinguished at 2:00 p.m. by Coast Guard and Vietnamese crews. Salvage crews removed an estimated 250 tons of arms and supplies. 300 Nhận-xét của Cựu Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh. Xem Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương, Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà, Bài Phỏng-Vấn-đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh ngày Thứ Bảy 2/1/1993 thực-hiện bởi Ban Hải-Sử tại Virginia, Hoa-Kỳ, tháng 9/1993, trang 13-30. 301 Ngô-Đ́nh-Châu. Những Ngày Cuối-cùng của Đệ-Nhất Cộng-Hoà Việt-Nam. Nhà Xuất-Bản Holly Graphics. Virginia 1999. Trang 61. 302 Cấp-bực Phó-Đề-Đốc cũng như Chuẩn-tướng (một sao) là cấp-bậc mới do chính-quyền quân-nhân đặt ra vào năm 1964. Trước đó, cấp Đô-Đốc Hải-Quân cũng như Tướng Lục-Quân khởi-sự nhỏ nhất từ 2 sao, tức Đề-Đốc hay Thiếu-Tướng. 303 Jane's Fighting Ships, 1967, 1968, 1969. 304 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. Trang 168-169. 305 Xin xem thêm chi-tiết trong bài ”Phỏng-vấn-đề-Đốc Trần-Văn-Chơn”. 306 Trường-hợp Ông Trần-Văn-Chơn rất đặc-biệt, vị Đề-Đốc này nắm quyền Tư-Lệnh lâu nhất, không những Ông có tới hai lần đảm-nhiệm chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân, mà c̣n làm Giám-đốc Hải-Quân Công-Xưởng cũng tới hai lần. 307 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. 308 Seebees hay CB, chữ viết tắt của Construction Battalions: Tiểu-Đoàn Công-Binh Xây-cất HQHK. 309 Xin xem thêm phần Sử-liệu của Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 310 Westmoreland, William C. A Soldier Reports. Dell Publishing Co. Inc. New York, 1976. Trang 240-241. 311 DER là chữ viết tắt của Destroyer Escort, Radar Picket Ship; loại Khu-Trục-Hạm Hộ-Tống Hải-Đội trang-bị loại Radar tiền-thám, có bán-kinh không-thám tới 200 hải-lư. 312 W. J. Moredock, LCDR, U. S. Naval Proceedings, February 1967. Trang 136-138. 313 Harold W. Seagal, LT. U. S. Naval Proceedings: January 1968. Trang104-105. 314 Trong khi WHEC nặng gấp rưỡi DER, lại được gắn có một bánh-lái nên quay rất chậm, đường kính chiến-thuật rộng gấp rưỡi DER. 315 Phụ-chú h́nh nguyên-bản: USS Slater executing a Williamson maneuver off Key West FL, August 1944. 316 Sự-kiện “Chính-quyền Mỹ đă sai-lầm trong chính-sách” thường được Hà-Nội xuyên-tạc như một sự thú-nhận xâm-lăng Việt-Nam. Sự thật, người Hoa-Kỳ chỉ nhận-định về những sai-lầm chiến-lược, chiến-thuật của họ, hối-tiếc rằng đă không thành-công trong việc trợ-giúp VNCH tiêu-diệt Việt-Cộng xâm-lăng. Măi-măi, lư-tưởng cao-quư của Hoa-Kỳ là tranh-đấu cho Tự-Do, dẹp tan độc-tài đảng-trị Cộng-Sản. Trong b́nh-diện lớn-lao toàn-cầu lớn hơn cuộc chiến Việt-Nam rất nhiều, Hoa-Kỳ đă toàn-thắng dẹp-bỏ tận gốc Cộng-Sản tại Nga-Sô và các quốc-gia Đông-Âu. 317 CIA là chữ viết tắt của Central Intelligence Agency, Cơ-Quan T́nh-Báo Trung-Ương của Hoa-Kỳ. 318 Một trong những giới-chức Việt-Nam được ghi-nhận là đă chỉ-trích một cách gay-gắt và cay-đắng nhất là Bà Ngô-Đ́nh-Nhu, được coi như "Đệ-Nhất Phu-Nhân" của VNCH thời Chính-phủ Ngô-Đ́nh-Diệm. 319 Nguyên-văn Anh-ngữ: "... White-faced soldier armed, equipped and trained as he is not suitable guerrilla fighter for Asia forests and jungles. French tried to adapt their forces to this mission and failed. I doubt that US forces could do much better.... Finally, there would be ever present question of how foreign soldier could distinguish between a VC and friendly Vietnamese farmer. When I view this array of difficulties, I am convinced that we should adhere to our past policy of keeping our ground forces out of direct counterinsurgency role." Gen. Maxwell Taylor, 22 February 1965. 320 Ḍng họ tướng Grant đă sản-sinh một số-lượng Tướng-lănh, Đô-Đốc nhiều nhất và nổi-danh bậc nhất trong những thế-gia vọng-tộc của đất Hoa-Kỳ. 321 Sharp, Ulysses S. Grant. Strategy for Defeat: Vietnam in Retrospect. San Rafael, CA: Presidio Press, 1978. 322 McNamara, Robert S. with Brian VanDeMark. In Retrospect. The Tragedy and Lessons of Vietnam. Times Books. Random House, U.S.A. 1995. Trang 275-276. 323 McNamara, Robert S. with Brian VanDeMark. In Retrospect. The Tragedy and Lessons of Vietnam. Times Books, Random House, U.S.A. 1995. Trang 275-277. 324 H. R. McMaster. "Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, The Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam". USA. 1997. 325 Kư-giả Rick Young, chương-tŕnh "Give War A Chance": Why did Johnson's "middle-course" strategy in Vietnam--graduated pressure and constrained attacks--represent no strategy at all? Is warfare by political consensus doomed to fail? In 1997, an Army major published a book about Vietnam that caught the attention of virtually every American military leader. The writer was H. R. McMaster and the book is titled "Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, The Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam".1997. 326 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. Trang 167-168. 327 Mang tổng-số Tuần-Duyên-Đĩnh PGM lên tới 20 chiếc. 328 Trần-Lư. Tổ-Quốc Đại-Dương, Portland, Oregon, Công-Ty Phát-hành HK, 1999. 329 Cutler, Thomas J. Brown Water, Black Berets: Coastal and Riverine Warfare in Vietnam. Annapolis: U.S. Naval Institute Press, 1988, trang 120-122. 330 Helm, Glenn E. Surprised at Tet: U.S. Naval Forces in Vietnam, 1968. Trong Pull Together, the Newsletter of the Naval Historical Foundation and the Naval Historical Center, Vol.36, No.1 (Spring/Summer 1997). 331 Nguyễn-Văn-Ơn. Liên-Đoàn 5 Tuần-Thám (Liên-Đoàn Đặc-Nhiệm 212.5). Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 332 Tài-liệu của Cựu Đại-Tá TQLC Cổ-Tấn Tinh-Châu (không xuất-bản). 333 Cuộc hành-quân đổ-bộ Deck House V/Sóng Thần 1/67, bài viết của Đại-Tá Tôn-Thất-Soạn, Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 334 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. Trang 129. 335 Advanced Research Projects Agency, Department Of Defense. Junk Blue Book: A Hanbook of Junks of South Vietnam. Washington D.C., 1962. 336 Hữu-Phương. Neo Tuổi Vàng. Sài-G̣n, 1967. 337 Nhà thơ Hữu-Phương sinh-trưởng tại Bến-Tre. Ông gia-nhập Hải-Quân Việt-Nam năm 1953. Tác-giả sau đó thăng tới cấp Phó-Đề-Đốc - Phụ-tá TL/HQ/Hành-Quân Biển. Ông mất vào sáng ngày 28-06-1988 tại Hoa-Kỳ, để lại hai tập bản-thảo thơ “Kiếp Lưu-Đày” chưa phổ-biến. 338 “Hải-Quân Việt-Nam Hành-Khúc” do Nhạc-sĩ: Hữu-Phương Nguyễn-Hữu-Chí sáng-tác vào khoảng năm 1969. Lời bản nhạc rất có ư-nghĩa, phù-hợp với “nhiệm-vụ người lính biển” như sau: Bao người con trai kiêu-hùng cùng nhau tách bến Ra khơi mênh-mông sóng to gió-mưa không sờn Ta là chiến-sĩ của trùng-dương muôn sức sống Hiên-ngang ra khơi giữ vững cơi-bờ Việt-Nam. Làm trai gắng noi theo dấu anh-hùng cương-quyết một ḷng Đường-trường xa bền tay lái Một ḷng tin, tin tương-lai Trùng-dương xanh bao-la Trời cao mây vương xa Hồn theo sóng với nước tới chân-trời xa. Mong một ngày mai huy-hoàng trời Nam tươi-sáng Đem thân nam-nhi đắp-xây cho giống Tiên Rồng Tung cờ Việt-Nam huy-hoàng rạng bay phất-phới Hiên-ngang ra khơi giữ vững cơi-bờ Việt-Nam. 339 Vào tháng giêng năm 1968, tức là khi khởi-sự cuộc “Tổng-Tấn-Công Tết Mậu-Thân”; quân chính-quy CS Bắc-Việt (BV) tại Vùng 1 Chiến-Thuật đông gấp 3 lần quân tay sai Việt-Cộng (VC) miền Nam. Tại Vùng 2 Chiến-Thuật, quân chính-quy Bắc-Việt có tới 35 tiểu-đoàn tác-chiến. Bản báo-cáo của MACV ghi số-lượng tiểu-đoàn địch như sau: Vùng I CT: 16 VC - 53 BV Vùng II CT: 15 VC - 35 BV Vùng III CT: 39 VC - 20 BV Vùng IV CT: 29 VC. 340 "Tổng-Công-Kích - Tổng-Khởi-Nghĩa của Việt-Cộng Mậu-Thân 1968", Bộ TTM/QLVNCH/ Pḥng 5/ Khối Quân-Sử xuất-bản 1968. 341 Wirtz, James. The Tet Offensive: Intelligence Failure in War. Ithaca, 1992. 342 Trong một buổi lễ ban-thưởng ngày 23 tháng 7 năm 1969 tại Vĩnh-Long. Các Đô-Đốc và Tướng-lănh đồng-minh được mời tham-dự. 343 OCS là chữ viết tắt của Officer Candidate School, Trường Sĩ-Quan Trừ-bị của HQ Hoa-Kỳ. Ngoài Hải-Quân Học-Hiệu Annapolis đào-tạo SQHQ Hiện-dịch, hệ-thống các trường OCS cung-cấp một số-lượng lớn-lao các SQHQ ngành trừ-bị. HQVN thường quen gọi các khoá OCS này là các khoá SQ Trần-Hưng-Đạo. 344 Zumwalt, Elmo R., Jr. On Watch: A Memoir. New York: Quadrangle Press/The New York Times Book Co., 1976. 345 Vào năm 1968, người Mỹ rút-lui, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà đảm-nhiệm một ḿnh vai-tṛ chiến-đấu chống Cộng-Sản Bắc-Việt (có cả khối Cộng-Sản kiên-tŕ đỡ-đầu). Hải-Quân Việt-Nam cũng phải nỗ-lực tiến tới việc tự-lập. Trước khi rút-lui, Hải-Quân Hoa-Kỳ chuyển-giao các cơ-sở phương-tiện lại cho Hải-Quân Việt-Nam. Chương-tŕnh đó mệnh-danh là "Accelerated Turn Over to Vietnam", (ACTOV) có nghĩa là Hoa-Kỳ "Chuyển-giao cấp-tốc cho Việt-Nam". Chương-tŕnh "ACTOV" đă được thi-hành một cách nhanh-chóng tốt-đẹp, và đă hoàn-tất sớm hơn thời-gian hoạch-định. Kết-quả đến cuối năm 1972, tổng-số chiến-hạm, chiến-đĩnh đă tăng lên đến hơn 1500 chiếc, có 16 đài Radar Kiểm-Báo cùng 16 Căn-cứ Yểm-Trợ và Tiền-Doanh Yểm-Trợ Tiếp-vận. Quân-số Hải-Quân vượt hơn 40000 Sĩ-quan, Hạ-Sĩ-quan và Đoàn-viên. 346 Mời xem thêm Hooper, Edwin B. Mobility, Support, Endurance: A Story of Naval Operational Logistics in the Vietnam War, 1965 - 1968. Washington: Naval History Division, 1972. 347 Cutler, Thomas J. Brown Water, Black Berets: Coastal and Riverine Warfare in Vietnam. Annapolis: U.S. Naval Institute Press, 1988, trang 344. 348 Xem thêm tài-liệu của Phạm-Văn-Sơn Chủ-biên.Lê-Văn-Dương soạn-thảo. Nguyễn-Ngọc-Hạnh h́nh-ảnh. Cuộc Tổng-Công-Kích Tổng-Khởi-Nghĩa của Việt-Cộng, Mậu-Thân 1968, Bộ Tổng-Tham-Mưu, Trung-Tâm Ấn-Loát Ấn-phẩm, Sài-G̣n, 1968.- Trang 48. 349 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. Trang 148-150. 350 Đầu năm 1971, Đề-Đốc Robert S. Salzer trở lại Việt-Nam với chức-vụ COMNAFORV. Sau nhiệm-kỳ Việt-Nam một thời-gian, Salzer được thăng-cấp Phó-Đô-Đốc, rồi hồi-hưu. 351 Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. Bài “Sự Đào-luyện Sĩ-Quan Đoàn-Viên”. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 352 Anh-Thy, tên thật là Nguyễn-Văn-Khổn, là một Đoàn-Viên của Đoàn Văn-Nghệ Hải-Quân. Tài-hoa mệnh-bạc, người Nhạc-sĩ trẻ qua đời năm 1975 trong một chuyến công-tác tại Quy-Nhơn. Khi đó, có lẽ Anh-Thy chưa quá tuổi 30. 353 Lời Nhạc “Hoa Biển”do Anh-Thy sáng-tác như sau: Ngày xưa em anh hay hờn-giỗi Giận anh khi anh chưa kịp tới Cho anh nhiều lời, cho anh bồi-hồi Em cúi mặt làm ngơ Không nghe kể chuyện Bao nhiêu chuyện t́nh đẹp nhất trên trần-đời Tại em khi xưa yêu hoa màu trắng Tại em suy-tư bên bờ vắng Nên đêm vượt-trùng Anh mong t́m gặp hoa trắng về tặng em Cho anh th́-thầm Em ơi t́nh ḿnh trắng như hoa đại-dương Trùng khơi nổi gió lênh-đênh triền sóng thấy lung-linh rừng hoa Màu hoa thật trắng, ôi hoa nở thắm ngất-ngây ḷng thêm Vượt bao hải-lư chưa nghe vừa ư lắc-lư con tàu đi Chỉ thấy bọt nước tan theo ngọn sóng dáng hoa kia mịt-mùng Biển-khơi không mang hoa màu trắng Tàu anh xa-xôi chưa t́m bến Nên em c̣n hờn, nên em c̣n buồn Sao chưa thấy anh sang Em ơi giận-hờn Xin như hoa sóng tan trong đại-dương. 354 Tác-phẩm của Nhạc-Sĩ Anh-Thy có lẽ không nhiều lắm. Nhưng bốn bản nhạc c̣n lưu lại, thường được người đời nhắc-nhớ là Hoa Biển, Biển Tuyết, Bốn Màu Áo và Cô Bạn Học. 355 Cutler, Thomas J. Brown Water, Black Berets: Coastal and Riverine Warfare in Vietnam. Annapolis: U.S. Naval Institute Press, 1988. Trang 348. 356 Cuốn sách "Đời Thuỷ-Thủ", của Vũ-Thất Vơ-Văn-Bảy xuất-bản 1968 tại Sài-G̣n là cuốn sách tiểu-thuyết đầu-tiên do chính một quân-nhân Hải-Quân viết về sinh-hoạt Hải-Quân. 357 Các Coast Guard Cutters của Mỹ sơn màu trắng, mang chỉ-danh bắt-đầu bằng chữ W như WPB (Weather Patrol Boat - Tuần-Duyên-Đĩnh) WHEC (Weather High Endurance Cutter - Tuần-Dương-Hạm). Chữ W để chỉ khả-năng hoạt-động mọi thời-tiết. 358 Vietnam Bulletin No.25, A Weekly Publication of the Embassy of Vietnam, Washington, D.C., 3-1970. Trang 1. 359 Có 9 chiến-hạm LSSL đă được chuyền từ HQHK sang HQ Pháp tại Viễn-Đông. 360 Đại-Dương."Mộng Viễn-Du", Website http://www.NamDuongI.com của Đệ-Nhất Nam-Dương. 2000. 361 Trong Tập H́nh-ảnh Kỷ-niệm của HQ Trung-Tá Parson, HQHK. 362 Thuỷ-thủ-đoàn Trợ-Chiến-Hạm hay Giang-Pháo-Hạm đông tới 60 người, đủ trang-bị cho 8 đến 10 giang-đĩnh nhỏ. 363 Xem thêm chi-tiết: Larzelere, Alex. The Coast Guard at War, Vietnam 1965-1975, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland, 1997. 364 U.S. Coast Guard nguyên là một thành-phần của Bộ Tài-Chánh, chuyển sang Bộ Giao-Thông Vận-Tải kể từ 1-4-1967. Trong thời chiến, Tổng-Thống Hoa-Kỳ có thể chỉ-thị Lực-Lượng này hoạt-động như một thành-phần của Hải-Quân. 365 Larzelere, Alex. The Coast Guard at War, Vietnam 1965-1975, Naval Institute Press, Annapolis, Maryland, 1997. 366 Lực-Lượng Đặc-biệt đă dùng loại Súng Cối Đại-liên này trên sàn quân-xa đi hành-quân. Nghe nói LLTD/HK một thời đă dùng vũ-khí này cải-biến để thay-thế đại-bác 40 ly, sau đó c̣n gắn thêm cả hoả-tiễn 2.75-in để tăng hoả-lực. 367 James F. Dunnigan and Albert A. Nofi. Dirty Little Secrets of the Vietnam War. St. Martin's Press, New York, 1999, trang 152-153. 368 Tulich, Eugene N. The United States Coast Guard in South East Asia During the Vietnam Conflict. Washington: Public Affairs Division, U.S. Coast Guard, 1975. 369 Giám-đốc Actov HQVN mang cấp-bậc HQ Thiếu-Tá. Trong những buổi họp Hải-Quân, nhiều thành-viên Actov có thể ở cấp Trung-Tá. Trong những buổi họp Liên-Quân, thành-viên có thể là Đại-Tá hay Tướng, đại-diện Actov Hải-Quân như vậy có cấp-bực quá thấp. 370 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. Trang 344-345. 371 Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 372 Chính-phủ Nam-Vang lúc đó lấy tư-thế một nước trung-lập, làm-lơ vụ này và cứ để Cộng-Sản Việt-Nam mượn biển mượn đất đưa người và quân-dụng xâm-nhập VNCH. 373 Đặc-san Đệ-Nhị Thiên-Xứng, Cựu SQHQ khoá 19, San José. Xuân Mậu-Dần 1998. 374 Để yểm-trợ cho Cambodge chống Cộng-Sản, trước đó các chiến-hạm chiến-đĩnh HQVNCH cũng đă nhiều lần phối-hợp với Hải-Quân nước này. Đặc-biệt trong Vịnh Phú-Quốc, Hải-Quân hai nước cùng nhau ngăn-chặn sự xâm-nhập của Cộng-sản Quốc-tế bằng đường biển. 375 Theo Thomas J. Cutler, Hạm-Đội Đặc-Nhiệm này quy-tụ một số-lượng chiến-hạm, chiến-đĩnh đông-đảo nhất trong cuộc chiến (Cutler, Thomas J. Brown Water, Black Berets: Coastal and Riverine Warfare in Vietnam, Annapolis, Maryland; 1988, trang 353). Nói cho đúng hơn, Lực-Lượng hùng-mạnh đến độ chưa từng có tại nội-địa Đông-Nam-Á suốt ḍng lịch-sử. Sau ngày 9 tháng 5 năm 1970, số-lượng chiến-hạm, chiến-đĩnh và đơn-vị tham-chiến tuy có đông-đảo hơn, nhưng địa-bàn hoạt-động cũng được trải rộng ra rất nhiều. 376 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. Trang 346 ghi TL/HQVN thăng-cấp ngày 1-7-1970. 377 Vietnam Bulletin No.25, A Weekly Publication of the Embassy of Vietnam, Washington, D.C., 3-1970. Trang 3. 378 Theo truyền-thuyết th́ Cao-Biền là Quan-Sát-Viên Không-tuần đầu-tiên: Vua Tàu sai Thái-sử Cao-Biền làm An-Nam Đô-Hộ (năm 860-873), với sứ-mạng chính là đi “yểm” 19 chỗ để Giao-Châu không thể nào thoát khỏi kiếp nô-lệ. Cao-Biền báo-cáo đă dùng con diều giấy bay lên không-trung, quan-sát h́nh-thế nước ta. Biền hoàn-tất công-tác được 18 chỗ bằng cách đào-bới nhưng không thể nào “yểm” được núi Tản-Viên. Tại Ninh-B́nh, Cao-Biền để lại một con diều khi đáp xuống. Đó là núi Cánh-Diều mà ta c̣n thấy ngày nay (phía Đông Thị-Xă). 379 Khi vây thành Quy-Nhơn năm 1793, theo lời khuyên của viên cố-vấn người Pháp Olivier de Puymanel (người đă xây thành Vauban ở Sài-G̣n và một số nơi khác) Nguyễn-Ánh dùng khí-cầu để ném các chất cháy vào trong thành. Kế-hoạch bị băi-bỏ để tránh cho dân-chúng, theo một nhà viết biên-niên lúc đó, “sẽ chết như cá chết trong hồ v́ nước đang thiếu dần”. 380 Năm 1884, một Tiểu-đoàn khí-cầu của Pháp tham-gia cuộc hành-quân đánh chiếm Bắc Ninh đă tạo ra hiệu-quả rất lớn đối với quân Tầu: trong quá-tŕnh tấn-công, các quan-sát-viên trên khí-cầu đă chỉ-điểm các vị-trí của quân Trung-Hoa và các công-tŕnh của họ, thậm-chí chỉnh cho pháo-binh bắn. Thời đó, tin-tức thu-thập từ khí-cầu được truyền đi bằng miệng, do đó gây khó-khăn cho việc thực-hiện các nhiệm-vụ và không cho phép các khí-cầu lên cao quá 300 mét. Tháng 4-1884, khí-cầu Cḥi-Gác (La Vigie) được đưa đi theo tướng Négrier trong cuộc hành-quân lên Hưng-Hoá. Ngày 12, viên Đại-Tá Tron lái khí-cầu hướng-dẫn pháo-binh bắn vào thành Hưng-Hoá. 381 Loại phi-cơ “cào-cào” Morane này (thường gọi là Bà-Già) khi khẩn-cấp, có thể đáp xuống những mảnh ruộng nhỏ-bé xứ ta. 382 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. 383 Tài-liệu của Hội Cựu-Đoàn-Viên Căn-cứ Hải-Quân Không-chiến Cam-Ranh (Naval Air Station Cam-Ranh, viết tắt NASCAM) trong trang lưới Webpage: http://www.vpnavỵcom/nascam.htm. 384 Niên-giám Jane’s Fighting Ships ghi-nhận các loại tàu này nguyên-thuỷ của Trung-Cộng (từ 200 đến 550 tấn là lớn nhất) dùng chuyên-chở cận-duyên, xếp chung vào hạng SL. 385 C̣n được viết tắt là TTKS/ZH (CSC - Coastal Surveillance Center) - 386 Nguyễn-Ngọc-Quỳnh. Vấn-đề Hải-phận. Trong Lướt-Sóng số đặc-biệt, BTL/HQ, Sài-G̣n, phát-hành ngày Hải-Quân 1974 (Trang 12-23): Măi tới cuối năm 1972 v́ quyền-lợi ngành ngư-nghiệp, Chính-phủ VNCH mới ban-hành sắc-lệnh sửa-đổi (số 056 -TT SLU ngày 26-12-1972) nới rộng hải-phận đánh cá ra tới 50 Hải-lư (mà Sắc-lệnh cũ quy-định là 3 Hải-lư). 387 Nhật-kư HQ-4 ghi: Khi Hạm-Trưởng ra lệnh: "Bắn thẳng vào đài chỉ-huy." Khẩu 76 ly 2 do xạ-thủ Huệ bóp c̣. Chỉ một phát, tàu địch nghiêng. Trên tàu địch tán loạn. Phát thứ hai, tàu địch bốc cháy và từ-từ ch́m trong ṿng mấy phút. Các họng súng khác trên HQ 4 đều hướng về tàu địch và chưa được lệnh bắn phát nào". Xem bài "HQ-4 Đánh Ch́m Tàu Địch", Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. Nếu xem tài-liệu Hải-Quân Nhân-Dân th́ sẽ thấy «rất tức cười» ! 388 Tuy vậy, CSBV gọi đoàn SL là “Đoàn Tàu Không Số”. Tàu ngụy-trang đánh cá, bằng sắt, có thể trọng-tải 150 tấn. Thật quá dễ-dàng để nhận-diện SL giữa đám ghe-thuyền đánh cá Miền-Nam, 100% gỗ, không mấy chiếc chở quá 20 tấn. 389 Đ́nh-Kính, Người Của Biển, Hanoi 2000. Nguyễn-Tư-Đương, Đường ṃn trên biển, Hà-Nội 2002. 390 Đă có những chuyện kể lại bởi chính Thuỷ-thủ-đoàn CSBV, giống như họ “sống trong huyền-thoại”. Gần cuối Thế-kỷ 20, thay v́ áp-dụng kỹ-thuật hàng-hải để hải-hành, Thuỷ-thủ-đoàn CSBV chỉ cầu sự may-mắn. Thật tội-nghiệp khi họ c̣n tin-tưởng là nhờ bóng đêm mà có thể thoát lưới. Các tài-liệu “Đường Ṃn Hồ-Chí-Minh Trên Biển kỷ-niệm 40 năm” đă ghi rằng: "…Vịnh Cây-Bàng Ḥn-Hèo, thuyền-trưởng nào vào được đây phải lăo luyện và có trên dưới 20 năm trong nghề"!!!??? 391 Nhờ chiều dài sóng điện-từ ngắn hơn so với ánh-sáng, đường đi của sóng radar cong hơn, vượt quá chân trời. Không những thế, chân trời radar lại c̣n xa hơn chân trời thị-giác của Quan-Sát-Viên đài Chỉ-Huy chiến-hạm nhờ ở vị-trí giây trời Radar đặt trên đỉnh cột buồm Khu-Trục-Hạm, tức là có độ cao hơn quan-sát-viên của địch (trên các tàu thấp, nhỏ) khá nhiều. Thông-thường, chiến-hạm VNCH dễ-dàng thấy địch trước khi địch thấy ta hàng chục hải-lư. Ưu-thế điện-thám của chiến-hạm c̣n gia-tăng khi thời-tiết xấu v́ trong khi chân trời radar có thể tăng lên với ẩm-độ và áp-xuất không-khí th́ tầm quan-sát thị-giác của đối-phương lại bị suy-giảm trầm-trọng. 392 Những bài toán liên-hệ đến vị-trí, thời-gian, vận-tốc, hướng đi... được giải ra đáp-số tức-khắc bằng bảng vận-chuyển. (Maneuvering Board, The Logarithmic Time-Speed-Distance Nomogram). 393 Theo Polmar, Norman. The Ships and Aircraft of the U.S. Fleet. Twelth Edition. Naval Institute Press, Annapolis, Maryland. 1981.- Trang 352. Có tài-liệu ghi UPS-1 (UPS là viết tắt của kư-hiệu: U= multi-platform, P= radar, S= search. AN/TPS-62 là viết tắt của Army Navy / Transmission Parameter Signalling). Xin xem tiếp tài-liệu kỹ-thuật chính-xác trong bài viết của SQ đặc-trách chương-tŕnh Actorad là Ông Trần-Trọng-Hải, ở cuối Chương 4. 394 Tài-liệu "Đặc-tính Chiến-Hạm Chiến-Đĩnh", BTL/HQ/Pḥng 3, 1972. 395 Bùi-Hữu-Thư, "Huấn-luyện Hải-Quân" và nhiều bài viết khác.. Một số bài Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 396 Bùi-Hữu-Thư, bài “Huấn-luyện Hải-Quân” và một số tài-liệu khác của Cựu OCS. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 397 Bùi-Hữu-Thư, bài Huấn-luyện Hải-Quân và một số tài-liệu khác nữa. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 398 Tài-liệu "Đặc-tính Chiến-Hạm Chiến-Đĩnh", BTL/HQ/Pḥng 3, 1972. Jane's Fighting Ships, 1955, 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1961, 1962, 1963, 1964, 1965, 1966, 1967, 1968, 1969, 1970, 1971, 1972, 1973, 1974, 1975, 1976... Paulton House, Shepherdess Walk, London, N1 England.) 399 Hải-Quân Hoa-Kỳ gọi Huấn-lệnh Hành-Quân là S.O.P (Standard Operation Procedure) 400 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. 401 Điệp-Mỹ-Linh: Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975. Texas, 1990, trang 42. 402 Sách Đời Quân-Ngũ. Kư Ức Niên-Dư Trần-Ngọc-Nhuận. Xuân-Thu, California, phát-hành 1992: ghi rằng Phó-Đề-Đốc Nguyễn-Hữu-Chí (nhà văn, thơ Hữu-Phương) là Tư-Lệnh Hạm-đội Biển, nhưng không có chi-tiết dẫn-chứng. 403 Tuần-Dương-Hạm của HQVNCH nguyên-thuỷ là WHEC (trọng-tấn tối-đa 2800 tấn) của Lực-Lượng Tuần-Duyên Coast Guard Hoa-Kỳ. Đây không phải là loại Cruiser đúng theo tiêu-chuẩn quốc-tế. 404 Tầm hoạt-động của Radar không-thám trên DER quét rộng tới hơn 200 hải-lư. 405 WHEC là một trong những loại chiến-hạm có tầm hoạt-động lớn nhất (trừ loại trang-bị động-cơ hạt nhân), tầm hoạt-động tiết-kiệm tới 20,000 hải-lư (tức gần một ṿng quanh xích-đạo trái đất 60x360= 21,600 hải-lư). 406 Bài Viết của Phạm-Quốc-Nam –TN.21/18C/QT-1/70/TĐ– K.2ĐB/SQHQ/NT. 407 Thí-dụ HQ Thiếu-Tá Nguyễn-Văn-X... 408 Nguyễn-Tấn-Đơn. Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 409 Theo tin-tức tiết-lộ sau cuộc Hoà-Đàm Paris, CSBV đă một lần âm-mưu việc đề-nghị giải-giới Quân-nhân Trừ-bị. Nếu có điều-khoản này, lập-tức HQVNCH coi như vô-năng v́ mất hết cán-bộ ṇng-cốt. 410 Theo “Danh Bạ Sĩ-Quan HQVNCH” sách Tài-Liệu VNCH & Hải-Quân. Nguyễn-Tấn-Đơn. Úc-Đại-Lợi, 2002. 411 Nguyễn-Đức-Phương là tác-giả cuốn sách “Chiến-tranh Việt-Nam Toàn-Tập: Từ trận đầu (Ấp Bắc – 1963) đến trận cuối (Sài-G̣n – 1975). Toronto, Canada: Làng Văn, 2001. 412 Tháng 6 năm 1971, sau khi măn-khoá lớp Cao-Đẳng Quốc-Pḥng, HQ Đại-Tá Đinh-Mạnh-Hùng về nhận-lănh chức Phụ-Tá Tư-Lệnh Hải-Quân Đặc-Trách Hành-Quân Sông tại B́nh-Thuỷ. 413 Xin xem thêm phần Sử-liệu của Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 414 Lúc đó chính-phủ của Thủ-Tướng Phan-Huy-Quát cũng chưa tṛn một tháng và Ông Bùi-Diễm là Bộ-Trưởng Phủ Thủ-Tướng. Việc HK đưa quân vào VN mà không thông báo và không có sự thoả-thuận trước của chính-phủ VN đă cho thấy HK coi thường tiếng nói của chính-phủ VN đến thế nào! Chúng ta c̣n nhớ là trong những năm 62, 63 HK vẫn t́m cách đưa thêm quân sang VN nhưng gặp phải sự chống-đối của TT Diệm nên họ phải "thay ngựa giữa đường." Tai-hại của sự hiện-diện của lính HK th́ tác-giả Gọng-Ḱm Lịch-Sử cũng đă tŕnh-bày rơ trong quyển sách: nó làm Miền Nam mất chính-nghĩa bảo-vệ tự-do trong khi đó với bộ máy ngôn-ngữ một chiều của hệ-thống Cộng-sản quốc-tế, cộng thêm cái vô-tư, ngây-ngô của các thành-phần khuynh-tả đă làm công-việc vận-động sự ủng-hộ công-luận thế-giới càng thêm khó-khăn về mặt ngoại-giao. (Lời Tiến-Sĩ Trần-Văn-Hải đọc trong buổi giới-thiệu sách "Gọng-Ḱm Lịch-sử" của Bùi-Diễm tại Washington DC, ngày 17 tháng 12 năm 2000). 415 Phạm-Kim-Vinh. Cái Chết Của Việt-Nam Cộng-Hoà, Những Trận Đánh Cuối-cùng. Nhà Xuất-bản Xuân-Thu. California. 1988. Trang 309. 416 Khoá 1 Đặc Biệt được đặt tên là khoá Thuỷ Tinh (Mercury). Các khoá kế-tiếp là khoá 2 Đặc Biệt tức khoá Kim-Tinh (Venus), khoá 3 Đặc Biệt là khoá Hỏa Tinh (Mars), khoá 4 Đặc Biệt là khoá Mộc Tinh (Jupiter) và khoá 5 Đặc Biệt là khoá Thổ-tinh (Saturn). Khoá này kết-thúc chương-tŕnh SQHQ Đặc Biệt vào đầu năm 1975. 417 HQ-2 Trần-Quang-Khải, ex-USGC Bering Strait, WHEC-382 có kích-thước và đặc-tính như sau: Trọng-tải Nhẹ 1,766 tấn.(lt) Tối-đa 2,800 tấn.(fl); Chiều dài 311 feet 8 inches; Chiều ngang 41 feet 1 inch; Tầm nước 13 feet 6 inches"; Vận-tốc 18.6 nơ (kts); Thuỷ-thủ-đoàn 215; Vũ-khí; 1 hải-pháo 5"/38, 1 hải-pháo 40m kép, 2 hải-pháo 40mm đơn, 4 hải-pháo 20mm. Máy chánh; Động-cơ Diesel, 2 chân-vịt 6,000hp. HQ 3 Trần-Nhật-Duật, ex-USCG Yakutat (AVP-32) WHEC-380 HQ 5 Trần-B́nh-Trọng, ex-USCG Castle Rock, WHEC-383 HQ 6 Trần-Quốc-Toản, ex-USCG Cook Inlet, WHEC-384 and AVP-36 HQ 15 Phạm-Ngũ-Lăo, ex-USCG Absecon, WHEC-374 HQ 16 Lư-Thường-Kiệt, ex-USCG Chincoteague, WHEC-375 HQ 17 Ngô-Quyền, ex-USCG McCulloch, WHEC-386. 418 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. 419 H́nh Graphic của Ông Nguyễn-Tấn-Đơn. Khi chương-tŕnh hoàn-tất, vùng hoạt-động của các Đài Radar đan kín vào nhau, các ṿng tṛn chồng-lấn lên nhau. Xin xem tiếp tài-liệu kỹ-thuật chính-xác trong bài viết của SQ đặc-trách chương-tŕnh Actorad là Ông Trần-Trọng-Hải, ở cuối Chương 4. 420 Vương-Hồng-Anh tổng-hợp tài-liệu: Hải-pháo Việt - Mỹ và các trận hỏa-công ở Vùng 1 Duyên-Hải, Việt Báo Kinh-tế, California, 2/9/99. 421 Phạm-văn-Chung. Cờ Bay Trên Cổ-thành Quảng-Trị. Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 422 Nhật-kư Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư HQ-4 ghi-nhận nhiều đêm tác-xa tới 5,000 trái đạn. Trong một chuyến công-tác, ṇng súng bị ṃn, phải thay tới 2 lần. 423 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994, trang 323. 424 Năm 1974 - Năm Sĩ-quan tu-nghiệp tại "Naval Postgraduate School". Năm 1975 - Mười chín Sĩ-quan tu-nghiệp tại "Naval Postgraduate School". Một Sĩ-quan cao-cấp tu-nghiệp tại "Naval War College". Các Sĩ-quan này bị kẹt lại Hoa-Kỳ khi Nam Việt-Nam thất-thủ. 425 Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn trong chức-vụ Tu-Lệnh Hải-Quân, tháp-tùng Tổng-Thống đi duyệt các chiến-hạm, chiến-đĩnh. 426 Cutler, Thomas J. Brown Water, Black Berets: Coastal and Riverine Warfare in Vietnam, Annapolis, Maryland; 1988, trang 356. 427 Xin xem chi-tiết diễn-tiến trận Hải-chiến này qua các bài viết của Trần-Đỗ-Cẩm trong cuốn sách “Tài-Liệu Hải-Chiến Hoàng-Sa” California, 2004. 428 Tuyên-cáo của Bộ Ngoại-giao Việt-Nam Cộng-Hoà số 015/BNG/TTBC/TT (Ngày 19.1.1974) 429 Thái-Văn-A, trong “Hạm-Đội Hải-Quân QLVNCH- Hải-Chiến Hoàng-Sa”, Melbourne (Australia tháng 5-1990) viết: …Trong lúc vừa đổi đội h́nh, vừa khai höa vào chiến-hạm địch, HQ 4 khai-hoả đầu tiên... Nhờ chuẩn-bị kỹ-càng từ trước, đạn HQ-4 trúng ngay các tàu địch, giết chết ngay chính-ủy Mă Ṭng Bách. 430 Cựu HQ Đại-Uư Trần Kim Diệp, hiện cư-ngụ tại Pháp, hồi-tưởng lại khi đứng trên boong HQ-5 nh́n sang HQ-4: “Trong không-khi ngột-ngạt, căng-thẳng tột-độ, đột-nhiên những tiếng nổ lớn và nhiều chớp lửa bùng lên, súng HQ-4 đồng loạt khai-hoả… HQ-5 tác-xạ tiếp theo”. Đại-Úy Diệp nguyên là Trưởng Pḥng 2 BTL/HQ/V1DH cũng là người viết bản phúc-tŕnh của Vùng 1 Duyên-Hải lên BTL/HQ, có một bản thông-báo Ủy-Ban Quân-Sử BTTM/QLVNCH. Ông Diệp cũng là tác-giả bài viết “Bên lề trận Hải-chiến Hoàng-Sa” (T́nh Đại-Dương- bản tin K17/SQHQ/NT tháng 7/2004). 431 military.china.com/zh_cn/history4/62/20050222/12123210.html 432 The Final Collapse. Cao Van Vien. Washington, D.C. 20402, USA, 1983. 433 Ngay cả Bùi-Tín, một Cựu Đại-Tá CSVN cũng viết: “Công-bằng mà nói, đối với tôi, lá cờ vàng ba sọc đỏ đă có một lúc nào đó kiêu-hùng phất-phới khi một số anh em Hải-Quân Việt-Nam Cộng-hoà báo-cáo quân bành-trướng Bắc-Kinh trên vùng đảo Hoàng-Sa năm 1974, để giữ một vùng lănh-thổ và hải-phận của Tổ-quốc, trong khi Thủ-Tướng Phạm-Văn-Đồng tuyên-bố cam-chịu sự bành-trướng nước lớn của Trung-Quốc ở vùng đảo này!”. Mây-mù Thế-kỷ - Bùi-Tín. Paris 1998. 434 Conway's All the World's Fighting Ships 1947-1982. Part II: The Warsaw Pact and Non-Aligned Nations. Naval Institute Press, 1983, trang 369. Editorial Director: Robert Gardiner. Nguyên-văn: "The South's Naval prowess was demonstrated in January 1974. A Chinese battalion-strong invasion of the Paracels Island, 225 miles east of Vietnam, cost the Communist superpower two warships sunk and two heavily damages for one Vietnamese Vessel (23 survivors rescued by a Dutch cargo ship). Ten days later the South's warships put troops onto the Spratley Islands, several hundred miles to the South, to prevent their seizure." 435 Xin mời xem thêm chi-tiết diễn-tiến cũng như thiệt-hại đôi bên trong các bài viết theo quan-niệm cá-nhân như: Trận chiến Hoàng-Sa (tr.241), Trận chiến lịch-sử Hoàng-Sa (tr.243), Tuần-Dương-Hạm HQ 16 và trận hải-chiến Hoàng-Sa (tr.263), Một vài uẩn khúc trong trận Hoàng-Sa (tr.279), Người về từ Hoàng-Sa (tr.285), Lần đào thoát ở Hoàng-Sa (tr.289), Hành-quân Trần-Hưng-Đạo 47 (tr.295), Điếu-văn tưởng-nhớ Chiến-Sĩ Hoàng-Sa (tr.317) của Tuyển-Tập Hải-Sử HQVNCH. 436 Khách-quan nhận-xét th́ không thể nào gán cho 4 chiến-hạm này việc mất Hoàng-Sa. Trách-nhiệm này ngoài khả-năng của họ và hoàn-toàn nằm trong tay các giới-chức cao-cấp hơn. 437 http://en.wikipedia.org/wiki/Battle_of_Hoang_Sa_1974. Không thể kể No. 281, No. 282 vào đây. 438 “Thế-giới lên án Trung-Cộng Xâm-Lăng Hoàng-Sa của Việt-Nam”. Tổng-Cục CTCT, Cục Tâm-Lư-Chiến ấn-hành 1974, trang 10. 439 Alta Vista (on-line translation): After 389 ships suffer more the ship heavy losses to hasten to ground successfully (armed force to rescreen from Qingdao navy museum). 389 Đĩnh tao việt hạm trọng sang hậu thưởng than thành công ( mỗ quân mê vơng hữu phiên phách tự thanh đảo hải quân bác vật quán ) 440 Alta Vista (on-line translation): 274 submarine chasers --- Xisha naval battle main force naval vessel, 274 return Asian Long Wanshi from Xisha. 274 Hiệu liệp tiềm đĩnh --- tây sa hải chiến đích chủ lực hạm đĩnh chi nhất đồ vi 274 đĩnh ṭng tây sa tuần hàng hồi đáo á loan thời đích t́nh cảnh. 441 Phần lớn chi-tiết tường-thuật việc cận-chiến giữa HQTC với HQ-4 và HQ-10 của HQVN khá rơ như khi nào đạn trúng đài chỉ-huy, quốc-kỳ rớt xuống, sân giữa cháy.... 442 http://www.china-hero.org/xisha.htm 西沙自卫反击战 (từ 10:22 đến 2:52 chiều). 443 Chính-yếu là công-lao của hai tàu vơ-trang Hải-Nam Ngư-Nghiệp 402 & 407 cùng nhân-viên các tàu TC khác. 444 HQVN gọi Kronstadt là Hộ-Tống-Hạm, T-43 là Trục-Lôi-Hạm: Trung-Cộng gọi là Liệp-Tiềm-Đĩnh (K) và Tảo-Lôi-Đĩnh (T). 445 Chiến-thuyền ferro-cement trang-bị máy 135 mă-lực. 446 Bản thành-tích này do Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Khối Hành-Quân tổng-kết và báo-cáo BTTM/QLVNCH. 447 Phỏng-Vấn Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng 5 Duyên-hải. Phan-Lạc-Tiếp thực-hiện, 1999 448 Bảng Tổng-kết chính-thức này được đăng trong Lướt-Sóng 1974. 449 Đặng-Cao-Thăng. Hoạt-động trong Sông của Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 450 Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân VNCH / Pḥng Tâm-Lư-Chiến. Lướt-Sóng, Số Đặc-biệt Phát-hành Ngày Hải-Quân 1974. 451 Nhiệm-kỳ Tư-Lệnh Hải-Quân của Đề-Đốc Lâm-Nguơn-Tánh rất ngắn, chỉ trong khoảng 4, 5 tháng. 452 James F. Dunnigan and Albert A. Nofi. Dirty Little Secrets of the Vietnam War. St. Martin's Press, New York, 1999. 453 The Final Collapse, Cao-Văn-Viên, Washington, D.C. 20402, USA, 1983: p. 163. 454 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994, trang 355. 455 Bộ Tư-lệnh Hải-Quân VNCH / Pḥng Tâm-Lư-Chiến. Lướt-Sóng, Số Đặc-biệt phát-hành năm 1974. 456 Tài-liệu Bộ Tư-lệnh Hải-Quân VNCH / Pḥng Tâm-Lư-Chiến. Báo Lướt-Sóng, Số Đặc-biệt phát-hành năm 1974. Chúng tôi hiểu là “Hoạt-Động Hành-Quân” thay v́ “Hoạt-Động An-Ninh”. 457 Đúng ra là HQ-4, Khu-Trục-Hạm Trần-Khánh-Dư. Chiến-hạm này tác-xạ thẳng vào tàu địch đầu tiên. 458 Peking Review, No.12. January 1974. 459 Chang Yung-Mei. Battle of the Hsisha Archipelago- Reportage in Verse. Peking. March 10, 1974. 460 Lời ghi-chú của tác-giả Trung-Cộng, phiên-âm theo Tự-điển Thiều-Chửu như sau: “...chiến tràng bắc phương, địch nhân đích tiến công dĩ cơ bổn ngơa giải, 396 tiếp hải chỉ mệnh lệnh, toàn tốc nam hạ, dữ 271 biên đội tập trung đả kích 4 hào (HQ-4), 5 phân chung cấp hỏa cận xạ hậu, 4 hào hạm cật bất tiêu liễu…” Quân-Ủy Trung-Ương dưới sự lănh-đạo chiến-lược của Mao-Trạch-Đông, chỉ-đạo trực-tiếp bởi Ủy-trưởng Thống-Chế Diệp-Kiếm-Anh, phụ-tá Đặng-Tiểu-B́nh ra lệnh phải dồn nỗ-lực đánh HQ-4 (t́nh-báo TC cho là Soái-hạm của lực-lượng VNCH). Các chiến hạm TC "Tuân hành chiến thuật và lời dạy của Mao Chủ Tịch “Dồn sức mạnh để tiêu diệt bộ phận đầu năo địch”HQ-4, các chiến hạm 271 và 274 tập trung hỏa lực vào KTH Trần Khánh Dư là soái hạm địch. C̣n 396 “tiếp hải chỉ mệnh lệnh, toàn tốc nam hạ” tăng-cường đánh HQ-4 là v́ vậy! 461 Theo báo Le Courrier du Vietnam, ngày nay c̣n có một bản Tổng-Kết Hải-Chiến Hoàng-Sa do BTL/HQ tŕnh BTTM/QLVNCH lưu-trữ tại Hà-Nội. 462 Công-báo Việt-Nam Cộng-Hoà. Các bản tin bưu-báo Bulletin của các Toà Đại-Sứ VNCH khắp thế-giới. 463 Hai tạp-chí này thuộc Tổng-Cục Chiến-Tranh Chính-Trị điều-hành, số phát-hành thường-xuyên 300,000 tờ phân-phối mọi cấp quân-nhân. 464 “Thế-giới lên án Trung-Cộng Xâm-Lăng Hoàng-Sa của Việt-Nam”. Tổng-Cục CTCT, Cục Tâm-Lư-Chiến ấn-hành 1974, trang 10. 465 Tuy Trung-Cộng cho biết là họ sửa-chữa lại các chiến-hạm, nhưng chúng ta có thể tin-tưởng hơn vào các chi-tiết cung-cấp bởi các niên-giám về Chiến-Hạm và Hạm-Đội Hải-Quân Thế-giới chính-xác và không có tính-chất tuyên-truyền. Jane’s Fighting Ships ,Conway's… ghi hoạt-động của HQ-4, HQ-15, HQ-16 tiếp-tục sau 1975, nhưng không bao giờ thấy một ḍng nào về K-271, K-274, T-389, T-396. Ngoài ra, ta có thể lục Danh-mục Truyền-Tin Quốc-Tế (call sign listings) nhưng không thế nào t́m ra danh-hiệu của chúng, tất cả biến mất sau 1974. 466 Cao-Xuân-Huy trong "Tháng Ba Găy Súng" đă mô-tả đoạn đường rút-lui của Thuỷ-Quân Lục-Chiến từ băi biển Thuận-An, Huế về Đèo Hải-Vân. 467 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994. 468 Military Sealift Command (MSC) là tên mới của Military Sea Transportation Service (MSTS). 469 Schreadley, R. L. From the Rivers to the Sea: The United States Navy in Vietnam. Annapolis: Naval Institute Press, 1992. 470 Phạm-Kim-Vinh. Cái Chết Của Việt-Nam Cộng-Hoà, Những Trận Đánh Cuối-cùng. Nhà Xuất-bản Xuân-Thu. California. 1988. Trang 309. 471 Tài-liệu phỏng-vấn tướng Ngô-Quang-Trưởng tại Hoa-Kỳ vào đầu thập niên 80. Lịch-sử Ngàn Người Viết (sách của Lê-Bá-Chư). 472 Ngô-Quang-Trưởng. Tại sao tôi bỏ Quân-Đoàn I. Báo Đoàn-Kết năm 1999. 473 Phạm-Kim-Vinh. Cái Chết Của Việt-Nam Cộng-Hoà, Những Trận Đánh Cuối-cùng. Nhà Xuất-bản Xuân-Thu. California. 1988. Trang 313-314. 474 Nguyễn-Khắc-Ngữ. Những Ngày Cuối-cùng Của Việt-Nam Cộng-Hoà. Nhóm Nghiên-Cứu Sử-Địa. Canada. 1979. 475 Đại-Tướng Pháp Vanuxem đă viết trong cuốn sách "La Mort Du Vietnam”: Đêm xuống... thay cho pháo-bông mừng chiến-thắng, người ta chỉ thấy được những vùng sáng rực của một vài kho đạn bị cho nổ đâu đó, và những tiếng nổ lớn trong các ngọn lửa đang bốc lên từ vài chiếc tàu chiến c̣n sót lại ở khu-vực Hải-Quân mà các thuỷ-thủ-đoàn không quên đốt bỏ trước khi phải hạ-súng đầu-hàng. 476 Hồi-ức của Cựu Hải-Quân Đại-Tá Phạm-Mạnh-Khuê (2001). 477 Bách-Khoa Tự-Điển Britanica ghi-nhận: Quân CSBV được Khối Cộng-Sản yểm-trợ tối-đa để xâm-lăng VNCH. Nguyên số-lượng chiến-xa khiển-dụng để tác-chiến ngoài chiến-trường có tới 700 chiếc, Trong khi đó, VNCH chỉ có 352 chiếc trải ra khắp lănh-thổ (mà số-lượng khiển-dụng lại chiếm tỷ-lệ rất thấp v́ không có nhiên-liệu, đạn-dược và việc tiếp-liệu bổ-xung cũng không có). Nguyên-văn: General Van Tien Dung's Great Spring Victory was supported by a total of 700 (maneuverable) Soviet tanks, i.e. Soviet armor, burning Soviet gas and firing Soviet ammunition. By comparison, the South Vietnamese had only 352 US supplied tanks and they were committed to guarding the entire country, and because of US Congressional action, were critically short of fuel, ammo and spare parts with which to support those tanks. 478 HQVN & Địa-Phương-Quân trên các đảo báo-cáo các tàu VC không số nhưng kéo cờ Trung-Cộng, tướng nào chỉ thị hành-động “bán nước v́ CS anh em” này. 479 “Tổng-hành-dinh trong mùa Xuân toàn-thắng” Nhà Xuất-bản Chính-trị quốc-gia. 2004. 480 Quân trú-pḥng Trường-Sa cũng v́ nhiệm-vụ bảo-vệ biển đảo cho Tổ-Quốc mà bị sát-hại! Khi đó, các chiến-hạm HQVN đă được lệnh Bộ Tư-Lệnh di-chuyển về duyên-hải VN. 481 Lịch-sử Xí-Nghiệp Liên-Hợp Ba-Son (1863-1998). Nhà Xuất-bản Quân-đội Nhân-dân, Hà-Nội, 1998. 482 Bài viết chiều 30 tháng 4 năm 2005 “Khúc quân-hành vang măi” Sương-Nguyệt-Minh. Báo QĐND Ngày 03 tháng 05 năm 2005. 483 http://www.camnet.com.kh/cambodia.daily/selected_features/cd-14-02-04.htm. The Cambodia Daily, WEEKEND Saturday, February 14-15, 2004. Defining Cambodia By Michelle Vachon. “No such approach suited the Khmer Rouge, who bombarded the Vietnamese island of Phu Quoc (Koh Trac in Khmer) and exterminated the 515 Vietnamese residents of Pulo Panjang (Tho Chu island) in May 1975”, said Raoul Marc Jennar in his 1997 doctorate thesis, "Contemporary Cambodian Borders." 484 Ngày thành-lập quân-chủng 50 năm (7-5-1955 - 7-5-2005), Chủ-tịch CHXHCVN Trần-Đức-Lương lưu-ư cán-bộ, chiến-sĩ quân-chủng Hải-Quân ND cần tiếp-tục nhận-thức sâu-sắc hơn nữa vị-trí chiến-lược của biển, đảo Việt-Nam …không để bên ngoài tạo nguyên-cớ can-thiệp, gây xung-đột vũ-trang trên các vùng biển, giữ vững môi-trường hoà-b́nh… (???!!!) 485 “Binh bất yếm-trá chăng?” Người Việt-Nam chân-chính không thể nào làm như vậy được. 486 Đây là soái-hạm của HQ/VNCH. Chiếc Khu-Trục-Hạm c̣n lại, DER Trần-Khánh-Dư HQ-4, chiến-hạm tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa, đang đại-kỳ. Máy-móc được tháo-gỡ để tân-trang, HQ-4 không di-tản được. 487 Nhận-xét về HQVNCH trong “La Mort Du Vietnam”, Đại-Tướng Pháp Vanuxem đă viết rằng: “Hải-Quân của Miền Nam nhận được khá nhiều tàu chiến tuy thuộc loại cũ nhưng cũng đủ để làm tṛn nhiệm-vụ tuần-duyên hoặc an-ninh trên sông-rạch. Vấn-đề tu-bổ các loại chiến-cụ nầy cũng là một bài toán cho QLVNCH. Các tướng-lănh Hoa-Kỳ có nhiệm-vụ trao chiến-cụ cho VNCH đă theo-dơi sát công-tác tu-bổ các loại chiến-cụ nói trên, đều không tiếc lời khen-ngợi về kỹ-thuật của các công-xưởng và các trung-tâm sửa-chữa, cũng như sự khéo tay của các quân-nhân trong đơn-vị... Người lính VNCH th́ ở đâu cũng hănh-diện trong bộ quân-phục chỉnh-tề, tươm-tất và duyên-dáng của ḿnh, giày luôn-luôn được đánh bóng. Các loại chiến-cụ nặng cũng thế thôi, từ chiếc xe thiết-giáp, xe vận-tải, khẩu pháo-binh đến chiếc tàu chiến của Hải-Quân hay chiến-đấu-cơ của Không-Quân... tất cả đều được săn-sóc và bảo-tŕ đúng mức, cho nên dù là quân-cụ thuộc loại cũ nhưng vào tay của QLVNCH th́ xem như c̣n mới nguyên, làm cho tất cả quan-khách viếng-thăm đều hết sức ngạc-nhiên và ca-tụng. ("Việt-Nam Cộng-Hoà bị bức-tử" Dịch-giả: Dương-Hiếu-Nghĩa. NXB Đại-Nam, Hoa-Kỳ, 1997). 488 Quân-số của quân-chủng Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà có khi đạt đến mức tối-đa hơn 58,000 người gồm 42,000 Hải-Quân và (nếu kể) 16,000 Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Thực-tế trên nhiều phương-diện, TQLC không thuộc sự điều-hành của HQ. 489 Cơ-quan chỉ-huy Hải-Quân trước hết đặt tại đường Trần-Hưng-Đạo, rồi di-chuyển đến trại Cửu-Long, Thị-Nghè; sau dời về bến Bạch-Đằng. Cơ-quan này được cải-tiến qua các giai-đoạn: Ban Hải-Quân (Section Marine) thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH. Pḥng Hải-Quân thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu QLVNCH, và sau cùng là Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân. 490 Không phải tất cả các SQ/HQ nào được cử vào chức-vụ Tư-Lệnh Hải-Quân cũng đều nhận-lănh trọng-nhiệm đó. Có ít nhất ba trường-hợp từ-chối như sau: HQ Đại-Tá Trần-Văn-Phấn thoạt đầu từ-chối rồi sau mới miễn-cưỡng nhậm-chức. Trường-hợp HQ Trung-Tá Nguyễn-Đức-Vân quyết-liệt hơn. V́ bất-tuân lệnh nhậm-chức Tư-Lệnh Hải-Quân, Ông bị phạt trọng-cấm. Trường-hợp nữa là Thiếu-Tướng Lê-Nguyên-Khang, đang nắm Tư-Lệnh Thuỷ-Quân Lục-Chiến cũng không nhận làm Tư-Lệnh Hải-Quân với lư-do Ông không xuất-thân Hải-Quân. 491 Cấp-bậc Phó-Đô-Đốc (3 sao) là cấp-bậc cao nhất mà một quân-nhân Hải-Quân đạt tới trong suốt lịch-sử Hải-Quân VNCH. 492 Phần biên-khảo về Tổ-chức Hải-Quân sau 1972 căn-cứ vào tài-liệu của Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà thuyết-tŕnh cho các Sĩ-quan Tùy-viên Quân-Sự trước khi đáo-nhậm nhiệm-sở tại các toà Đại-sứ Việt-Nam Cộng-Hoà tại ngoại-quốc là một bài nói về Tổ-chức và Hoạt-động của Hải-Quân Việt-Nam (HQ Trung-Tá Lê-Bá-Thông sưu-tầm). 493 CSVN gọi khu này là Rừng-Sác. Tài-liệu đối-phương ghi-nhận sự quan-trọng của Đặc-khu Rừng-Sác như sau: “Từ mùa mưa năm 1966, theo báo-cáo của các chiến-sĩ trinh-sát, hàng ngày có đến 30 tàu vận-tải 6 tấn đến 13 ngàn tấn ra vào sông Ḷng-Tàu… Từ năm 1962, một tổ-chức quân-sự của chúng được thành-lập gọi là "Biệt-Khu Rừng-Sác", với ư-nghĩa khu Rừng-Sác là yết-hầu của thủ-đô Sài-G̣n. Nếu Việt-cộng chủ-động và khống-chế được thuỷ-lộ quốc-tế Ḷng-Tàu của Đặc-khu Rừng-Sác, đương-nhiên tiềm-lực chiến-đấu của Việt-Nam Cộng-hoà trên ba b́nh-diện quân-sự, chính-trị, kinh-tế sẽ bị suy-sụp và chịu ảnh-hưởng trầm-trọng bởi huyết-lộ này.” 494 Nelson, Carl. The Advisor (Cố-Vấn). Turner Publishing Company, Kentucky. 1999. 495 Các hoạt-động Hải-Quân như trên được soạn-thảo năm 1956: Nếu một khi Hải-Quân được trang-bị đầy-đủ, huấn-luyện kỹ-lưỡng, Quân-chủng này có thể thi-hành các hoạt-động tấn-công tiêu-diệt địch theo các mục 5, 6, 7, và 8. Quan-niệm thế-công của Hải-Quân như vậy trong thời-điểm 1956 quả là một tham-vọng quá lớn-lao, ngoài khả-năng thực-hiện của Việt-Nam Cộng-Hoà nói chung và HQVNCH nói riêng. Xin xem một đoạn b́nh-luận chi-tiết hơn ở một đoạn phía trên. 496 Binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam, Bài viết của: Đại-Tá Phạm-văn-Chung, Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 497 Nguyên-bản ghi: Major Ngo The Linh (wearing the Red Beret standing in the middle) at the Graduation for Vietnamese Navy Seal in 1963
498 Khi Hoa-Kỳ rút-lui khỏi Việt-Nam, họ cũng rút đi công-tác không-thám bằng phi-cơ. 16 Đài Kiểm-Báo được thành-lập dọc duyên-hải để thay-thế việc phát-hiện các tàu địch xâm-nhập từ ngoài khơi. 499 Tài-liệu về guồng máy tiếp-vận Hải-Quân của Cựu Đại-Tá CK Nguyễn-Văn-Lịch. Bài Tiếp-Vận Hải-Quân Việt-Nam. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 500 Bùi-Hữu-Thư, bài "Huấn-luyện Hải-Quân" và nhiều bài viết khác trong báo “Lướt Sóng”. Một số bài Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 501 Những phần Tổ-Chức Đai Đơn-Vị và Đơn-Vị Hải-Quân dưới đây, cũng như một số tài-liệu khác ở trên là công-tŕnh nghiên-cứu của nhiều tác-giả và nhà văn Điệp-Mỹ-Linh, tác-phẩm Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975, Texas, 1990. 502 Nguyễn-Tấn-Đơn liệt-kê, cho một con số là 3121 Sinh-Viên. Tài-Liệu VNCH & Hải-Quân, Úc-Đại-Lợi, 2002. 503 Nguyễn-Tấn-Đơn. Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 504 Tạ-Chí Đại-Trường. Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam từ 1771 đến 1802, Văn-Sử-Học, Sài-G̣n, 1973, trang 235. 505 Sách hồi-kư: A Voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793, John Barrow - London, 1906. 506 Tài-liệu Hải-Quân Hoa-Kỳ: MSGS, CP 030625Z Dec. 1961: CPFLT 04508Z. 507 Trong cuốn sách nhỏ Shipyards in Viet Nam, The Vietnam Council on Foreign Relations. Saigon, Republic of Vietnam, Saigon, 1970, Tiến-sĩ Bùi-Tiến-Rũng đề-cập đến các hoạt-động đóng tàu-thuyền tại Việt-Nam cuối thập-niên 1960. 508 Tài-liệu trích từ bài Tiếp-Vận Hải-Quân Việt-Nam, Đại-Tá CK Nguyễn-Văn-Lịch, vị Chỉ-Huy-Trưởng cuối-cùng (1972-1975) 509 Marolda, Edward J. By Sea, Air, and Land, An Illustrated History of the U.S. Navy and the War in Southeast Asia. Naval Historical Center, Washington, 1994.- Trang 224. 510 Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-nhiệm là giới-chức cao-cấp nhất trong tổ-chức đặc-nhiệm hành-quân. Tài-liệu Điệp-Mỹ-Linh: Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà Ra Khơi 1975. Texas, 1990. 511 Xin xem thêm phần Sử-liệu của Phó-Đề-Đốc Đinh-Mạnh-Hùng "Hành-quân Giang-Lực sau năm 1965" và một số tài-liệu khác. Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 512 Phần Tổ-Chức LL Tuần-thám được Cựu Tham-Mưu-Trưởng Lực-Lượng là Ông Vũ-Quốc-Công cung-cấp. (tài-liệu này có thể t́m thấy trên các mạng-lưới điện-toán bàn về hoạt-động Tuần-Thám HQ/VNCH). 513 Lực-Lượng Tuần-Giang Hoa-Kỳ (Riverine Patrol Force) trách-nhiệm trang-bị, và Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 116 (Task Force 116) huấn-luyện thực-tập hai Giang-đoàn này. 514 CCHQ/ B́nh-Thuỷ được chuyển-giao cho Lực-Lượng Thuỷ Bộ vào tháng 10/1972. 515 Lê-Quán. Lịch-sử Người-Nhái Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà. Trong Đặc-San Ra Khơi số 2, Húy-Nhật Hưng-Đạo Đại-Vương, thực-hiện bởi Ban Hải-Sử, Tổng-Hội Hải-Quân và Hàng-Hải Việt-Nam Cộng-Hoà. Virginia, Hoa-Kỳ, tháng 9/1993, trang 32-35. 516 Tài-liệu phổ-biến của Liên-Đoàn Người-Nhái. Trang lưới điện-toán: http://www.ldnn.org/ 517 Trần Trung Nghĩa (TTK Tổng-Hội HQHH/VNCH). Gặp-gỡ Niên-trưởng Nguyễn-văn-Kinh ngày 28/7/1998. Tài-liệu Tổng-Hội. 518 Tài-liệu cựu HQ Đại-Tá Nguyễn-Vân (E-mail ngày 15-6-2000). 519 HQ-225, HQ-226, HQ-227 đă bị ch́m và bị phế-thải. 520 Tài-liệu của Cựu HQ Thiếu-Tá Nguyễn-Tấn-Đơn, Cựu Hạm-Trưởng Thực-Vận-Hạm HQ-490. 521 Yểm-Trợ-Hạm cũng thường được gọi một cách nhầm-lẫn là Cơ-Xưởng-Hạm. 522 Toàn-thể đoạn Sở Pḥng Vệ Duyên-Hải là công-tŕnh sưu-tầm của Trần-Đỗ-Cẩm. Những bài viết khác của Ông Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 523 Thêm nhiều chi-tiết về tổ-chức Thuỷ-Quân Lục-Chiến được ghi trong cuốn Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 524 Xem bảng cấp-số Sư-Đoàn TQLC/VN, 1972. Tài-liệu của Melson, Charles D. and Arnold, Curtis G. U.S. Marines in Vietnam, The War That Would not End 1971-1973. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C., 1991, trang 294 (Appendix K). 525 Thiếu-Tá Lê-Quang-Trọng là Chỉ-Huy-Trưởng TQLC đầu-tiên. Đại-Úy Bùi-Phó-Chí là người Việt đầu-tiên nhận quyền chỉ-huy một Tiểu-Đoàn tác-chiến TQLC. 526 Xem Phu-bản 1 “Tên các Viên-Chức Dân-Sự và Quân-Sự Việt-Nam liên-hệ đến Hoạt-động của HQVNCH” phần cuối sách. 527 Xem bảng cấp-số Sư-Đoàn TQLC/VN, 1972. Tài-liệu của Melson, Charles D. and Arnold, Curtis G. U.S. Marines in Vietnam, The War That Would not End 1971-1973. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C., 1991, trang 294 (Appendix K). 528 Binh-chủng Thuỷ-Quân Lục-Chiến Việt-Nam, Bài viết của: Đại-Tá Phạm-văn-Chung, Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 529 Tiểu-Đoàn 4 Thuỷ-Quân Lục-Chiến. Bài viết của: Thiếu-Tá Đặng-văn-Học. Sách Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến, 1997. 530 Sau trận đánh An-Quư, Bồng-Sơn tháng 2-1965, Trung-Tá Lê-Hằng-Minh đề-nghị và được hợp-thức-hoá danh-hiệu Trâu-Điên cho Tiểu-Đoàn 2. Kể từ sau đó, các đơn-vị TQLC khác mới noi theo để đặt danh-hiệu cho đơn-vị ḿnh. 531 Mời Quư-vị xem thêm chi-tiết về những thành-quả phi-thường của TQLC/VN qua cuốn sách của Melson, Charles D. and Arnold, Curtis G. “U.S. Marines in Vietnam, The War That Would not End 1971-1973”. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marines Corps, Washington D.C., 1991. 532 Tài-liệu trong “Chiến-Sử Thuỷ-Quân Lục-Chiến”, 1997. 533 Tài-liệu của Cựu Đại-Tá TQLC Cổ-Tấn Tinh-Châu (không xuất-bản). 534 Bài Phỏng-Vấn của Phan-Lạc Tiếp. 535 Phó-Đề-Đốc Đặng-Cao-Thăng, Bài Soạn-thảo Hải-Sử. 536 Quân-số HQVNCH không thua kém Hải-Quân Pháp bao nhiêu, Nếu kể cả TQLC, Hải-Quân chúng ta cũng xấp-xỉ một quân-số 60,000 người đứng dưới quân-kỳ. 537 Hầu-hết quân-nhân Hải-Quân c̣n rất trẻ, ước-lượng trên 90% dưới 35 tuổi (vào năm 1975). Họ rất lư-tưởng, chưa mấy bị “nhuộm đen” v́ những thói xấu cuộc đời. 538 Ư-kiến tác-giả Trần-Nguyên-Sơn: “T́nh-trạng "thủ-khẩu như b́nh;" của họ là biểu-tượng của ông b́nh-vôi trước mọi diễn-biến thời-cuộc. Họ chuộng huyền-thoại hơn là thực-chất. Gần như đứng bên lề của cuộc tranh-đấu sống c̣n của dân-tộc, của lư-tưởng tự-do dân-chủ đă được đề ra trong suốt cuộc đấu-tranh của dân-tộc từ 1954-1975. Bài viết "Từ Được Ăn Được Nói Được Gói Đem Về Đến Gọng-Ḱm Lịch-sử"... www.daichung.com/82/01_thu_toa_soan.shtm. 539 Tài-liệu nguyên-bản này sưu-tầm này trên Internet chỉ nên dùng tham-khảo. Có một số chi-tiết không chính-xác, như phần cấp-bậc các Đô-Đốc. 540 Từ giữa năm 1952, với con số 350 thanh-niên Việt-Nam được Hải-Quân VN tuyển-mộ, cho đến đầu năm 1975; tổng-số Quân-chủng Hải-Quân (gồm cả quân-số TQLC) lên tới gần 60,000 người, gồm 43,000 Hải-Quân và trên 16,000 TQLC). 541 Tài-liệu này không có văn-kiện tham-chiếu chính-thức. Đây chỉ là sự góp nhặt của cá-nhân tác-giả qua những tài-liệu không ghi rơ xuất-xứ. 542 Tài-liệu nguyên-bản này sưu-tầm này trên Internet chỉ nên dùng tham-khảo. Tuy đề là “Phù-hiệu Quân-Đội Việt-Nam…” nhưng tất-cả chỉ-dẫn toàn bằng Pháp-ngữ. Tài-liệu thiếu cấp-bậc HSQ Hải-Quân cũng như những chi-tiết liên-hệ đến các cấp SQ thuộc quân-chủng này. 543 Nỗi bi-quan của Quốc- trưởng Bảo-Đại có hơi quá đáng, v́ trường-hợp này chưa bao giờ xảy ra. 544 Sau lời nói của QT Bảo-Đại không bao lâu sau, vào năm 1955, bộ Tư-Lệnh Pháp phải giải-tán, Quân-đội Pháp rút hết về nước và toàn-thể Quân-đội Quốc-Gia do chính người Việt-Nam ch́-huy. 545 Hầu-hết tên Sinh-Viên Sĩ-Quan HQVN ghi theo “Danh Bạ Sĩ-Quan HQVNCH” trong cuốn sách “Tài-Liệu VNCH & Hải-Quân” của Cố HQ Thiếu-Tá Nguyễn-Tấn-Đơn (Khoá 11 Đệ-Nhất Bảo-B́nh). Xuất-bản tại Úc-Đại-Lợi, 2002. 546 Trần-Trọng-Kim, Việt-Nam Sử-Lược, Quyển 1, Bộ Giáo-Dục, Trung-tâm Học-liệu, Sài-G̣n 1971, trang vii. 547 Donald Worster viết trong cuốn sách Rivers Empire, xuất-bản năm 1985, nguyên-văn như sau: "To write history without putting any water in it is to leave out a large part of the story. Human experience has not been so dry as that." 548 Quân-Lực Việt-Nam dưới các Triều-đại Phong-kiến (Từ Thượng-cổ đến Cận-kim) quyển I, (QLVN, Q.1) Phạm-Văn-Sơn, Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH, 1968, trang 51. 549 Trong bài "Đi t́m Dấu Vết Hùng-Vương", sách "Hương-Trà", (Sài-G̣n, 1968, trang 99) Ông Đỗ-Trọng-Huề viết: Những thần-thoại được ghi chép đầu-tiên trong hai cuốn dă-sử soạn trong thế-kỷ XIV: Việt-điện U-linh tập của Lư-Tế-Xuyên và Lĩnh-Nam Chích-quái của Trần-thế-Pháp. 550 Về tên hiệu Qua-Thuyền Tướng-quân, Trương-An chú-giải Sử-Kư viết: "Người Việt thường lặn dưới nước để lật úp thuyền, lại thường có thuồng-luồng làm hại cho nên phải cắm qua ở dưới thuyền, nhân đó mà đặt tên" (qua là một loại vũ-khí) 551 Việt-sử Toàn-thư, Phạm-Văn-Sơn, Sài-g̣n 1960, các trang 23, 28. 552 The Art of Indochina, Bernard Philippe Groslier, translated by George Lawrence, Crown Publishers, Inc., New York, 1962, trang 21. 553 Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam, University of California Press, 1983, các trang 6-7. 554 Sopher, David E., The Sea Nomads: A Study Based on the Literature of the Maritime Boat People of Southeast Asia, Printed by Lim Bian Han, Government Printer: Singapore, 1965. 555 New World perpectives on pre-European voyaging in the Pacific, sưu-tập Early Chinese Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol. 3, edited by Noel Bernard, New York, 1969. 556 William Meacham, "Origins and Development of the Yüeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia", viết tắt Origins and Development of the Yüeh, sưu-tập "The Origins of Chinese Civilization", edited by David N. Keightley, London 1983: 147-175. 557 The Art of Indochina, Bernard Philippe Groslier, translated by George Lawrence, Crown Publishers, inc., New York, 1962, trang 39. 558 Wilhelm G. Solheim II, "New Light on a Forgotten Past", National Geographic, Vol.139, No.3, March 1971. 559 Wilhelm G. Solheim II, "World Ethnographic Sample... A Possible Historical Explanation", American Anthropologist 70, 1968: 569. 560 “Loài Người Di-dân Đường-Biển” là lư-thuyết rất mới nhưng rất thuyết-phục. Những con người đầu-tiên khám-phá ra môi-trường thuận-hảo cho sự sinh-tồn là bờ-biển. Hải-sản là thực-phẩm dễ t́m kiếm, nhiệt-độ điều-hoà, ít phải tranh-đấu với thú-dữ… 561 Về đường biển cổ-thời từ Đông-Nam-Á sang Úc-Châu, ta có các tài-liệu sau: (a) Tài-liệu "Migrations from Southeast Asia to Australia": - A. G. Thorne, "Mungo and Kow Swamp: Morphological Variation in Pleistocene Australians," Mankind, 8:2 (1971), 85 - 89; R. L. Kirk and A. G. Thorne eds., The Origins of the Australians, Canberra, Australian Institute of Aboriginal Studies, 1976; Alan Thorne and Robert Raymond, Man on the Rim: Peopling of the Pacific, Sydney, Angus and Robertson, 1989. (b) Tài-liệu "Genetics study linking southeast Asians and Australians": - Joanna Mountain et al., "Evolution of modern humans: evidence from nuclear DNA polymorphisms," in Philosophical Transactions of the Royal Society of London, 337(1992), 159-65. Evidence of early man in northern Australia: R. G. Roberts et al., "Thermoluminescence dating of a 50,000-year-old human occupation site in northern Australia," Nature, 345(1990), 153-56. 562 Bài viết “Migration History of Humans: DNA Study Traces Human Origins Across the Continents Tạp-chí Scientific American., July 2008. 563 Keith Buchanan, The Southeast Asian World, New York, 1967, trang 45 564 Sumet Jumsai, Naga: Cultural Origins in Siam and the West Pacific, Singapore, Oxford University Press, 1988, trang4.) Vùng châu-thổ Sông-Hồng, Sông Mă có lẽ đă hội-tụ nhiều yếu-tố thuận-tiện nhất cho sự phát-triển ở Đông-Nam-Á, ngay từ những ngày xa-xưa đó. 565 Peter Bellwood, Man's Conquest of the Pacific, The Prehistoric of Southeast Asia and Oceania, Oxford University Press, 1979. 566 Cây lúa là một thứ thân thảo thật đặc-biệt thích-hợp với ruộng nước. (Rice is a unique grass species that is able to survive such flooded conditions. Rice leaves and stems have an internal air space, like a series of small tunnels, through which air is collected and passed down to the root cells. http://www.riceromp.com). 567 Chester Norman, The Hoabinhian and After: Subsistence Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods, World Archaeology 2, No. 3, 1971: 300-320. 568 Sumet Jumsai. Naga: Cultural Origins in Siam and the West Pacific. Singapore, Oxford University Press, 1988. 569 William Meacham, "Origins and Development of the Yüeh Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia", sưu-tập "The Origins of Chinese Civilization", edited by David N. Keightley, London 1983: 147-175. Nguyên-văn của Meacham như sau: Through the Yüeh of the Han-era may have acquire on occasion some of the trappings of Chinese civilization, most of the Yüeh people should not considered Chinese.. 570 Fairbridge, R., The Changing Level of the Sea, Scientific American, 1960, No. 202, 6:70-79. 571 Funk & Wagnalls New Encyclopedia, Vol.23, New York, 1992, từ-mục: Transportation. 572 Connaissance du Việt-Nam, Pierre Huard và Maurice Durand, Hanoi 1954, trang 232. Sự hiểu-biết của hai học-giả này về Việt-Nam rất rộng-răi, đặc-biệt về hàng-hải đă làm cho chính người Việt-Nam giựt ḿnh.. 573 Carl Sauer, Environment and Culture During the Last Deglaciation, trong Proceedings of the American Philosophical Society Vol. 92, 1948, pp. 65-77 574 William J. Duiker, trong "Historical Dictionary of Vietnam, Asian Historical Dictionaries, No. 1", The Scarecrow Press, Inc. Metuchen, N.J. & London 1989; cho rằng trong thời nước Âu Lac, dân miền Núi-Non và Đồng-Bằng hợp-nhất. 575 Donald G. McCloud, Southeast Asia, Tradition and Modernity in the Contemporary World, Westview Press, Boulder, 1995, trang 11. 576 "Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries," (edited by David G. Marr and A. C. Milner), Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, phát-hành năm 1986. 577 Needham, Joseph, Wang Ling and Lu Gwei-Djen cho dẫn-chứng một đoạn như sau:"... Merchant-ships (ku chhuan7) of the barbarians (may) transport them (part of the way) home again. But (these barbarians) also, to get more profit (sometimes) rob people and kill them. Moreover (the travellers) may encounter storms and so drown. Even if nothing (of this kind happens, they are) away for several years". Sách "Science and Civilisation in China, vol. 4: Physics and Physical Technology, part III: Civil Engineering and Nautics"; Cambridge University Press: Cambridge, 1971, trang 443. 578 "Lords of the Rim: The Invisible Empire of the Overseas Chinese" by Sterling Seagrave (Putnam, New York 1995). Về thương-mại và hàng-hải Việt-Nam, c̣n có các tài-liệu sau: (a) John K. Whitmore "Elephants Can Actually Swim", Contemporary Chinese Views of Late Ly Dai-Viet pp. 117-138. (b) Keith Taylor "Authority and Legitimacy in 11th Century Vietnam" pp.139-176. (c) E.S. Ungar "From Myth to History, Imagined Polities in 14th Century Vietnam", pp.177-185. (d) Tran Quoc Vuong "Traditions, Acculturation, Renovation: The Evolutional Pattern of Vietnamese Culture", pp. 271-278. 579 Nguyễn-Văn-Tuấn. Nhân đọc “Eden In The East: Đặt Lại Vấn-đề Nguồn-Gốc Dân-tộc và Văn-Minh Việt-Nam. http://www.ivce.org/magazine/ns9/ns8.html 580 Bản-đồ trong cuốn sách China's March Towards the Tropics, Harold J. Wiens, Conn, 1954. 581 Col. Victor Croizat, USMC, The Brown Water Navy - The River and Coastal War in Indo-China and Vietnam, 1948-1972, Blanford Press, 1984, Quan-niệm của Đại-tá Croizat về tiến-tŕnh "Hải-quân đi từ Thuỷ-Quân Nước Nâu" rất đúng cho Hải-Quân các nước Tây-phương. 582 Trần-Quốc-Vượng, Trong Cơi - Những ư-kiến về lịch-sử, truyền-thống và hiện-trạng dân-tộc của một sử-gia trong nước, Garden Grove, CA, 1993, trang 57-58. 583 Văn-Tân. Vai-tṛ của Thuỷ-quân Việt-Nam trong lịch-sử dân-tộc (Từ Thời-đại Hùng-Vương đến Thế-kỷ XIX), trong "Nghiên-cứu Sử-học số 5". Hà-Nội, tháng 9, 1977. Trang 70. 584 Paul Shao viết nguyên-văn như sau: "It is my belief that while the cultural motifs diffused to Mesoamerica were primarily Chinese in character, the cultural transmitter was mostly non-Chinese". (Paul Shao, Chinese Influences in Pre-Classic Mesoamerica Art, sưu-tập Diffusion and Migration: Their Roles in Cultural Development, edited by P. G. Duke, trang 202-205, University of Calgary, Canada, 1983). 585 Sách "Trống Đông-Sơn" (Phạm-Minh-Huyền, Nguyễn-Văn-Huyên, Trịnh-Sinh; Viện Khảo-Cổ-Học, Hà-Nội, 1987, trang 15 ghi: Những sử-liệu này tuy c̣n ít-ỏi nhưng đă tập-trung phản-ánh một sự thật về vai-tṛ của trống đồng trong lịch-sử dân-tộc ta. Trống đồng được sử-dụng làm đồ thờ, được thần-hoá, biểu diễn tính-chất thiêng-liêng trong sinh-hoạt văn-hoá tinh-thần của người Việt. Thần trống đồng được viện-dẫn ra để bảo-vệ các vương-triều phong-kiến, nó gián-tiếp dự-phần đấu-tranh chống xâm-lược của nhân-dân ta. Trống đồng là một vật thiêng phản-ánh truyền-thống dân-tộc c̣n lưu lại nhiều qua các sử-liệu không thành văn hay sử-liệu dân-tộc-học. 586 A History of South East Asia, Fourth Edition, London 1981: 8. 587 Peter Bellwood, Man's Conquest of the Pacific, The Prehistoric of Southeast Asia and Oceania, Oxford University Press, 1979, trang 266. 588 The Birth of Vietnam, Keith Weller Taylor, University of California Press, Berkeley, 1983, trang 313 589 Đền Đồng Cổ: trong núi Đông Cổ (Đan Nê). Đền xưa có trống đồng. Lư-Thánh-Tông rước thần về thờ ở Thăng-Long làm Thần-Tổ cả nước, hàng năm các đại-thần đến làm lễ thề: "tận-trung với vua, tận-hiếu với dân, ai ăn-ở hai ḷng sẽ bị Thần đánh chết". Đền đă được xếp hạng di-tích lịch-sử. 590 LĨNH-NAM CHÍCH-QUÁI (có thể là Trích-Quái) chép những truyện thiêng tộc Việt. Trong bài số 20 TRUYỆN THẦN NÚI ĐỒNG-CỔ chép: Thần núi Đồng-Cổ vốn là linh-thần thượng-đẳng ở nước ta. Núi ở xă Tŕ-Nê thượng, huyện Yên-Định (1). Khi Lư-Thái-Tông c̣n là Thái-tử đi đánh Chiêm-Thành tới Trường-Châu, đêm quá canh ba mộng thấy một dị-nhân mặc giáp-phục, tự-xưng là thần nghe vua Nam-chinh xin theo quân vua lập chiến-công. Vua nhớ rơ những lời nói chuyện trong mộng. Kíp khi thắng-trận trở về lập đền tôn-thờ, tới Kinh-sư lại bói đất lập đền. Thần thác-mộng xin ở mé hữu trong thành, gần chùa Thánh-chủ. Khi Thái-Tổ băng hà, ba Vương làm phản. Trước hôm đó, thần lại thác-mộng cho Thái-Tông bảo phải đề-pḥng. Mộng quả nghiệm. Vua bèn ra chiếu phong vương-tước, dựng miếu-thờ, lập làm Thiên-hạ Minh-chủ. Thời Trần, được phong làm Minh-linh Cảm-ứng Bảo-hựu Đại-vương (đền ở mé trái Kinh, gần chùa Từ-An). 591 http://www.hanoimoi.com.vn/vn/18/43908/ ngày 14/04/2005 16:12 592 Văn-Tân. Vai-tṛ của Thuỷ-Quân Việt-Nam trong Lịch-sử dân-tộc. Nghiên-cứu Sử-học số 5, tháng 9/ 1977, trang 62-70. 593 Trần-Quốc-Vượng. Trong Cơi, Những Ư-kiến về Lịch-sử, Truyền-thống và Hiện trạng Dân-tộc của một Sử-gia trong nước. Hoa-Kỳ, 1993. Trang 76-102. 594 Bài "A Description of the Kingdom of Tonqeen", trong cuốn sách "A Collection of Voyages and Travels", ed. A. and W. Churchill, London, 1703-32, IV. 3. Abbe Richard, "Histoire naturelle, civile et politique du Tonquin", Paris, 1778, 1. 28. 595 The Cambridge History of Southeast Asia", Vol. 1- From Early times to C 1800-, edited by Nicolas Tarling, Cambridge University Press, 1992: 472-473. 596 Cửa sông Đáy lúc đó chưa lan ra biển như bây giờ, bờ Biển-Đông rất gần kinh-đô. 597 Người Việt cổ tổ-chức các cuộc đua tài mà một trong những biểu hiện của nó là những chiếc thuyền đua trên tang trống đồng. Những người chèo thuyền vui khoẻ sau những ngày lao động vất-vả. Những cuộc đua thuyền này vừa là sự chuẩn-bị cho lao động, vừa là chuẩn-bị cho chiến-đấu giữ nước, giữ làng. Ư thức về dân-tộc, về hồn nước đă h́nh-thành. 598 Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư -Ngoại kỷ IV-16b, Nhà Tiền Lư (năm 546), Vua lại đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển-Triệt, đóng nhiều thuyền đậu chật cả mặt hồ… 599 Nguyễn-Việt, Vũ-Minh-Giang Nguyễn-Mạnh-Hùng "Quân Thuỷ trong Lịch-Sử Chống Ngoại-xâm, Hà-Nội, 1983, trang 21-22. 600 Chuyện Thuỷ-Hử của Thi-Nại-Am đă được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếc rằng Việt-Nam không có truyện nào về thuỷ-công tương-tự. 601 Côn-Lôn: thư-tịch Trung-Quốc từ thế-kỷ IV, nhất là từ thời Đường, thường dùng tên Côn-Lôn để chỉ một số cư-dân trong vùng Nam-Hải, tức vùng Đông-Nam-Á ngày nay. Tuệ-Lâm trong Nhất-Thiết Kinh Âm-Nghĩa (q.61), soạn năm 817, nói rằng "Côn-Lôn.... cũng gọi là Cốt-Luân, là người Di ở các đảo châu Nam-Hải, rất đen... chủng-loại có nhiều". Cựu Đường-Thư, Nam-Man truyện cùng chép: "Từ Lâm-Ấp trở về phía Nam, đều tóc quăn, da đen, gọi chung là Côn-Lôn". Như vậy Côn-Lôn là một sự phiếm-chỉ dân Đông-Nam-Á, khó có thể xác-định đó là cư-dân một nơi nào hiện nay. 602 Chà-Bà: phiên âm tên đảo Java. 603 Theo Nguyên-Hoà Quận-Huyện-Chí (q.38), năm này (767) Trương-Bá-Nghi cho đắp La-Thành ở vị-trí mới, cách sông Tô-Lịch khoảng 200 thước. 604 Hoa-Lư nằm trên khu-vực được gọi là "Hạ-Long trên cạn". Gần nửa năm, nước bao-phủ đồng ruộng. Thôn xóm, núi non nổi lên như những hải-đảo ngoài khơi. Phương-tiện di-chuyển độc nhất là thuyền. Khoảng 40 năm nay, v́ sự xây-cất những con đê ngăn nước, phong-cảnh đă đổi thay. 605 Connaissance du VietNam, Pierre Huard et Maurice Durand, École Française d'Extrême-Orient, Hanoi, 1954. 606 Nguyễn-Huyền-Anh, Việt-Nam Danh-Nhân Từ-Điển, Zieleks Co., Texas, 1981, trang 483. 607 Truyện kể rằng: Khi Rồng cơng Vua Con Đinh-Bộ-Lĩnh qua sông, cả bầu trời Hoa-Lư rực lên màu đỏ và vàng, con sông thành tên Hoàng-Long từ đó. Rồng Bay Thăng-Long, Rồng Vàng Trường-Yên là những sự-kiện lớn trong các triều vua Đinh, Lê, để rồi trở-thành những dấu ấn “Rồng thiêng Sông dài Biển rộng” trong tâm-linh mỗi con dân Đại-Việt. 608 www.vovinam-via.org/hoalu11.htm. 609 Năm 982, quân nhà Tiền-Lê san thành Đồng-Dương thành b́nh-địa, và thiêu-huỷ tông-miếu hoàng-gia Chiêm-Thành. Vua Lê-Đại-Hành chia quân đóng giữ các nơi xung-yếu của Chiêm-Thành đến tận Vijaya (B́nh-Định)... Nhà Vua ở lại trên đất Chiêm một năm mới hạ-chiếu ban-sư. 610 Sử-gia Hồ-Văn-Châm viết trong bài “Chuyện Một Người Việt Làm Vua Chiêm-Thành” (Tháng 5 năm 2001): Tiếp đến các triều Lư Trần, sự-nghiệp b́nh Chiêm không có ǵ vượt-trội hơn. 611 Hầu-hết những Sử-gia kim-thời đồng ư là có tới 3 đại-thắng Bạch-Đắng: Lần 1 với Ngô-Quyền, lần 2 với Lê-Hoàn, lần 3 với Trần-Hưng-Đạo. 612 Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư - Bản kỷ Toàn-Thư Quyển I (Kỷ Nhà Đinh-Tiên Hoàng-Đế) chép: Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở-trách bọn Lưu-Trừng, Giả-Thực, Vương-Soạn. Trừng ốm chết, Soạn bị giết ở Ung-Châu, Tôn-Hoàng-Hưng cũng bị giết bêu ở chợ. 613 Khâm-định Việt-sử, quyển 1, tờ 20a. Dẫn lại của Phạm-Văn-Sơn trong Việt-Sử Toàn-Thư, trang 170, Saig̣n, 1960. 614 Toàn-Thư, tập 1, trang 169. 615 V́ thuỷ-tŕnh như vậy, Tống-Cảo cho rằng đất nước Đại-Cồ-Việt quá rộng-lớn bao-la. 616 Một số Sử-gia bàn rằng : "Nhà Lư thuở đó đă thấy thế nước vững nên có chủ-trương bành-trướng cương-thổ về phương Bắc và phương Nam". Xem Phạm-Văn-Sơn, Quân-lực Việt-Nam chống Bắc-Xâm và Nam-Tiến, Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH, 1970, trang 48. 617 Professor Lê-Đ́nh-Thông, các bài "La Marine vietnamienne avant l'Arrivée des Français", (trong sách "Marin et Océan III", Paris 1992; các trang 53-71.) và bài "Stratégie et Science du Combat sur l'Eau au Vietnam avant l'Arrivée des Français", (trong sách "L'évolution de la Pensée Navale II", Paris, 1992; các trang 2111-229). 618 Hằng năm, từ ngày 9 đến ngày 15 tháng 7 âm lịch, làng Đào Xá, huyện Tam Thanh, Phú-Thọ có tục bơi-chải. Theo bảng thần-phả th́ vào năm 1076, Lư-Thường-Kiệt, trên đường đi kinh-lư các nơi xem-xét địa-thế để bố-trí lực-lượng xây-dựng phương-án đánh địch, đă gặp thần-nhân ở đây. Giặc tan, Lư-Thường-Kiệt về kinh-đô tâu vua, xin phong Hùng-Hải-Công và tam vị Đại-Vương làm Thượng-đẳng Phúc-thần. 619 Người đời sau kể rằng: “dân Tống thấy lời tuyên-cáo của « Lộ-Bố-Văn » này, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Lư-Thường-Kiệt dàn ra, th́ nói đó là quân của cha họ Lư người nước Nam; rồi cùng nhau bày hương án bái-phục bên đường. Nhờ đó mà uy-danh quân ta vang khắp. Bởi vậy, cuộc tiến-công vào nội-địa Tống càng thêm dễ-dàng”. 620 Việt-Sử Xứ Đàng-Trong 1558-1777, Sài-G̣n, 1967, trang 35. 621 Sách "The Cambridge History of Southeast Asia", Vol. 1- From Early times to C 1800-, edited by Nicholas Tarling, Cambridge University Press, 1992, trang 130. 622 Văn-Tân. Vai-tṛ của Thuỷ-quân Việt-Nam trong lịch-sử dân-tộc (Từ Thời-đại Hùng-Vương đến Thế-kỷ XIX), trong "Nghiên-cứu Sử-học số 5". Hà-Nội, tháng 9, 1977. 623 China's March Towards the Tropics, Harold J. Wiens, Conn, 1954. 624 Cuốn tiểu-thuyết lịch-sử "Hoàng-thúc Lư-Long-Tường" tác-giả Khương-Vũ-Hạc, dịch-giả Trần-Văn-Thêm, (Hà-Nội 1996, trang 10.) viết hơi khác về chuyến đi tị-nạn sang Đại-Hàn, đặc-biệt về chức-vị triều-chính của vị Hoàng-thân này. Ông Hoàng Lư-Long-Tường không nắm quyền thuỷ-quân. Khi đào-thoát bằng thuyền buôn, ông không có vợ con, chỉ mang theo 21 người tùy-tùng. 625 Tạ-Chi Đại-Trường, Những Bài Dă-sử Việt, California, 1996. 626 Cl. Madrolle, Le Tonkin Ancien, B.E.F.E.O. XXXVII. 627 Quân-lực Việt-Nam dưới các Triều-đại Phong-kiến (Từ Thượng-cổ đến Cận-kim) quyển I, (QLVN, Q.1) Phạm-Văn-Sơn, Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH, 1968, trang 63. 628 QLVN, Q.1, trang 64. 629 QLVN, Q.1. trang 69. 630 Chó ngắn mơm th́ gọi là Yết-Kiêu, voi rừng th́ gọi là Dă-Tượng. Lấy tên thú đặt cho gia-nô, không bàn cũng đủ biết thân-phận gia-nô thấp-hèn như thế nào. Song tận-trung v́ đại-nghĩa cứu nước, ai dám bảo Yết-Kiêu và Dă-Tượng không thể sánh ngang-hàng với các bậc hào-kiệt khác. Đúng như Hưng-Đạo-Vương Trần-Quốc-Tuấn nói, sở-dĩ có được các bậc anh-hùng cái-thế như chính Trần-Quốc-Tuấn, tất trước phải có sự trợ-thủ đắc-lực của những người như Dă-Tượng, Yết-Kiêu. (Theo “Việt-sử giai-thoại” của Nguyễn-Khắc-Thuần – NXB Giáo-Dục). 631 Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư - Bản kỷ Toàn-Thư VII- (Nhà Trần 1330-1377). 632 Quân-Lực Việt-Nam dưới các Triều-đại Phong-kiến (Từ Thượng-cổ đến Cận-kim) quyển I, Phạm-Văn-Sơn, Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH, 1968, trang 69). 633 Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư - Bản kỷ IX-2a (Nhà Hồ) ghi diễn-tiến trận thuỷ-chiến mà Nhà Hồ bị đại-bại như sau: Người Minh chia hai mặt thuỷ bộ xông ra. Quân hai bên bờ sông của họ Hồ quay ngược giáo nhảy xuống chết, chỉ có thuỷ-quân thoát được. Nhưng các thuyển chiến và thuyền chở lương đều bị ch́m, không một người nào sống-sót về được. 634 Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư -Bản kỷ IX-4a: Người Minh thống-kê những thứ đă thu được: 48 phủ, châu, 168 huyện, 3,129,500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35,750 trâu-ḅ, 8,865 chiếc thuyền. 635 Lăng Hồ, Hoàng-Sa Trường-Sa, Lănh-thổ Việt-Nam” Tập-san Sử-Địa “Đặc-khảo về Hoàng-Sa và Trường-Sa”- Tam-Cá-Nguyệt San - Số 29 - Tháng 1, 2, 3 – 1975. NXB Khai-Trí, Sài-G̣n. Trang 66. Lăng-Hồ là bút hiệu của Giáo-sư Nguyễn-Khắc-Kham. 636 Chép lại nhiều đoạn trong Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư,Bản kỷ IX-23a và Đại-Việt Sử-Kư Toàn-Thư, Bản kỷ X-18a. 637 Quân-Lực Việt-Nam dưới các Triều-đại Phong-kiến (Từ Thượng-cổ đến Cận-kim) quyển I, Phạm-Văn-Sơn, Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH, 1968, trang 81. 638 Bài “Danh nhân đất Việt, Lê-Thánh-Tông”. Báo Nhân-dân Cập nhật 10:50 ngày 07-06-2004. 639 Pounds. 640 Phạm-Văn-Sơn, Quân-lực Việt-Nam dưới các Triều-đại Phong-kiến (Từ Thượng-cổ đến Cận-kim) quyển I, Bộ Tổng-Tham-Mưu QL/VNCH, 1968, trang 87. 641 Lê-Quư-Đôn, Kiến-Văn Tiểu-Lục. Có một bản dịch của Phạm-Trọng-Điềm, Nxb. Sử-học, Hà-Nội 1962. 642 Rhodes Of Vietnam - The Travels and Missions of Father Alexandre de Rhodes in China and Other Kingdoms of the Orient. Translated by Solange Hertz. The Newman Press - Westminster, Maryland, 1966. 643 Nguyễn-Huệ, Một Thiên-tài Quân-sự. Một Vài Sử-liệu về Bắc-B́nh-Vương Nguyễn-Huệ. Một nhóm Học-giả. Đại-Nam xuất-bản, 1992. Trang 83-127. 644 Li Tana “Southern Vietnam under the Nguyễn: Documents on the economic history of Cochinchina (Đàng-Trong). Singapore : Institute of Southeast Asian Studies, 1993. Bản dịch của Nguyễn-Nghị. Xứ Đàng-Trong, Lịch-sử kinh-tế - xă-hội Việt-Nam thế-kỷ 17 và 18: Luận-án Tiến-sĩ/ Li Tana. Sài-G̣n. 1999. 645 Xin xem chi-tiết bài viết của Thuần Lục trong các trang web: http://charm.ru/coins/vn/nagasaki.shtml & http://www.viettouch.com/numis/nagasaki.htm. 646 Hải-Quân Đàng-Trong thực-tế không mạnh bằng Hoà-Lan, chẳng qua là họ đă áp-dụng những chiến-thuật thuỷ-chiến “cảm-tử”, khác với loại chiến-thuật mà người Tây Phương (và cả người Trung-Quốc, Đài-Loan) quen sử-dụng vào thời đó. Hải-Quân Chúa Nguyễn dùng phương-pháp tiếp-cận sát, dùng móc câu-liêm để móc tàu địch lại, sau đó ùa quân qua bên kia boong để giáp-chiến... 647 Cuốn sách “Trần-Hưng-Đạo, Binh-Thư Yếu-Lược” NXB Quê Mẹ, Paris, 1988, trang 267. 648 Tạ-Chí Đại-Trường. Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam. Trang 221. 649 Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, Tạ-Chí Đại-Trường, trang 356. 650 Lịch-sử Nội-Chiến Ở Việt-Nam, trang 306. 651 Đại-Nam thực-lục chính-biên, NXB Khoa-học xă-hội, Hà-Nội, 1974. 652 Tạ-Chí Đại-Trường. Lịch-sử Nội-Chiến ở Việt-Nam, trang 230. 653 Phạm-Văn-Sơn ghi lại trong Việt-Sử Toàn-Thư, xuất-bản năm 1960, trang 591. 654 The Birth of Vietnam, Keith Weller Taylor, University of California Press, Berkeley, 1983. Trang 313. 655 Đại-Nam Nhất Thống Chí, Quyển Biểu Kinh Sư, trang 86 (Bản dịch: Nguyễn-Tạo, Sài-G̣n 1960. 656 C. E Bouillevaux L’Annam et le Cambodge, Voyages et Notices Historiques. Paris 1874, trang 392. 657 Sách “Dương-Sự Thuỷ-Mạt” có cho biết tên 5 tầu đó là: Kim-Đằng, Phấn-Bằng, Linh-Phụng, Thọ-Hạc, Vân-Bằng. 658 Bùi-Tiến-Hoàn, "Từ 1955 đến 1975, Hải-Quân Việt-Nam có được đặt đúng chỗ của nó không?" và nhiều bài viết khác. Một số bài Đăng trong “Tuyển-Tập Hải-Sử”. 659 Giáo-sư William Meacham từng viết một bài báo khoa-học mang tính tiền-phong trong ngành Khảo-Cổ-Học ở Đông Nam Á như: On the improbability of Austronesian origins in South China, đăng trong Tạp san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5. 660 Quang-cảnh tương-tự như đồng-bằng Bắc-Việt thời tiền-sử, chỉ có núi-đồi, g̣-đống nổi lên trên biển nước. 661 The Southeast Asian World, Keith Buchanan, New York, 1967, trang 45. 662 Malcolm F. Farmer. Origin and Development of Water Craft, trong báo Anthropological Journal of Canada 7(2), 1969: 22-26. 663 Băng-đá ở hai cực và các vùng núi cao tan ra nuớc. 664 Origins and Development of the Yüeh Coastal Neolithic trong The Origins of Chinese Civilisation, University of California Press, 1983: 147-175. 665 Một vài học-giả tin rằng họ Trần (Trần-Hưng-Đạo) thuộc một bộ-lạc hải-du vùng Phúc-Kiến. 666 Ư tác-giả muốn nói ngỡ-ngàng chăng? 667 Nguyễn-Văn-Tuấn. Nhân đọc “Eden In The East: Đặt Lại Vấn-đề Nguồn-Gốc Dân-tộc và Văn-Minh Việt-Nam. Lược-trích từ Tập-San Tư-Tưởng 668 Duyên-hải lúc đó chạy ra rất xa, tới giữa Biển Đông ngày nay. Dân-cư sống bằng hải-sản như ṣ-ốc, cua- cá. Họ di-chuyển bằng bè, ghe… 669 "World Ethnographic Sample... A Possible Historical Explanation”. báo American Anthropologist 70, 1968: 569. 670 Sumerien et Océanien, Collection Linguistique, Paris, 1929. 671 Carl Sauer. Environment and Culture During the Last Deglaciation, trong Proceedings of the American Philosophical Society 92.1: 65-77. 672 Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York 1952: 24-25. 673 Charles F. Keyes. "The Golden Peninsula”. New York, 1977 674 Có khi viết là Victor Goloubew. Bài viết của Ông trong Bull. de l'École Française d'Extrême Orient, 1929, t. 29. et 1940, t. 40. 675 Tài-liệu của V. I. Antoshchenko (Tạp-Chí Xưa và Nay) 676 New World perpectives on pre-European voyaging in the Pacific, sưu-tập Early Chinese Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol. 3, edited by Noel Bernard, New York, 1969. 677 Liên-Hiệp-Quốc đứng ra hỗ-trợ phong-trào này. 678 American Metallurgy and the Old World, sưu-tập Early Chinese Art and its Possible influence in the Pacific Basin, Vol. 3, Taiwan, 1972. 679 Avant-Propos- Esquisse d'une Ethnographie Navale des Peuples Annamites par Pierre Paris -Deuxième Edition, Rotterdam, Holland, 1955 680 Origin and Development of Watercraft, Malcolm F. Farmer, in Anthropological Journal of Canada 7(2) 1969, pp 22-26. 681 Diffusion versus Independent Development" sưu-tập "Man Across the Ocean", Austin, 1971. trang 10. 682 Kettledrums of Heger Type I : Some Observations, in Southeast Asian Archaeology 1986, edited by Ian và Emily Glover, BAR international Series 61, 1990, pp 195-196. 683 Edwin Doran Jr. Christian J. Buys & Sheli O. Smith. “Chinese Batten Lug Sails”, Mariner's Mirror, August 1980: 244-245. 684 The Sailing Ship, Six Thousand Years of History; Romola & R. C. Anderson, New York, 1963: trang 17- 31. 685 “Chinese Batten Lug Sails”, Mariner's Mirror, August 1980: 244-245. 686 Edwin Doran Jr. The Sailing Raft as a Great Tradition, sưu-tập Man Across the Sea: Problems of Pre-Columbian Contacts, edited by Carol L. Riley, Austin, 1971. Trang 135-138 687 Origin and Development of Water Craft, trong báo Anthropological Journal of Canada 7(2), 1969: 22-26. 688 Robert Temple. The Genius of China, 3,000 years of Science, Discovery and invention" xuất-bản ở New York, 1986 689 Joseph Needham, Wang Ling & Lu Gwei Djen. Science and Civilization of China" Vol.4. Cambridge, 1971 trang 600. 690 Françoise Aubaile- Sallenave. "Bois et Bateaux du Việtnam". Paris, 1987. 691 "Sewn-Plank Craft of South-East Asia - A Preliminary Survey" đăng trong Sưu-tập "Sewn Plank Boats- Archaeological and Ethnographic papers based on those presented to a conference at Greenwich in November, 1984", edited by Sean McGrail and Eric Kentley, Greenwich,1985. 692 Thanh-thư về Tàu-thuyền cận-duyên miền nam Việt-Nam "Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam”. Remote Area Conflict Information Center xuất-bản. Columbus, Ohio, 1967. 693 L'Annamite et la mer, 1942, Bulletins et Travaux, Institut Indochinois pour l'étude de l'homme, 5: 17-28 694 Pierre Paris. Esquisse d'une Ethnographie Navale des Peuples Annamites, Rotterdam, Holland, 1955. 695 Origin and Development of Watercraft, Malcolm F. Farmer, in Anthropological Journal of Canada 7(2) 1969, pp 22-26. 696 Thanh-thư về Tàu-thuyền cận-duyên miền nam Việt-Nam "Blue Book of Coastal Vessels, South Vietnam”. Remote Area Conflict Information Center xuất-bản. Columbus, Ohio, 1967. 697 Ling Shun-Sheng. Formosan Seagoing Raft And Its Origin In Ancient China (Translation). Bulletin of the Institute of Ethnology, Academia Sinica 1, 1956. 698 Xiếm này được làm một cặp gắn hai bên hông thuyền buồm. Sách cổ gọi là phù-bản, tác-dụng như cánh bay làm thuyền phi nhanh và giúp thuyền cân-bằng, không ch́m khi sóng to, gió lớn. Xem h́nh thuyền Tai-Ky. 699 Thanh-thư về Tàu-thuyền cận-duyên miền nam Việt-Nam, trang 73. 700 Early Man and the Ocean, New York, 1979. 701 Nguyên Văn: “Aux allures portantes, le navire gouverne tout seul et reste à l'angle de route des journées entières, sans qu'il faille corriger le gouvernail” (Connaissance du Việt-Nam, Hanoi 1954: Trang 232.) 702 Esquisse d'une Ethnographie Navale des Peuples Annamites, 1939, tái-bản tại Rotterdam, Holland, 1955: Trang 63. 703 Trống Đông-Sơn, Viện Khảo-Cổ-Học, Hà-Nội, 1987, trang 11 704 H́nh-ảnh lâu-thuyền đầu-tiên xuất-hiện trên trống đồng Heger loai I, 700 năm TTL. Sử Trung-Hoa lần đầu-tiên ghi việc sử-dụng lâu-thuyền (là loại Nam-phương lâu-thuyền) thời nhà Hán, đánh nhà Triệu (Nam-Việt). 705 Connaissance du VietNam, Pierre Huard et Maurice Durand, École Française d'Extrême-Orient, Hanoi, 1954. 706 Kuno Knobl, with Arno Dennig, (trans. by Rita & Robert Kimber). Tai Ki : To The Point of No Return. Boston: Little, Brown & Co., 1975. 707 Joseph Needham là nhà nghiên-cứu hàng đầu về khoa-học và kỹ-thuật Trung-Hoa. Ông khám-phá rất nhiều phát-minh về hàng-hải là do người Việt thực-hiện. Xem cuốn sách: Joseph Needham, Wang Ling & Lu Gwei Djen. Science and Civilization of China" Vol.4. Cambridge, 1971. Tài-liệu quan-trọng nằm trong Part III: Civil Engineering and Nautics. 708 The China Voyage Across the Pacific by Bamboo Raft. Tim Severin. Addison- Wesley Publishing Company, July 1995. --- |
|